CHƯƠNG 23
Joey và Mick Stranahan đã đứng đợi một lúc lâu trước khi chiếc chuyên cơ của Corbett Wheeler hạ cánh tại Tamiami. Người anh trai của Joey bước ra với chiếc áo khoác dài màu đen, mái tóc màu hung vàng xổ ra dưới cái mũ da rộng vành, cùng hàm râu có vẻ không được chăm chút mấy. Anh chống chiếc gậy được dân câu cá ưa chuộng. Cao hơn Stranahan hẳn năm phân, Corbett Wheeler bắt tay đầy ngụ ý về mối quan hệ nhạy cảm của đôi bên. Rồi anh dùng cánh tay gân guốc xoay em gái mấy vòng cho đến khi cô cười khúc khích. Trên đường về Dinner Key, anh vui vẻ khoe mấy tấm hình Polaroid chụp Celine, con cừu lai Coopworth-Đông Friesia, sống sót ngoạn mục sau căn bệnh thối chân kinh khủng. Và từ đó, nó trở thành con vật lai giống xịn nhất trong đàn của Corbett.
“Con bé nhìn cưng ha?” Anh hăng hái nói.
Mick và Joey quyết định xem đó là một câu hỏi tu từ. Corbett Wheeler quay sang tâm sự thêm với Stranahan: “Đây là những tạo vật hiền lành nhất trái đất. Nghe hơi lập dị nhưng tôi thích ở cạnh chúng hơn đồng loại mình.”
Stranahan bảo anh hoàn toàn hiểu được điều đó.
“À, không phải dạng gần gũi biến thái đâu nhé, nói kẻo anh hiểu lầm,” Corbett nói thêm đầy nghiêm túc. “Không tin anh hỏi Joey ấy.”
Cô phụ họa: “Đúng rồi. Corbett vẫn mê gái. Ảnh kết hôn đâu ba hay bốn lần ấy, anh nhỉ?”
Người anh trai gật đầu ra chiều hối tiếc, “Ừa, nhưng cũng chẳng ai sống chung nổi. Tôi tôn sùng sự cô độc.”
“Vậy anh sẽ thích mê cái đảo của tôi cho xem,” Stranahan nói.
“Ừa, nhưng trước tiên cứ lên thuyền đã.”
“Anh của em xịn quá,” Joey nói.
Corbett Wheeler tháo mũ ra: “Miễn là em vui, cục cưng.”
Sau màn mua sắm nhiệt tình tại Galleria Mall hết ba tiếng, họ đứng ở gần đuôi cánh quạt con M.V. Sun Duchess. Con tàu khổng lồ đang neo tại cảng Everglades, đợi mặt trời lặn. Anh trai của Joey nhìn qua thanh chắn trên boong, dùng cây gậy chỉ xuống: “Chúa Toàn Năng ơi, anh không thể tin là từ trên này ngã xuống mà em không chết.”
“Em chuyển tư thế thành động tác lặn,” Joey giải thích. “Bốn năm trong đội bơi của trường cao đẳng đã cứu em.”
Stranahan để ý thấy cô hơi ngại ngần khi đứng gần mạn du thuyền. Anh hỏi thì cô bảo mình vẫn ổn: “Cũng hơi sợ một chút thôi, nhưng không sao đâu anh.”
“Tụi mình không nhất thiết phải làm việc này,” anh nói.
“Sao lại không chứ?”
Vẫn nhìn xuống mặt nước, Corbett Wheeler huýt sáo: “Là anh thì có lẽ đã tèo rồi.”
“Nếu là anh thì đời nào anh cưới cái đứa sẽ đẩy mình xuống biển,” Joey nói.
Anh trai rụt vai: “Quan hệ của loài người luôn phức tạp mà. Nên anh chuyển sang chơi với động vật cho lành.”
Stranahan quan sát cuộc diễu hành miên man nào là tàu kéo, tàu chở hàng và tàu đánh cá. Nếu được ngồi trên con thuyền nhỏ của mình mà lướt trên những lằn sóng va đập ngoài kia có lẽ sẽ thú vị.
