CHƯƠNG 24
Tiến sĩ Charles Regis Perrone ngồi sau vô lăng chiếc Hummer, con xe lắc lư xuống triền đê với tốc độ nhanh khủng khiếp. Cứ chốc chốc nó lại thò đầu ra ngó lên bầu trời ken đặc trực thăng. Đó là cảnh tượng quái đản nhất mà nó từng thấy, trực thăng vần vũ trên trời Everglades cứ như đám chuồn chuồn khổng lồ sặc sỡ.
Chaz có cảm giác mình như nhân vật mà Ray Liotta đóng trong GoodFellas , chạy vòng quanh như một gã mất trí với súng ống đầy mình, tự hỏi chiếc trực thăng đuổi theo mình là thật hay tưởng tượng. Chỉ có điều trong phim, cảnh rượt đuổi diễn ra trên nền nhạc của Harry Nilsson, còn ở đây thì Papa Thorogood đang gầm gừ bên tai, hỏi rốt cục nó yêu ai.
Đấy là một bản nhạc lý tưởng để vừa nghe vừa lái xe, nhưng giờ Chaz không còn tinh thần thưởng nhạc. Nó đang trên đường ra thực địa để tiếp tục lấy mẫu nước và tâm trạng đang rất kích động. Nó đang cố tìm một lời giải thích khả dĩ cho sự hiện diện của đám trực thăng này: màu xanh dương, xanh lá, đỏ, trắng và một chiếc màu xanh dương nữa…
Có lẽ một thợ săn hoặc một ngư dân nào đó bị mất tích, Chaz nghĩ. Nhưng mấy chiếc này đâu phải kiểu trực thăng cứu hộ - chúng rõ ràng là trực thăng tư nhân, giống với chiếc Bell 206 mà Samuel Johnson Hammernut vẫn dùng để di chuyển tới lui trên mấy cái trang trại của mình. Lúc Chaz vừa ký hợp đồng làm việc, Red đã cho nó đi một vòng tham quan. Chiếc trực thăng hạ thấp xuống khi đi ngang qua mấy cánh đồng phân thửa. Từ trên không, Chaz nhìn thấy rõ ràng dòng chảy của nước ô nhiễm, những con kênh màu vàng nâu, dẫn nước thải từ nông trại Hammernut đi thẳng xuống trung tâm trọng yếu Everglades. “Nhà xí của Chúa,” Red đã nói như thế. Cặp kính phi công khiến lão trông như một con ruồi giấm phê thuốc. Tiến sĩ Charles Perrone cũng cười hô hố xun xoe, nhưng không phải là không đồng tình. Nó thì quan tâm đếch gì đến đầm lầy phía bên dưới, hay việc đầm lầy ngập ngụa trong đống phân bón triền miên.
Mẹ nó, Chaz nghĩ, lại thêm một chiếc nữa!
Chaz cứ chăm chăm nhìn vào chiếc trực thăng sọc đỏ đến độ suýt nữa rớt khỏi con đê. Cú sốc quá mạng làm thằng Tool giật mình thức giấc. Nó lầm bầm: “Ê chậm lại thằng chó.”
Chaz khẩn trương chỉ ngón tay lên trời: “Mày nhìn kìa!”
“Một chiếc trực thăng. Rồi sao?”
“Một chiếc đâu ra, một đống!”
Tool hắt hơi, rồi dùng cánh tay lông lá rậm rịt chùi mũi.
“Chắc đang có quay phim.”
Chaz lại quét mắt lên trời một lượt nữa, đầu cứ xoay tới xoay lui. Nó làm thằng Tool nghĩ tới cảnh một con thằn lằn kiếm ăn.
Tool nói: “Mày lái cho đàng hoàng. Xe rớt xuống nước là tao bóp nát đít trước khi mày kịp chìm.”
“Nhưng lỡ tụi nó đang dí theo mình thì sao?” Chaz hỏi.
“Làm gì có chuyện đó.”
“Trời ơi, tao nghiêm túc đó. Mày thấy chiếc trực thăng màu xanh không? Ngay sau lưng mình luôn! Nhìn gương chiếu hậu đi.”
