CHƯƠNG 22
Karl Rolvaag nói: “Sáng nay trông bà dễ thương ghê, Nellie.”
“Nghe mấy gã đê tiện như ông khen, tôi thà treo cổ còn sướng hơn. Ông nghe tin về Pinchot khốn khổ chưa?”
“Nghe rồi,” thanh tra nói. “Họ tìm thấy nó chưa?”
Bà Shulman cứ nghiêng đầu sang trái rồi sang phải, cố nhìn vào bên trong căn hộ của Rolvaag.
“Pinchot khốn khổ không có ở đây đâu, bà Nellie.”
“Vậy cho tôi ngó qua một chút thì có phiền không?”
“Phiền chớ bà,” Rolvaag không muốn bà ta thấy cái bồn nuôi hai con trăn giờ đã trống trơn.
Bà càu nhàu: “Tôi sẽ không bỏ qua việc này đâu, ông dám bắt cóc một chú chó nhỏ tội nghiệp để thỏa thú vui bệnh hoạn. Dám ông còn quay video và tung lên mạng nữa!”
Cái bà già dở hơi này, Rolvaag thầm nghĩ.
“Tôi không đem chó của Bert Miller làm bữa ăn cho lũ trăn đâu,” anh nói, suýt nữa bồi thêm: Nhưng thỉnh thoảng cũng có tai nạn.
Bà Shulman nói: “Sao biết được. Rõ ràng ông rất thích nghe tiếng lũ chuột bé nhỏ rên xiết trong đau đớn. Một con Phốc sóc mà rên thì còn vui cỡ nào!”
“Đấy là một cáo buộc vô căn cứ.” Thanh tra cố nén một cái ách xì. Bà Nellie Shulman xài nước hoa gì mà mùi y như mấy bông hoa chết úng.
“Vậy tại sao ông không cho tôi vô? Hôm nay là sáng Chủ nhật, lòng hiếu khách của ông đâu rồi?”
“Bởi vì bà đã gọi tôi là tên đê tiện,” Rolvaag nói.
“Thì đúng ông là thế còn gì. Bất cứ kẻ nào nuôi rắn đều là phường đê tiện, bệnh hoạn cả,” bà ta cố lẻn vào nhưng thanh tra đã hạ vai xuống và chặn lại.
“Nhà Miller đang đau khổ vô cùng!” Bà nói.
Không cần những lời này thì Rolvaag đã cảm thấy tồi tệ lắm rồi. Anh đã bỏ ba tiếng đồng hồ để sục sạo gần như toàn bộ khu căn hộ Sawgrass Grove, nhưng chỉ tìm được mỗi một con rắn racer đen hung hãn. Và nó đã xực anh một phát ở ngón tay cái bên trái.
“Tôi thấy ông lảng vảng bên ngoài cả ngày hôm qua,” bà Shulman nói, “rõ ràng là để tìm thêm mấy con chó nhỏ ngon lành cho lũ trăn.”
“Nellie, dạo này bà lại uống lộn thuốc à?”
Bà chọc ngón tay vào khóa thắt lưng của anh. “Đừng nghĩ mình là cớm rồi muốn làm gì thì làm. Lầm to rồi. Chúng tôi sẽ đá đít ông ra khỏi căn hộ này như đã từng đá đít Neville, mà Neville còn là thầy trợ tế trong nhà thờ đấy!”
Gordon Neville, một kỹ sư đường cao tốc về hưu, đã bị đuổi khỏi Sawgrass Grove sau một trận shuffleboard tục tĩu ngoài giờ với hai cô nàng mà ông gặp tại buổi vật lý trị liệu ngoại trú ở Imperial Point.
“Chúng tôi đã đuổi ổng đi được, thì ông chúng tôi đuổi tốt,” bà Shulman thề.
Rolvaag đóng sập cửa trước mặt bà hàng xóm. Đang trên đường vào phòng ngủ, anh nghe tiếng sột soạt sau lưng. Anh hy vọng một trong hai con trăn đi lạc đã trở về, nhưng hóa ra vẫn là Nellie, bà đã nhét thêm một tờ rơi vào khe cửa. Vị thanh tra cầm tờ giấy lên và ngán ngẩm nhìn tấm ảnh.
TÌM MÈO LẠC!!!
Pandora đáng yêu của chúng tôi.
Mèo xiêm mắt xanh, cổ đeo vòng thạch anh.