“Anh thuê nguyên cái du thuyền này hả?” Anh hỏi Corbett Wheeler.
“Thuê một đêm à.”
Joey hỏi hết bao nhiêu tiền và Corbett bảo cô đừng quan tâm. “Một trong mấy cái động cơ trên thuyền đang bảo dưỡng, nên thấy anh đề nghị, tụi nó mừng hết lớn. Ngày mai họ sẽ cho thuê boong Commodore làm quán bar!”
Joey đội mũ bóng chày và đeo mắt kiếng để không bị thủy thủ đoàn nhận ra. Đọc báo cô biết Chaz đã cung cấp hình ảnh của cô cho tất cả thành viên trên tàu sau cuộc mất tích.
Tay cô cầm một cặp túi shopping to đùng. “Mick, anh sẵn sàng chưa?”
“Hay làm một ly cocktail trước nhỉ?” Anh trai của Joey vui vẻ gọi ý.
“Amen.” Mick Stranahan nói.
Tool ngồi xuống cạnh giường bệnh của Maureen và thì thầm: “Bà ơi.”
Mắt bà mở he hé. Khi bà mỉm cười, Tool để ý thấy môi của bà khô và nứt nẻ. Nó bất giác lo âu: không biết có phải bà trúng thực vì ăn thịt cá sấu do nó chế biến đêm trước không.
Nó hỏi: “Mấy cái này là gì vậy?”
Một ống thở oxy được cắm thẳng vào lỗ mũi bà. Một túi nhựa đầy chất lỏng treo cạnh lan can giường, phía trên là một ống dẫn đi vào tĩnh mạch, từng giọt đang nhỏ xuống tay.
“Ta vừa qua một cú nặng con à,” bà nói yếu ớt.
Tool cố nuốt xuống, nhưng thấy nghèn nghẹn cổ. Nó nhìn xuống hộp giấy bạc trên đùi mình. “Con mang cho bà một miếng bánh chanh của Key.”
“Cám ơn, Earl. Để ta ăn sau nhe.”
“Rốt cục là chuyện gì vậy?” Nó lo âu hỏi.
“Không có gì đâu con, bệnh tình nó vậy mà.”
“Nó vậy? Vậy là sao?”
Maureen nói: “Thì lúc lên lúc xuống đó Earl. Có ngày kia ngày nọ.”
Bà vươn tay, vuốt đám lông rậm rạp trên tay nó. Nó bấu vào thành giường chặt đến mức mấy ngón tay trắng nhợt ra.
“Công việc vệ sĩ của con sao rồi?” bà hỏi. “Kể ta nghe về cuộc gặp quan trọng đêm hôm trước đi.”
Tool nói: “Thôi bà nghỉ ngơi đi, đừng nói chuyện nữa.”
Nó đặt hộp bánh lên tủ đầu giường và vớ lấy cái điều khiển TV. Nó chuyển kênh liên tục cho đến khi tìm thấy một show về động vật. Chương trình đang nói về bọn bồ nông trắng, nó nghĩ Maureen sẽ thích xem. Tool nhớ bà từng kể hồi trước khi vào viện, bà rất thích ngắm bọn chim chóc. Bà còn khoe có lần nhìn thấy một con chim gõ kiến cánh đỏ, cùng loại với gõ kiến đầu đỏ gần như đã tuyệt chủng. Bởi vậy Tool tin chương trình gì có chim chóc là bà sẽ thích.
Đúng thật, vì vừa nhìn thấy là Maureen đã ngẩng đầu lên, kê cái gối cao hơn để xem cho rõ. Bà nói: “Con có nghe không, Earl? Bọn nó bay từ Canada sang tận vịnh Florida. Lũ bồ nông trắng này ngầu thật.”
“Dạ, quá ngầu,” Tool nói.