Tool đang phê vì tác dụng của miếng thuốc dán, nó trả lời mà mắt vẫn lim dim, có vẻ chuẩn bị ngủ thêm giấc nữa. “Trực thăng bình thường thôi mà. Tao cá với mày luôn.”
Chaz đậu xe trên bờ đập, vất vả mang đôi ủng lội nước, cầm cây gậy đánh golf quật thẳng vào mặt nước đục ngầu. Nó đếm được bảy chiếc trực thăng trên đầu, mỗi chiếc đều bay vòng vòng ở những độ cao khác nhau. Quả quyết đám trực thăng này đang theo dõi mình, nó ráng tiến hành lấy mẫu thử một cách bình thường, ra điều bố chẳng quan tâm đâu. Đột ngột chiếc trực thăng xanh dương hạ độ cao, lởn vởn ngay trên đỉnh đầu làm nó mém tè ra quần.
Khi thằng Tool thức giấc, Chaz đang chạy ngược lại trên con đê. Những chiếc trực thăng đã mất dạng.
“Đưa tao điện thoại,” Chaz nói.
“Chi vậy?”
“Tao phải gọi cho Red.”
Tool ném cái điện thoại cho Chaz. Người nó đang ướt nhẹp mồ hôi và ngập tràn tức giận. Chaz quay phím tắt đến văn phòng ở LaBelle và yêu cầu được nói chuyện với ông Hammernut.
“Ổng đâu? Đi câu cá à? Xuất sắc,” Chaz cáu kỉnh nói với thư ký của Red.
Tool nở một nụ cười lờ đờ. Trời này mà câu cá thì thích phải biết. Nhưng Chaz thì đang cáu tiết.
“Mày kết nối tao với hộp thư thoại của ổng.”
“Gọi lại sau cũng được mà,” Tool khuyên.
“Không, không, chuyện này đéo chờ được. Red hả? Red, Chaz nè. Nghe tôi nói cho rõ nhe: sáng nay tụi tôi vừa đi ngang qua cái đập thứ hai thì trên trời bỗng dưng có cả đống trực thăng - tôi chẳng biết tụi nó là ai, từ đâu tới và cái đéo gì đang xảy ra. Nhưng tôi biết ông là người duy nhất đủ tiền thuê cả đám trực thăng như vậy… nên tôi nói ông nghe này, hãy cẩn thận. Hãy thật, thật cẩn thận. Ông không muốn chuyện gì tồi tệ xảy ra với tôi đúng không? Ông muốn tôi vui vẻ, bình tĩnh đúng không? Nhưng bây giờ tôi hoàn toàn cảm thấy ngược lại đó - mẹ nó, máy ngắt rồi.”
Chaz tức giận đến mức thở hổn hển. Tool lấy lại cái điện thoại và nói: “Nhóc con, mày quẫn trí rồi.”
“Mày muốn tao như vậy đúng không? Đó là kế hoạch bí mật phải không?”
Chaz lại đưa đầu ra khỏi con Hummer và hồi hộp nhìn lên trời. Bầu trời sáng và trong veo, chỉ trừ một con kền kền đơn độc đang bay về phía mặt trời.
Joey Perrone vẫn nhớ thằng chồng rất mê phim GoodFellas , nên mới nghĩ ra cái trò trực thăng đó chớ. Corbett rất khoái và hưởng ứng ngay kế hoạch ấy. Anh hào phóng gọi ngay dịch vụ cho thuê trực thăng và mua luôn một gói hai mươi ba ngàn đô từ tài khoản bạch kim của mình. Joey không thích bay, vì còn ám ảnh bởi những gì đã diễn ra với cha mẹ mình, nhưng Corbett thuyết phục cô là sẽ vui ra phết. Bọn trực thăng là đỉnh của đỉnh, anh nói.