Rất dễ nhận dạng: bàn chân phải có bảy ngón!
Nếu thấy, vui lòng trả về cho gia đình Mankiewicz ở Sawgrass Grove 17-G.
Phần thưởng: lòng biết ơn vĩnh cửu của chúng tôi!
Mình làm gì được bây giờ? Rolvaag tự hỏi. Lũ trăn đâu có đặt bẫy được như bọn gấu.
Công cuộc lùng sục của Rolvaag đã thất bại, giờ chỉ ngồi chờ cho lũ trăn tự xuất hiện. Thanh tra đã sớm quyết định sẽ không mang hai con thú cưng tới Minnesota, thời tiết ở đó là cực hình của lũ bò sát nhiệt đới. Nhưng để chúng nhởn nhơ ở Sawgrass Grove thì không chỉ nguy hiểm cho lũ thú nuôi trong khu căn hộ, mà chính chúng cũng sẽ gặp nguy hiểm. Nhiều người hàng xóm lớn tuổi khu này tỏ ra đồng cảm với bà Shulman, họ sẽ chẳng thèm kiên nhẫn kêu người tới tóm lũ trăn. Một cây cào vườn hoặc đầu dưới của cây gậy chống chân là đủ để con trăn lên thớt.
Rolvaag ăn sáng qua loa, tắm rồi soạn đồ đi qua đêm. Trong hành trang có tấm bản đồ khu vực nông nghiệp Everglades. Người cung cấp tấm bản đồ này cho anh là Marta, sếp của Charles Perrone tại sở quản lý nước. Bà đã giúp anh đánh dấu màu đỏ những đoạn đường đất và đê mà ngài Tiến sĩ Perrone vẫn thường đi lại để lấy mẫu thử nước thải. Dù bản đồ không cung cấp danh tính các chủ sở hữu nông trại gần khu vực ngập nước này, Rolvaag vẫn dùng bút chì khoanh vùng ước lượng những khu thuộc Nông trại Hammernut.
Thanh tra không ngạc nhiên khi thấy sự tương quan giữa vùng bút chì và vùng kẻ đỏ, nhưng anh cần phải tận mắt kiểm tra. Trước khi rời khỏi nhà, anh mở cửa nhìn ra sân vườn, với chút hy vọng mong manh là biết đâu lũ trăn biết tự tìm đường về nhà.
“Sao sáng giờ anh trầm ngâm dữ vậy?” Joey nói. “Dù bình thường anh cũng không nói nhiều mấy.”
Từ cửa sổ nhìn ra vịnh, họ thấy Rose đang vung mái chèo loạn xạ trên con kayak. Lật úp hai lần rồi đó chứ, nhưng nhất định tự học không cần ai giúp.
Stranahan nói: “Anh đã lấy mái chèo đập chồng em tối qua. Lẽ ra anh phải nói cho em biết mới phải.”
“Đừng cắn rứt quá. Nó rất giỏi chọc điên người khác mà.”
“Thậm chí anh đã nghĩ đến việc giết nó,” Stranahan nói.
“Vậy hả? Em nghĩ về việc ấy suốt.”
“Khác nhau mà em.”
“Em biết,” Joey nói. “Em chỉ tưởng tượng thôi. Còn trước đây anh đã từng làm luôn rồi.”
“Ừa.”
“Và anh cứ trằn trọc mãi về việc đó.”
“Mãi đến gần đây anh mới ngủ thẳng giấc được.”
“Chúng ta sẽ không giết Chaz hay làm điều gì đó tương tự. Chính anh đã nói vậy mà.”
Joey đặt lên môi Mick một nụ hôn, vừa đủ để làm anh choáng nhẹ. Rồi cô nói: “Cái này là để cám ơn anh trút giận hộ em. Anh xứng đáng có một huy chương.”
“Chưa quá muộn để thoát ra khỏi chuyện này. Hay mình trình báo cảnh sát thôi.”
“Em chưa muốn làm thế.”
Rose lại bị lật thuyền lần nữa và Đầu Đất hăng hái bơi ra giúp. Bọn mòng biển và nhạn biển đang kêu ỏm, vậy mà vẫn nghe tiếng cười sang sảng của Rose khi cô cố giúp con chó vụng về vô bờ.
“Vụ này có thể khiến cả đám tụi mình banh xác,” Stranahan nói, hầu như nói với chính mình.