Maureen bắt đầu ho, một cơn ho dữ dội làm thằng Tool phát hoảng. Nó đỡ bà dậy, vỗ vào giữa bả vai, nhưng chỉ làm cho bà rên rỉ thêm. Nó nhẹ nhàng đặt bà nằm xuống gối. Nghe tiếng ho của Maureen, một y tá bước vào phòng và hỏi nó đang làm gì ở đây.
“Không có gì đâu. Cháu tôi ấy mà,” Maureen nói, cố lấy lại hơi thở.
Y tá là một phụ nữ nhỏ con người Latin, cô vật lộn tìm kiếm mối liên hệ giữa bộ dạng to lớn dị thường và chiếc áo blouse trắng mà nó đang mặc.
“Nó là bác sĩ đó,” Maureen nói thêm.
“Ôi thật ư?” Y tá hỏi lại.
“Thật. Từ Hà Lan về.”
Khi người y tá rời đi, Maureen nói: “Thông thường ta không thích nói dối. Nhưng không bảo thế, con nhỏ sẽ gọi bảo vệ tới.”
Tool hỏi: “Con cháu của bà đâu? Sao họ không đến thăm?”
“Mấy đứa con gái ta sống tận Coral Gables ấy, xa lắm. Tụi nó còn phải chăm con nữa. Ta hay đến thăm chúng vào kỳ nghỉ.”
“Xa gì mà xa,” Tool nói. “Ra xa lộ đi phát tới ngay mà. Ít ra cũng phải tới thăm vào cuối tuần chứ.”
“Con có cần thêm thuốc không?”
Vất vả lắm Maureen mới xoay mặt vào tường được. Áo bệnh nhân hở phía sau lưng, lộ ra nước da xỉn màu, nhợt nhạt. Tool nhận ra mấy miếng dán fentanyl đều đã bị gỡ bỏ. Bà nói: “Cứ lấy đi.”
“Họ tháo nó đi rồi.”
“Ồ,” bà quay lại và nhìn vào mặt nó. “Ta xin lỗi, Earl. Có lẽ họ đã lột nó ra sau khi quyết định tiêm cho ta liều morphine.”
Bà hướng mắt về túi dịch. “Họ tăng liều lên để ta không làm phiền bọn y tá. Mà có phiền gì đâu, bọn nó suốt ngày ngồi nói xấu chồng và đọc National Enquirer .”
Tool nói: “Con không cần thêm miếng dán. Con chỉ đến thăm bà thôi.”
Đấy là sự thật, vì nó đột nhiên thấy nhớ bà quá. Đấy là một cảm xúc chết tiệt mà nó không ngờ tới.
“Ta nghĩ vẫn còn một miếng trong ngăn kéo,” Maureen nói. “Con lấy đi.”
Quả nhiên còn một miếng, vẫn nằm trong giấy bọc. Chuyện quái gì thế này, Tool suy nghĩ về thứ cảm xúc của mình. Nó bỏ vào túi áo.
“Earl ơi!”
“Dạ.”
“Con có tâm sự hả? Chuyện gì thế?”
“Dạ đâu có,” Tool nói.
“Con có mà, chàng trai trẻ. Nói ta nghe đi.”
Tool đứng dậy. “Bà ngủ đi,” nó quyết định sẽ không kể về việc Perrone đã bắn con bồ và những chuyện còn lại. Maureen sẽ không thể nào hiểu được, mà nó cũng không muốn làm bà phiền lòng.
Một lần nữa, bà với lấy tay nó. “Không bao giờ là quá muộn để chọn một hướng đi mới. Người ta bảo quay đầu là bờ đó. Hãy hứa là con sẽ suy nghĩ về việc đó.”
Nó nói: “Bà sẽ khỏe lại thôi. Tụi bác sĩ sẽ cho liều mạnh hơn. Con sẽ lo liệu chuyện đó.”
Maureen khép mi mắt lại. “Nghe lời ta nhe, Earl. Con chỉ nên nghĩ về chính bản thân mình. Đời trôi nhanh kinh khủng và mỗi thời khắc lãng phí là một tội ác.” Bà cố mở một con mắt xanh biếc ra nhìn nó. “Và mọi tội ác đều là một thời khắc lãng phí.”