Và công nhận là… đỉnh thật. Con Bell Ranger màu xanh nhạt đón họ từ đảo, bay tầm thấp qua vịnh và hướng tới bờ biển. Corbett xí ghế ngồi kế phi công; Joey ngồi phía sau với Mick Stranahan, hai tay ghì chặt lấy tay trái của anh. Mick chỉ cho cô thấy Stiltsville, nơi anh từng sống; rồi tới Key Biscayne, South Beach và những hẻm núi cao dọc Collins Avenue. Chiếc trực thăng gầm lên và lướt qua vùng ngoại ô ken đặc xa lộ. Joey thấy khúc giao lộ liên bang đang bị chặn ở cả hai đầu vì một tai nạn. Ngay trung tâm của đám kẹt xe, đèn cấp cứu xanh đỏ chớp nháy liên tục.
Corbett xoay người trên ghế, cất cao giọng nói to để át tiếng cánh quạt. “Em gái à, anh không có ý xúc phạm, nhưng thà thọc kim vào não còn hơn sống ở một chốn như thế này.”
Một lát sau, khi phi công chuyển hướng bay về phía bắc, Joey thấy anh trai mình rú lên kinh hãi trước cảnh miền tây Broward County. Khu dân cư mới mọc lên như bị lở loét từ mọi hướng, hàng ngàn hàng vạn khối bê tông san sát nhau, cứ như thể người ta có thể bước từ nóc nhà bên này sang nóc nhà bên kia. Khu nào không có nhà thì cũng là cao ốc văn phòng, trung tâm mua sắm và mấy cái siêu thị ô tô khổng lồ. Từ Toyota đến Chryslers, cái nào cũng chiếm cả héc ta đất, đang phơi mình dưới ánh mặt trời. Chỉ có một con đê mảnh khảnh chia cắt cánh rừng bê tông của loài người với vùng Everglades.
“Cũng còn may là tụi nó chừa lại một, hai cái hồ cho tụi nhỏ,” Joey nói. Mick lắc đầu buồn bã. “Hồ đá em ơi,” anh nói. “Sâu cả trăm mét. Họ đã nạo vét để khai thác nguyên liệu xây dựng.”
“Nhưng hồi trước chỗ này là gì? Trước khi đám này mọc lên?” Corbett chỉ về phía bên kia của con đê.
“Chỗ đó á?” Mick nói. “Từng là con sông hoang dã nhất hành tinh.”
Corbett buông lời châm biếm. “Tôi mới thấy cái cây kìa,” anh trai của Joey la lên. “Thề có Chúa. Một cái cây thiệt.”
Một lúc sau, cảnh ngổn ngang của đô thị đã nhường chỗ cho thảo nguyên ẩm ướt, nhấp nhô như lúa mì ngập trong làn gió xuân. Dấu vết của loài người biến mất, dẫu thỉnh thoảng vẫn thấy một chiếc thuyền đáy bằng, lọt thỏm giữa thiên nhiên bao la. Stranahan phát hiện ra ba con nai đang tìm chỗ trú ẩn dưới một tán cây. Và Joey chợt nhận ra đây là lần đầu tiên cô được nhìn thấy những động vật hoang dã từ khi chuyển tới Florida, nếu không tính lũ gấu mèo thỉnh thoảng lục tìm thức ăn trong thùng rác trước nhà. Cô vẫn luôn tò mò về Everglades, nhưng Chaz không đời nào dẫn cô đi ra thực địa, bảo làm thế là sai luật nhà nước. Nó cũng chưa bao giờ kể cho cô nghe về thiên nhiên ngoài kia, ngoại trừ việc phàn nàn về lũ rắn và côn trùng. Giờ đây được tận mắt chứng kiến tất cả, cô mới kinh ngạc làm sao. Trời ơi, tại sao một nhà sinh vật học như Chaz lại có thể thờ ơ trước quang cảnh tuyệt vời này?
Như vậy là quá rõ ràng, nó có phải nhà sinh vật học chi đâu. Nó đã phản bội lại thiên nhiên lạnh lùng như phản bội Joey. Nó đã bán linh hồn mình - cái con lợn tham lam mà cô trót cưới - để hàng tấn hóa chất độc hại ngày đêm bơm vào nguồn nước lấp lánh. Với một kẻ đã đánh mất linh hồn như nó, đầu độc một nơi chốn và giết chết một con người nào có gì khác nhau.