Joey siết chặt tay anh: “Mọi thứ vẫn đang trong tầm kiểm soát mà anh.”
Stranahan không còn dám chắc. Danh sách người trong cuộc - bao gồm cả anh - đều vô kỷ luật và trong một chừng mực nào đó đều có bất ổn về tâm lý. Nảy sinh tình cảm với Joey là ví dụ sống động nhất: nó không hề có trong kế hoạch, nhưng Stranahan vẫn đâm đầu vào. Tình cảm càng tăng thì anh lại càng khao khát đập cho ông Tiến sĩ Charles Perrone kia phải mửa mật (và lý tưởng nhất là mửa ra lời thú tội). Stranahan cứ tự nhủ là mình phải bình tĩnh.
Joey nói tiếp: “Em biết là anh cũng đang nghĩ về tụi mình nữa. Ý em là tương lai của mình.”
“Thật xui xẻo, lý lịch của anh đã nói lên tất cả.”
“Nào, rõ ràng là em chưa từng ở cạnh ai như anh cả,” cô nói. “Nhưng em cá là anh cũng chưa từng yêu một ai như em.”
“Rõ ràng là vậy.”
Tối hôm trước, anh đố cô và Rose viết ra được tên của tất cả các thành viên của nhóm The Beatles. Trước đây, anh vẫn dùng trò này để kiểm tra mấy cô gái nhỏ tuổi hơn, ai không viết được thì thôi loại luôn từ vòng giữ xe. Kết quả Rose viết được ba trên bốn người, nhưng Joey Perrone thì đúng hết. Cô bảo nhờ coi một cái show của BBC phát trên History Channel. Đêm hôm ấy cô rảnh quá, vì Chaz bận bù khú với lũ bạn ở quán bar thoát y.
Stranahan buộc phải mỉm cười, vì làm sao còn quay đầu được nữa. Từ lúc Joey xuất hiện, anh không còn làm chủ được mình và có lẽ còn cảm thấy hạnh phúc. Một ngày nào đó cô sẽ rời khỏi đảo này, như tất cả những người phụ nữ trước đó và anh sẽ trở lại kiếp sống chậm chạp, yên bình cạnh con chó, chiếc thuyền và bộ đồ câu đã mòn. Cứ như vòng xoay của số phận, dễ đoán y hệt những lớp sóng ngoài kia.
Joey thúc nhẹ anh và nói: “Thôi nào Mick. Em nghe thấy tiếng anh nghiến răng.”
“Xin lỗi em.”
“Thư giãn nào, nghe không?” Cô cởi bộ đồ bơi trên người và kéo anh vào phòng ngủ. “Đó là lệnh,” cô nói.
Trong giấc mơ, Chaz Perrone thấy mình bị một con cá sấu tấn công. Con quái vật dài tới bốn mét rưỡi và có hai cái đầu, một cái đang xực chân bên trái và cái kia xực chân bên phải, cứ như là đang thi coi cái đầu nào táp tới háng trước vậy. Khi Chaz bừng tỉnh, nó sợ hãi đến mức rên thành tiếng. Và ở dưới chân giường, thằng Tool đang đứng im re, không bộc lộ một xúc cảm nào.
“Chỉ là ác mộng thôi,” Chaz nói, tự trấn an. Người ướt sũng mồ hôi, nó mong đó là hệ quả của giấc mơ hãi hùng, chứ không phải là một cơn sốt do nhiễm virus miền tây sông Nile. Đêm qua trước khi đi ngủ, nó đếm được tới 34 vết muỗi chích trên mặt và bây giờ mỗi vết chích ấy nhức nhối cứ như trúng độc.
Tool nói: “Má mày đang chờ trong điện thoại.”
“Chúa ơi, giờ là mấy giờ mà gọi? Nói bả tao gọi lại sau.”
“Mày tự đi mà nói, thằng khốn. Má mày đó nha, trời đất ơi.”
Chaz đã nhìn ra sự thay đổi đầy đe dọa của thằng Tool sau khi rời LaBelle. Ngẫm lại nó thấy có khi mình bậy thiệt, ai lại đi rủa nó ngay trước mặt Red Hammernut chứ.
Rời khỏi phòng, Chaz cầm ngay điện thoại lên và nghe một câu hỏi quen thuộc từ Panama City.