Tool hứa với bà sẽ tránh xa những rắc rối. “Con sẽ làm xong việc sớm, rồi trở về nhà.”
“Nhưng mà sao ta có linh cảm xấu quá,” bà nói.
“Đừng mà, bà. Bà đừng có lo.”
Trời ơi, sao mà nó thấy khó chịu quá, khó chịu vì cứ phải bận lòng vì một người đàn bà hoàn toàn xa lạ. Bà ta không giống một chút nào với mẹ nó, một người mẹ nóng tính, ồn ào, chửi như hát hay. Nhưng nhìn Maureen trùm chăn lên tận cằm, sao mà nó cảm nhận một nỗi quan hoài y hệt, một cảm giác mất mát nặng nề y hệt hồi mẹ nó trở bệnh.
“Mà con đã đi mổ chưa vậy?” Maureen hỏi.
“Chưa nữa. Dạo này con bận quá.”
Bà lấy những ngón tay khẳng khiu của mình chụp lấy chùm lông tay của nó và ghì cho đến khi nó la lên.
“Earl à, con không thể cứ đi lòng vòng với một viên đạn dưới mông. Nó sẽ ảnh hưởng đến tướng mạo của con đó.”
Tool kéo tay mình ra. “Con sẽ đi mổ sớm, con thề đó.”
“Đó có thể là khoảnh khắc thay đổi đời con,” bà nói. “Họ gọi đó là sự thức tỉnh, hoặc chí ít là thanh tẩy.”
Nó đoán hai từ vừa rồi là thuật ngữ chuyên môn về phẫu thuật gắp đạn ra khỏi người. Và nó hứa với Maureen sẽ lên lịch mổ ngay sau khi nghỉ công việc vệ sĩ.
“Cuối tuần này con quay lại,” nó hứa.
Bà nhìn nó ấm áp. “Con có cầu nguyện không, Earl?”
“Dạ cũng lâu rồi con chưa ạ,” nó thừa nhận. Mới có ba mươi năm chứ mấy.
“Ừa, không sao.”
“Thôi, con đi nha.”
“Mỗi lúc niềm tin bị lung lay, ta đều nhìn lên bầu trời xanh cao rộng và chiêm nghiệm sự hiện hữu của Chúa. Hãy tưởng tượng mà xem, một con chim có thể bay ngàn dặm từ Manitoba đến Key West. Bay vào mỗi mùa đông!”
Tool xoay người về phía TV. Một bầy bồ nông trắng như tuyết đang bay, cất cánh từ bề mặt gợn sóng của đầm lầy. Nó tưởng tượng thấy lũ chim như một bờ biển trắng đang vỡ ra thành từng mảnh và bay theo làn gió.
“Một ngày nào đó, con phải tận mắt chứng kiến cảnh này,” Tool nói.
Rồi cánh tay của Maureen tuột khỏi tay nó. Nghe hơi thở nặng nhọc kia, nó biết bà đã mệt quá mà thiếp đi. Nó chưa đi, mà ngồi lại xem cho hết chương trình rồi tắt TV. Lúc rời khỏi phòng, người y tá rảo bước theo và hỏi nó có thật là cháu của Maureen không.
“Tôi chẳng thấy hai người có gì giống nhau cả,” y tá nói.
“Vâng, tôi là cháu nuôi mà,” Tool nói.
“Thế à. Và ở Hà Lan ông làm dược sĩ à?”
“Không, là bác sĩ,” nó khẳng định.
“À.”
Con quỷ cái nhiễu sự, Tool thầm nghĩ rồi chui vào trong chiếc Grand Marquis. Tưởng dễ bẫy ông lắm à!