“Em nhìn kìa,” Stranahan nói.
Những chiếc trực thăng khác đã đến, sáu chiếc tổng cộng, bay theo chiều kim đồng hồ, tạo ra những vòng tròn đồng tâm. Cứ như một show diễn. Joey quay sang Corbett và nói: “Một mình anh thu xếp hết ấy à. Thật sự quá đỉnh!”
Chiếc Hummer màu vàng của Chaz Perrone quá nổi, chẳng cần nhìn đám bụi bốc lên từ con đê thì đã có thể phát hiện từ xa. Stranahan đưa cho Joey một cặp ống nhòm, cô nhìn thấy mái tóc của thằng chồng rối bù trong gió khi nó nhoài đầu ra cửa xe và ngó lên trời.
“Coi bộ nó không vui mấy,” cô tường thuật, khiến ông anh cười nắc nẻ.
Trên điện đài trực thăng, người phi công kiểm tra lần nữa đường bay và độ cao của mấy chiếc khác trong đoàn. Một chiếc Cessna từ văn phòng cảnh sát trưởng Palm Beach xuất hiện. Một trung sĩ tên Robinson hỏi về lý do hoạt động của nhóm trực thăng này. Phi công của chiếc Bell xanh nhạt lập tức trả lời là cả bọn đang diễn tập cho một cảnh quay mới trong phim James Bond. Lời nói dối hấp dẫn tạo hiệu ứng tức thì: chiếc Cessna đổi hướng bỏ đi. Chính quyền miền Nam Florida xưa nay vẫn luôn hỗ trợ hết mình các đoàn phim. Họ thậm chí còn chặn mấy cái cao tốc để cảnh đua xe của đám ma cà rồng tuổi teen được quay đi quay lại, miễn là hiệu ứng phim đạt như mong muốn.
Khi Chaz đậu con Hummer và đeo ủng bước xuống nước, Joey rất muốn hù nó một phen. Nhưng rốt cục chính ông anh Corbett mới là người bảo phi công hạ độ cao ở mức thấp nhất có thể. Chiếc trực thăng hạ xuống, vừa đủ để Chaz không thể nhìn thấy ai đang ngồi phía trên. Nhưng thằng nhỏ sợ đến độ không dám ngó lên. Cả đám buồn cười khi nhìn thấy nó lóng ngóng lấy mẫu thử, còn ráng giả bộ không thấy bóng của chiếc trực thăng ngày càng chà bá ngay trên đầu mình.
“Thôi đủ rồi,” Joey hô và phi công cho trực thăng lên cao trở lại.
Chiếc trực thăng tiếp tục lượn vòng vòng ở một khoảng cách xa hơn, để cho mấy chiếc khác thay phiên nhau hạ độ cao. Cứ như thế cho đến khi Chaz lấy xong mẫu thử và chạy thục mạng về chiếc Hummer.
“Em đoán xem thằng ấy đang nghĩ gì?” Corbett hỏi.
“Chắc là không có gì vui rồi,” Joey nói.
Mick Stranahan nói: “Hãy chờ cho đến khi nó đọc tin trên báo.”
Sau khi trở lại đảo, họ bắt đầu câu cá trên chiếc Whaler. Stranahan câu được nhiều cá đuôi vàng và anh chiên theo kiểu Cuba cho bữa tối. Ăn xong, Corbett châm một điếu xì gà còn Joey thử cái váy lụa của Michael Kors mới mua tại Galleria. Mick mở một chai vang Úc. Cả ba ngồi cạnh nhau và ngắm mặt trời lặn. Đầu Đất thì ngả cái đầu bự xự của nó lên đùi Joey.
“Anh nên nói gì vào thứ Năm đây?” Corbett hỏi. Anh đang soạn điếu văn cho buổi lễ tưởng niệm.
“Anh cứ nói em là một cô em gái tử tế và đáng yêu thôi,” Joey nói.