“Có gì mới không, con trai?”
“Không mẹ ơi.”
“Con vẫn ổn chứ?”
“Dạ hông mẹ. Có ngày nọ ngày kia mà,” Chaz trả lời giọng chua chát. Đến giờ, nó vẫn diễn vai đau thương, mất mát.
“Đừng có tuyệt vọng chứ con.”
“Mẹ à, đã chín ngày rồi. Không một ai có thể sống sót trên đại dương lâu thế mà không có thức ăn hay nước uống.”
“Hãy tư duy tích cực nào,” bà nói.
“Mẹ à, làm ơn đi.”
“Con chưa coi phim Cast Away à?”
Chaz Perrone tặc lưỡi. Mối quan hệ của mẹ con nó đã tan vỡ từ những năm mười tám đôi mươi, không phải vì bà đi thêm bước nữa với Roger, tay cựu phi công dở người. Bà đã nhận ra (và còn bình luận suốt) về việc con trai mình là một ca dậy thì thất bại. Danh sách những tính từ mà bà tả thằng con mình gồm: lười nhác, tự mãn, thiếu chí tiến thủ và mất khả năng nói thật. Nó bỏ ngoài tai những lời nhận xét của bà mẹ, bảo chỉ có điên mới đi nghe lời khuyên hướng nghiệp của một người tính tiền mòn mông ở Target. Sau khi Chaz nhận bằng Tiến sĩ tại Duke, bà mẹ mới nghẹn ngào xin lỗi vì đã trót nghi ngờ con mình. Nó ì xèo dằn dỗi không thèm tha thứ cho mẹ. Nhưng trên thực tế, nó chưa bao giờ coi cảm xúc của bà vào đâu, dù mắng chửi hay an ủi nó đều chẳng thấy xi nhê gì.
Nó thường xuyên gọi điện về hỏi han, nhưng chỉ xem đó như một hành động từ thiện. Ngược lại, bà mẹ đi đâu cũng tự hào hết cỡ vì đứa con trai độc nhất đã dùng kiến thức khoa học tài ba của mình để cứu Everglades thoát khỏi sự tàn phá của con người. Bày đặt tự do dân chủ, thật là thảm hại. Bà cũng rất thích Joey nữa, càng thêm một lý do nó hết muốn nói chuyện lúc này.
“Phép màu thỉnh thoảng vẫn xảy ra,” mẹ nó nói. “Roger và mẹ cầu nguyện cho con dâu mình mỗi đêm.”
Chaz thở dài: “Joey đi rồi mẹ à. Họ sẽ không tìm ra cổ đâu.”
“Hay con thử đi tìm một nhà ngoại cảm coi sao?”
“Không. Hay mẹ thử đi khám thần kinh đi?” Chaz cúp máy. “Bà khùng,” nó gầm gừ.
“Không ai nói chuyện với má mình vô lối như vậy hết.” Lại là thằng Tool, nó đứng thù lù ngay cửa như một đống gạch.
Chaz dại dột bảo nó chớ có xen vào chuyện riêng của mình. Và thế là Tool lao tới, nhấc bổng nó lên và dí vào tường. Chaz đã chuẩn bị tinh thần mềm xương rồi, nhưng Tool kéo tóc và dựng nó đứng thẳng lên.
“Bây giờ mày phải gọi lại ngay cho má mày,” nó nói, đặt điện thoại vào tay Chaz. “Gọi lại và nói xin lỗi. Nếu không tao đạp cho dập dái.”
Chaz lật đật làm theo và xin lỗi vì quá hỗn hào. Đấy tất nhiên là một việc làm khó khăn, nhưng còn hơn là bị thằng Tool cho một trận nhừ tử.
“Không sao đâu, Charles. Ba má hiểu mà,” bà trấn an nó. “Con đang căng thẳng quá thôi.”
“Dạ, mẹ không biết con mệt cỡ nào đâu,” nó nói.
“Mà con đã thử uống cây Thánh John chưa? Hồi đó Roger xài đỡ nhiều lắm.”
“Tạm biệt mẹ,” Chaz nhẹ nhàng cúp máy.
Tool lôi Chaz vào bếp và đặt nó ngồi trên ghế. “Tối hôm qua mày đi đâu đó?” Tool hỏi.
“Gặp bạn thôi.”