Cách đó mười lăm dặm, tại Trung tâm bảo tồn động vật hoang dã Loxahatchee, một người đàn ông chột mắt đang lột da xác con rái cá. Gã cao lớn, hai bàn tay to bè và làn da nâu như yên ngựa. Gã mặc quần yếm, mang giày quân đội, đội một chiếc mũ tắm màu đục và diện chiếc áo phông mòn thấy vải có in hình cái lưỡi thè ra dâm dục. Râu của gã bện lại, lấm tấm bạc, lại điểm thêm màu xanh của mớ bèo khô vương trên ấy. Gã trông cổ quái và tưng tửng, nhưng động tác lại thuần thục như quân nhân hoặc vận động viên. Trên thực tế, gã từng là cả hai.
Con rái cá bị một kẻ săn trộm giết chết vài giờ trước đó. Kẻ đi săn không hề biết mình đang bị gã chột theo dõi. Gã dễ dàng tước vũ khí của y, lột y trần truồng, lấy cỏ dại cột cổ tay và mắt cá tên thợ săn rồi ném đương sự ngay miệng hang cá sấu.
Ricca Spillman đã chứng kiến tất cả điều đó.
Con nhỏ đang lạc trôi trong một trạng thái lơ mơ. Đã hai ngày rồi, vậy mà nó cũng không dám cả quyết là gã chột mắt kia có tồn tại thật không và phải chăng chính gã đã cứu mạng nó.
Gã thông báo họ sẽ cùng chén con rái cá đã chết, chứ bỏ xác nó ngoài kia cho lũ diều hâu thì phí quá. Con nhỏ hỏi về số phận của tên săn trộm, gã đáp: “Nếu tụi cá sấu không thịt nó thì có thể tôi sẽ ra cắt dây trói và thả nó đi. Còn tùy vào thái độ của nó.”
“Vậy còn tôi thì sao?”
Gã không trả lời, lưỡi dao lóe sáng khi gã khéo léo lóc thịt con rái cá khỏi bộ lông dày ẩm ướt. Sau khi lột da con vật, gã nói: “Kể lại tôi nghe chuyện thằng bồ coi.”
Ricca kể lại chuyện của Chaz Perrone trong khi gã nhóm lửa. Thịt rái cá có cái mùi lạ quá, nhưng vì đói lả nên con nhỏ vẫn xơi tất. Gã kia thì ăn sạch sẽ mọi thứ trên chảo, còn nhai cả xương rôm rốp. Rồi gã đá đất tơi dập lửa, chùi tay dơ lên đít quần yếm và dùng chính bàn tay ấy bồng Ricca lên.
“Chân cẳng sao rồi?” Gã hỏi và lê bước chậm chạp qua những bụi rậm.
“Đỡ nhiều rồi. Mình đang đi đâu đây, Đại úy?”
Gã đội mũ tắm đã yêu cầu cô gọi mình như vậy.
“Có một cái trại khác ở gần đây,” gã bồng Ricca nhẹ hẫng như một cái gối bông.
Con nhỏ hỏi: “Bao giờ tôi mới được về nhà?”
“Giọng cô em nghe êm quá. Làm tôi muốn sà vào vòng tay cô ngủ một giấc.”
“Ông sẽ dẫn tôi về đúng không? Làm ơn đi!”
“Xin lỗi,” gã đáp, “nhưng tôi không thể đến gần đường quốc lộ. Đừng có hỏi tại sao, xe cộ làm tôi mất hứng.”
Chỗ cắm trại tiếp là một khu đất trống nhỏ cạnh mấy cây cọ lùn. Gã đặt Ricca lên mặt đất, tiếp tục nhóm lửa, hâm cà phê. Từ một túi xách vải có ghi Bưu điện Hoa Kỳ, gã rút ra tập thơ.
“Oliver Goldsmith,” gã nói.
Ricca nhướn chân mày khó hiểu. Gã mở quyển sách ở trang đánh dấu, đặt lên đùi con nhỏ, nói: “Đọc lớn lên nào.”
“Đọc hết luôn hả?”
“Khổ đầu thôi.”