“Thôi nào. Tụi mình phải sáng tạo hơn chớ.”
Stranahan nói: “Anh cứ nói cổ là một con cọp. Lúc nào cũng sẵn sàng cấu xé.”
Corbett ngoác miệng cười: “Ý hay đó.”
“Nói cổ có ý chí mạnh mẽ và một trái tim bao dung.”
“Một trái tim ngu ngốc thì có,” Joey nói.
“Không đúng,” Mick chạm vào tay cô.
“Anh sẽ nói em là một người duy tâm,” Corbett nói.
Joey cau mày: “Là từ đồng nghĩa của ngây thơ đúng không?”
“Hay là khen cổ có cặp giò rất được,” Stranahan nói.
“Ờ ha, cũng có lý,” Corbett cười nắc nẻ.
Joey bịt tai lại: “Hai anh thôi đi.”
Thời gian gấp rút, nên Corbett không kịp thu xếp một dàn hợp xướng. Anh tạm hài lòng với một bộ ba đánh guitar. “Họ hay biểu diễn cho lễ mi-xa ở Lighthouse Point. Mấy vị linh mục bảo họ đánh được lắm.”
Joey nói: “Lỡ Chaz không tới thì sao?”
Corbett hất cằm và thổi ra một vòng khói. “Nó sẽ tới thôi. Nó thừa biết không tới thì sẽ bất lợi thế nào mà.”
Stranahan tán thành. “Bây giờ nó đang sợ gần chết, đi sai một nước nào cũng đi đời. Giờ nó đâu còn cách nào khác, ngoài đóng trọn vai tuồng thằng chồng đau khổ vì mất vợ.”
“Chúa ơi, em cũng muốn tới đó quá,” Joey nói.
Stranahan giật mình nhìn cô. “Đừng có mơ. Em đã hứa rồi mà.”
“Em có thể hóa trang để không ai nhận ra mà.”
Anh trai cô chen vào ngay: “Joey à, đây không phải là show The Lucy . Cái thằng ấy đã cố giết em đấy.”
Joey im lặng trong một chốc, nhấp rượu và vuốt ve cái cổ mượt của Đầu Đất. Mặt trời đã lặn ở phía chân trời và bầu trời trên vịnh Biscayne đã chuyển từ vàng sang hồng rồi tím. Joey tự hỏi thằng chồng sẽ mặc đồ gì đến buổi lễ. Rồi nó sẽ ngồi ở đâu. Nó sẽ nói gì với bạn bè của cô. Liệu nó có để ý tới Rose ngay tức thì không…
Tất nhiên nó phải để ý tới Rose.
“Chà, đây là một buổi hoàng hôn đẳng cấp thế giới,” Corbett nói, ném điếu xì gà xuống nước. Tiếng xèo xèo cũng đủ làm con Doberman giật mình. Corbett huýt sáo và con chó trèo lên đùi anh.
Stranahan cũng đứng dậy. “Vào trong xem lại video đi.”
Corbett nhấn mạnh là đoạn phim mượt hơn mong đợi, dù chỉ quay có một lần. “Hai em đóng phim truyền hình được luôn đó.”
“Khoan, em vừa nghĩ tới việc này,” Joey đứng dậy, phủi váy. “Lỡ thằng Chaz muốn nói gì đó ở lễ tưởng niệm thì sao? Lỡ nó nổi hứng và bước lên phát biểu thì sao?”
“Tất nhiên là nó sẽ phải phát biểu rồi,” Corbett nói. “Anh đã để lại tin nhắn vào trong hộp thư thoại của nó. Anh bảo nó có năm phút trên bục để mô tả em như một thiên thần. Anh còn dặn là nó phải nói cho hay vào.”
Gallo chỉ vào cái lọ trên bàn làm việc của Karl Rolvaag rồi nói: “Đấy là mẫu nước tiểu tởm nhất mà tôi từng thấy.”
Rolvaag giả vờ cười khúc khích: “Nước tiểu gì? Nước thường mà sếp.”