Chaz đang lựa thời cơ nói cho Tool nghe sự thật, là nó đã ra ngoài và thủ tiêu một mạng người đầy lạnh lùng, đầy hiệu quả. Nghe xong có khi con khỉ đột này sẽ không dám động tay động chân mình như hồi nãy. Nhưng nó vẫn còn e dè, bởi vì rõ ràng Red Hammernut sẽ không tán thành việc nó tự động trừ khử Ricca Spillman. Chaz có cảm giác Red không hề tin nó thực hiện bất kỳ nghĩa vụ gì, ngoài vụ bịa ra mấy mẫu thử nước thải.
Tool nói: “Mày đã lái xe ra khỏi đường lộ. Vì bánh xe còn đầy bùn.”
“Tao và bạn tao đi vòng vòng không được sao?” Chaz nói.
“Mày không được phép đi đâu mà không có tao hết.”
“Nhưng lúc đó mày đang ngủ và còn ngáy như đầu máy xe lửa.”
“Khẩu súng đâu rồi?” Tool hỏi.
“Sao tao biết được?”
Tool túm ngay cổ Chaz: “Tao hỏi cây súng chết tiệt đâu?”
“Trong ba lô,” Chaz hổn hển.
“Vậy cái ba lô chết tiệt đâu?”
“Trong xe,” Chaz đứa ngón tay chỉ ra lối đậu xe trước nhà.
Tool buông tay và đi ra cửa. Chaz xoa cổ, thầm tán dương bản thân tối hôm qua đã cẩn thận phi tang vỏ đạn và còn chùi sạch sẽ khẩu.38 sau khi hành động. Khi Tool trở lại, nó không hề tỏ ra nghi ngờ chuyện khẩu súng đã bị dùng. Thằng lông lá đặt khẩu súng lên bàn bếp và hỏi một câu đầy điềm tĩnh:
“Mày đã bắn ai?”
Chaz bắt đầu run, Tool vả vào mặt nó: “Phun ra, nhóc con.”
Rõ ràng mối quan hệ giữa hai đứa đã có sự thay đổi lớn. “Mày không được phép tẩn tao như vậy,” Chaz than phiền. “Mày là vệ sĩ của tao mà, trời ơi.”
Tool nắm đầu của Chaz lắc lắc: “Hết rồi. Giờ thì nói tao nghe mày đã bắn ai? Tao ngửi thấy mùi thuốc súng, đốc-tờ à và tao biết mày đã làm gì.”
Rồi xong, Chaz nghĩ. “Mày nhớ con nhỏ lái chiếc Ford nhỏ màu xanh không? Cái người đến đây hồi tuần trước ấy?”
“Tao nhớ. Mày bảo là y tá trị liệu đau buồn gì đó.”
“Đúng rồi. Nó đã gây ra chuyện tầy huầy nên tao phải giải quyết.”
“Thật không?” Tool hỏi.
“Nó tên là Ricca. Tao tin chắc là nó đã thông đồng với thằng chó tống tiền tụi mình. Nó chính là cái con mà mày đã thấy ở Flamingo.”
Tool nhăn trán: “Đâu có giống đâu.”
“Trời tối mà, mày bảo nó còn đội nón nữa.”
“Ừa, nhưng không phải nó đâu.” Tool nhớ lại người phụ nữ lái chiếc Ford màu xanh, lùn và đậm người. Còn con nhỏ đội nón thì cao và ốm hơn.
“Nghe tao đi,” Chaz nói. “Tao cần mày phi tang cái xe của nó rồi dọn dẹp căn hộ nó ở. Mình sẽ làm giống như nó hết tiền nên trả nhà.”
Tool nhìn Chaz đầy khinh bỉ: “Mày giết luôn hai con nhỏ mà mày từng ngủ. Mày bị gì vậy?”
“Coi nào. Mày có giúp hay không?”
Tool lấy một chai Mountain Dew ra khỏi tủ lạnh và tu một hơi: “Tao không còn là vệ sĩ của mày nữa.” Tool nhắc lại: “Từ bây giờ, tao là người giám sát mày. Red nói vậy đó. Nghĩa là tao có thể đập mày nếu như mày không chịu làm theo những gì tao biểu.”
“Giám sát ư?” Chaz lặp lại yếu ớt. Cái này còn ghê hơn những gì nó sợ. “Tao sẽ gọi cho Red liền. Mình phải làm rõ chuyện này.”