Với niềm đam mê thơ ca dừng lại ở *Green Eggs and Ham*, nó lẩm nhẩm đọc khổ đầu tiên:
Khi cô gái đang yêu khờ dại
Bỗng nhận ra mình bị dối lừa
Làm sao mắt khỏi sa mưa
Nước nào gột rửa tội tình trần ai
Khi con nhỏ đọc lớn khổ thơ trên, gã đàn ông đội mũ tắm mỉm cười nhẫn nại.
“Nghe đọc là biết không mê văn thơ gì rồi,” gã nói.
“Ông nhà thơ này đang nói về tội tình gì vậy? Tôi không thấy tội lỗi gì, chỉ thấy bực bội…”
“Cũng dễ hiểu. Vì thằng chó đẻ đã bắn cô.”
“Và nó nói dối nữa. Về tất cả mọi thứ.”
Rồi gã vớ lấy tập thơ và bỏ lại vào túi vải thô.
Ricca nói: “Tôi khao khát muốn được trả thù. Ông sẽ giúp tôi chứ?”
Người đàn ông gỡ con mắt thủy tinh ra khỏi hốc mắt, chùi nó bằng mép áo phông. Gã nghe thấy mấy tiếng súng nổ cách khoảng nửa dặm, liền lội nước qua đám cỏ cưa lẫn bùn phân, nửa chạy nửa bơi. Tới nơi thì kẻ cầm súng đã đi mất, chỉ còn lại cặp đèn hậu màu đỏ mờ dần phía triền đê. Ricca lúc ấy đang tuyệt vọng bám vào bụi hoa súng để không bị chìm. Gã chột tìm được vị trí của con nhỏ nhờ tiếng hớp không khí mỗi lần cô trồi được môi và mũi lên mặt nước. Dẫu cả người run rẩy và vết thương thì đang chảy máu, nó vẫn chống lại sự tiếp cận của gã, vì nghĩ gã là một con thú dữ trong đầm lầy.
“Xin lỗi, nhưng tôi không giúp được. Tôi cũng đang gặp một vấn đề cá nhân rất nghiêm trọng,” gã nói.
“Ý ông là sao?”
“Trước tiên, tôi cứ nghe bài Midnight Rambler của Eydie Gorme và Cat Stevens văng vẳng trong đầu mình, cả ngày lẫn đêm. Tôi biết đấy là một bài nhạc đồng quê rất hay, nhưng có lúc tôi muốn cắt phéng cuống họng của mình cho rồi. Chỉ cần một giờ đồng hồ lặng yên là quá đủ,” gã nói giọng đăm chiêu.
Ricca hết dám mở miệng. Cái lỗ trống hoác nơi con mắt bị hư nom như một cái hang đen ngòm đáng sợ.
“Nhưng ghê nhất là tôi cứ bị ảo giác gần như liên tục,” gã tiếp tục. “Thí dụ, tôi cho là ở ngoài đời cô không có gì giống Lady Bird Johnson.”
“Là ai vậy?” Ricca hỏi.
“Phu nhân của đời Tổng thống thứ 36. Chính ông ta đã buộc tôi phải tham chiến ở Việt Nam,” gã giải thích. “Với tôi, cô giống y hệt bà ấy. Nghe có vẻ vô lý, nhưng tôi quả thực thấy vậy. Cô rõ ràng trẻ hơn nhiều, có tàn nhang và tóc lại xoăn nữa. Vậy mà nhìn cô, tôi chỉ thấy Lady Bird.”
“Ông biết mình cần gì không? Một bác sĩ.”
Gã đàn ông chột mắt mỉm cười và Ricca ngỡ ngàng nhận ra trước khi trở nên điên loạn, người này hẳn phải rất đẹp trai. Vì ngay lúc này đây, con nhỏ còn nhìn thấy gã có chút quyến rũ.
Gã nói: “Hẳn là tôi sắp chết.”
“Không có đâu, Đại úy.”