“Sau khi chảy qua cái gì, một con trâu bị bệnh à?”
“Nước từ Everglades,” thanh tra đã muốn giấu cái lọ này trong ngăn kéo bàn làm việc, để tránh cuộc trò chuyện kiểu này. Thường thì Gallo ăn trưa phải hơn cả tiếng, nhưng hôm nay bị con bồ cho leo cây rồi chứ đâu.
Gallo nhìn vào chất lỏng bên trong cái lọ với thái độ ghê tởm. “Chúa ơi, bên trong còn có cả cứt và côn trùng nữa kìa.”
“Đúng rồi,” Rolvaag nói.
“Tôi có thể hỏi tại sao cái quỷ này xuất hiện ở đây không?”
Không giống như những thanh tra khác, Rolvaag chưa từng nói dối trước mặt sếp Gallo, ngay cả những việc nhạy cảm nhất. Nhưng lần này, anh quyết định khác.
“Cho lũ trăn của tôi ấy mà. Nước từ vòi ra nhiều hóa chất quá,” Rolvaag nói. “Nào phờ-lo nào cờ-lo, không tốt cho sức khỏe tụi nó.”
“Mấy con trăn uống cả cứt vào người à?” Gallo hỏi đầy ngờ vực. “Anh quả là một ca khó đó Karl, không có ý xúc phạm đâu. Có ai chăm vật nuôi mà phải lấy nước dơ và chuột sống để cho nó dùng bữa không hả?”
Thanh tra rụt vai. Nói thật cho Gallo lúc này không có ích lợi gì cả. Ông ta sẽ bảo chuyến đi thực địa của Rolvaag chỉ tổ phí thời gian. Nhưng Rolvaag biết nó không phí chút nào. Nhờ có bản đồ của Marta, Rolvaag đã định vị được một điểm lấy mẫu thử gần nông trại Hammernut. Tại đó anh tháo giày, đi chân không xuống đám cỏ đuôi mèo, lấy ba lọ ra hứng đầy thứ nước có màu như bia sống. Rồi anh gửi cho một người bạn là giáo sư ở Đại học Florida Atlantic. Mẫu thử lấy đại của Rolvaag lần lượt cho kết quả vượt xa quy định pháp luật theo thứ tự là 317, 327 và 344 ppb. Con số này tất nhiên trái ngược hoàn toàn với những báo cáo đến từ Tiến sĩ Charles Perrone, tức là chỉ 9 ppb.
Rolvaag chưa vội chia sẻ kết quả này lẫn những kết luận của anh cho các đồng nghiệp của Perrone. Trong lúc khéo léo tránh né câu hỏi của họ, anh nhận ra những người này sẽ chẳng thèm rỏ một giọt nước mắt nếu như hai tay của Chaz bị tra vào còng. Thanh tra không nói gì thêm về cuộc điều tra của mình, vì có thể kết quả gian dối mà Chaz bịa ra không liên quan gì đến cái chết của người vợ. Nếu di chúc của Joey là thật, Chaz có thể giết cô ta thuần túy chỉ vì tiền. Mà ngay cả khi di chúc là giả, Chaz vẫn có thể giết vợ vì cả tá lý do hình sự khác.
Giải thích vụ bịa thông số nước thải với sếp Gallo thì chỉ tổ nhận lại một cái nhìn thờ ơ hoặc những chất vấn ngờ vực. Kiểu gì sếp cũng sẽ bảo một động cơ phức tạp như vậy làm sao có thể mang ra khởi tố một vụ giết người. Dẫu vậy, việc Charles Perrone gian dối thông số về Everglades là một thông tin rất có giá trị với Karl Rolvaag. Nó khiến lời cáo buộc tống tiền của Chaz bỗng trở nên rõ ràng hơn, bởi vì cứ tưởng tượng xem Samuel Johnson Hammernut sẽ khổ sở thế nào nếu thông tin này lọt ra ngoài. Liên minh ma quỷ của lão và nhà sinh vật học mà lộ ra thì thiệt hại vô vàn, cả về tài chính lẫn chính trị. Không chỉ chịu trừng phạt nặng nề từ chính phủ, bản thân việc mua chuộc nhân viên nhà nước cũng bị khép vào trọng tội và lão sẽ phải vào tù. Ngay cả khi Red Hammernut thoát khỏi cáo buộc, công chúng vẫn sẽ không tha thứ và uy tín công ty coi như đi đời nhà ma. Rolvaag tin là gã tài phiệt cứng cỏi kia sẽ làm mọi thứ để bảo vệ chính mình, không chỉ trước tay tống tiền mà còn trước Chaz Perrone. Lòng trung thành của nó sẽ tan như bọt nước ngay khi cánh cửa xà lim đóng lại.