Tool thảy điện thoại di động của mình cho Chaz: “Phím tắt của ổng là 1. Bấm đi.”
Red Hammernut tỏ ra thông cảm, nhưng không bộc lộ cảm xúc gì. Lão bảo rất thấu hiểu cảm xúc của Chaz, nhưng áp lực của thằng tống tiền buộc ông O’Toole phải giữ một vai trò chủ động hơn. Chaz bắt đầu nhận ra: thằng cô hồn sẽ không còn bảo vệ mình nữa mà đang giam cầm mình. Phải, nó đã bị tống giam tại nhà.
Red Hammernut vui vẻ nói thêm: “Thư giãn nào, con trai. Sau khi tụi mình xử lý xong thằng chó chết tham lam kia, mọi thứ sẽ về lại như cũ.”
Chaz nghi lời hứa đó quá. Nó hỏi: “Thế ông sẽ trả tiền cho nó chứ?”
“Trả chứ, đừng có lo.”
Sau khi Red nói tạm biệt, Chaz trả lại điện thoại cho Tool. Thằng Tool hỏi: “Sao mày không nói vụ mày đã giết thêm một con nữa?”
Chaz quay mặt đi: “Ờ, tại tao quên.”
“Đừng bước chân ra khỏi nhà mà không có tao. Nghe chưa?”
“Tuân lệnh,” Chaz nói, hy vọng thằng Tool sẽ không nghe thấy sự mỉa mai trong giọng mình. Nhưng không, Tool lập tức dộng một cú vô đầu nó và yêu cầu nó phải tuyệt đối phục tùng.
Chaz co rúm người, đưa tay lên che đầu. Nó đang ốm và còn bị đập cho nhừ tử, đầu tiên là thằng khốn tống tiền và bây giờ là tên người rừng lông lá. Đời nó chưa bao giờ thương tích tả tơi đến thế sau cái đêm quá chén rồi trượt chân té cầu thang ở trường nữ sinh bên Durham.
“Tha cho mày đó,” Tool nói, rồi đi ra vườn trồng thêm một cây thánh giá. Nó nhổ cây này ở Cao tốc 27 trên đường từ LaBelle trở về.
Chaz cố làm một ly cà phê để trấn tĩnh. Nó chẳng phải mẫu người hay suy tư, chiêm nghiệm nhưng ngay lúc này nó buộc phải rà soát lại những sự kiện đã diễn ra mấy ngày qua. Rõ ràng sự tín nhiệm của Red Hammernut dành cho nó đã rớt thảm hại. Không biết Red có còn giữ thỏa thuận cũ hay không nữa. Để dụ Chaz nhận lời bịa đám số liệu, Red đã hứa sẽ cho Chaz một vị trí ngon lành trong Nông trại Hammernut - chuyên viên sinh học, lương khủng, văn phòng to, thư ký tóc vàng dâm đãng, nói chung là mọi thứ nó muốn. Thỏa thuận là vậy, còn ăn nhậu bắt tay chắc kèo lắm kia mà.
Vậy mà giờ đây… có vẻ như Red đang đổ vấy cho Chaz mọi tội lỗi, từ vụ tay thanh tra lắm chuyện rình mò đến thằng tống tiền đòi ói ra nửa triệu đô. Tất nhiên nếu không hất vợ xuống biển thì đã không xảy ra những việc ấy. Nhưng làm sao nó ngờ được giữa thanh vắng lại có một đứa chứng kiến hết mọi chuyện?
Nếu Red vì chuyện này mất niềm tin ở nó thì thật là bất công quá. Bất công hơn khi giao nó cho một thằng mọi rợ như Tool quản lý. Xem xét mọi việc kỹ càng, Chaz thấy rõ ràng Red đã coi thường mình, không khác gì bà mẹ ruột khinh miệt nó mấy năm trước. Nó dám cá là Red sẽ rút lại những nhận định vội vàng của lão nếu biết chuyện đêm qua ở Loxahatchee. Chaz xử lý Ricca nhẹ như không. Red sẽ phải ấn tượng, thậm chí còn nể luôn ấy chứ.
Nhìn Tool trồng thêm một cây thánh giá ở trong sân, Chaz chột dạ nghĩ đến việc Red bắt đầu xem mình như một món nợ thay vì một tài sản.
Và nó thừa biết một người như Red sẽ làm gì với những món nợ của mình!