“Vào lúc khác, có lẽ tôi sẽ muốn tóm lấy cơ hội này,” gã nói, “cơ hội săn lùng gã bạn trai bạc bẽo của cô, lôi nó tới đây nói chuyện phải quấy. Tôi sẽ không trả thù kiểu sách vở, mà dạy cho nó thế nào là sinh tồn. Cô phải hiểu, chỉ có một công thức để sống sót trên hành tinh này và những đứa như Chad…”
“Chaz nha,” Ricca nói.
“… sẽ vô dụng nếu như không có vớ sạch, chỉ nha khoa và máy điều hòa. Tên thợ săn hạ đẳng mà tôi bắt trói sáng nay còn có kỹ năng sống tốt hơn Chaz, đúng không?” Gã ngoáy tai. “Trời ơi cái giọng hát kinh khủng kia, nó không chịu dừng.”
“Tôi có nghe gì đâu.”
“Tuần trước là David Lee Roth và Sophie Tucker. Lũ cá trong kênh rạch này có lẽ đã nhiễm thủy ngân cả rồi,” gã rướn người và nhìn chằm chằm vào ngọn lửa ít lâu. “Cô nói thằng bồ làm việc ở đầm lầy này hả?”
“Đúng rồi. Nó thử mức độ ô nhiễm của nước thải nông trại.”
“Vậy mà tôi chưa bao giờ chạm mặt nó,” gã cười và lấy con mắt thủy tinh nhét lại vào hốc mắt. “Tôi chỉ có thể bồng cô đến phía kia của đầm lầy. Ở đó, một người bạn của tôi sẽ lái xe đưa cô về lại thành phố.”
“Rồi sao nữa?” Ricca hỏi.
“Còn tôi sẽ đi về phía tây,” gã đưa cho cô một tách cà phê. “Bữa trước đói quá, tôi đã ăn sạch một con rắn lục. Bình thường tôi có bao giờ đụng đến lũ bò sát đâu, nhưng bản năng thôi thúc mạnh mẽ quá. Tôi đã tóm lấy con vật bé nhỏ ấy và đột nhiên tôi thấy gương mặt của Henry Kissinger đang nhìn mình, còn lè lưỡi vào mặt mình nữa. Kissinger chết tiệt!”
Ricca Spillman cũng chưa từng nghe đến cái tên này nốt, nhưng con nhỏ vẫn lịch sự hỏi: “Vậy ông làm gì với nó?”
“Tôi nhai đầu nó, tất nhiên,” gã nói, “và nướng giòn bộ vảy của nó trong dầu cải. Ý là tôi đang trải qua một giai đoạn tồi tệ trong cuộc sống. Tôi thực sự không thể ở gần cao tốc, hay đám đông, mà nói chung là loài người. Tôi cầu mong Chúa sẽ giúp cô, chứ tôi là không giúp được rồi đó.”
Ricca nói: “Cũng được. Vậy tôi sẽ tự tìm cách.” Nó tự hỏi câu chuyện con rắn có phải là một bài học thần bí nào đó không.
Cứ như thể đọc được ý nghĩ của con nhỏ, gã nói: “Hãy đi theo tiếng lòng của mình, cưng à. Đơn giản vậy thôi.”
“Tôi đang cố đây.”
Dập lửa xong, người ẩn sĩ xốc con nhỏ lên và băng qua đầm lầy. Một tiếng đồng hồ đi bộ dưới cái nắng chang chang, nhưng gã tuyệt không hổn hển một chặp nào cho đến khi tới được bờ đê. Một con Jeep dính đầy bùn đã đậu sẵn trên mặt đường. Một người đàn ông trẻ hơn đang chờ sau vô lăng. Anh ta đội mũ len sát đầu, đeo kính râm, nhìn khẩn trương, căng thẳng.
Đại úy hôn lên trán Ricca và bảo con nhỏ phải cẩn thận với cái chân bị bắn.
Con nhỏ hôn trả lại và nói: “Cám ơn đã cứu mạng.”
Người đàn ông chột mắt chào kiểu nhà binh: “Đấy là vinh dự của tôi, thưa bà Johnson.”