Khi Gallo hỏi vụ điều tra tới đâu rồi, Rolvaag nói: “Không phấn khởi mấy, tôi đang rối về vụ di chúc của bà Perrone. Anh trai thì nói là giả. Không may là một trong hai chuyên gia về chữ viết tay của tôi cũng nói thế.”
“Nghĩa là có kẻ dựng vụ này lên để bẫy à?”
“Có thể lắm sếp. Chaz ít người hâm mộ lắm.”
Rolvaag hắt hơi. Hôm nay sếp Gallo dở chứng xức dầu thơm, có điều ông ta dùng bình xịt như là vòi chữa cháy ấy.
“Chà, xui quá nhỉ,” Gallo. “Tôi tưởng trúng mánh rồi cơ.”
“Tôi cũng vậy.”
“Vậy giờ mình khép hồ sơ này lại được rồi phải không?” Gallo hỏi đầy hy vọng.
“Trừ phi có manh mối nào lộ ra, vì thật tình tôi cũng không biết phải làm gì,” Rolvaag nói. Trên thực tế anh biết chứ: ngồi yên và chờ đợi thôi.
“Không lý gì tiếp tục đâm đầu vào tường,” anh nói thêm.
“Anh đã làm hết sức rồi,” Gallo nói.
“Cám ơn sếp.”
“À nhân tiện, Karl nè, tôi đã nhận đơn xin nghỉ của anh. Tôi đã xé nó và ném vào thùng rác.”
Rolvaag nói: “Không sao sếp. Tôi in nhiều bản lắm.”
“Nào, anh thôi vụ này đi được không?”
“Tôi nghỉ, sếp à. Nghiêm túc đấy.”
“Rồi đi đâu, Edina, Minnesota? Rời Florida luôn?”
“Thật lòng là tôi không thể chờ thêm sếp à.”
Thêm một con chó nữa, lần này là một con poodle nhỏ, vừa mất tích tại Sawgrass Grove. Rolvaag biết bọn trăn nhà mình không có sở thích ăn uống liền tù tì, nhưng cũng đâu thể loại trừ khả năng này. Rõ ràng có thứ gì đó đang rình mò đám thú cưng của hàng xóm anh và hai con trăn là nghi phạm hàng đầu. Thanh tra định gửi nặc danh ngân phiếu một nghìn đô cho mỗi gia đình có thú bị mất tích. Hành động này sẽ khiến tâm trí anh nhẹ nhõm hơn và tài khoản ngân hàng của anh cũng… nhẹ đến không còn gì.
“Anh có tương lai xán lạn ở đây,” Gallo nói.
Rolvaag ráng nhịn cười.
“Người ấy đã chú ý đến hiệu suất làm việc của anh,” Gallo chêm giọng thân mật. Người ấy ở đây là cảnh sát trưởng.
“Tôi tưởng đâu ổng rất cáu tôi vụ đi thẩm vấn Hammernut,” Rolvaag nói.
“Đâu có, trời ơi, Karl. Ổng làm vậy chỉ để không bị hoạnh họe. Chứ ổng là fan của cậu, tin tôi đi.”
Thanh tra chưa từng nghĩ đến việc cảnh sát trưởng là “fan” của mình, thành ra cũng chẳng động lòng tí ti.
Gallo nói: “Chúa ơi, tôi phải làm cái giống gì để anh đổi ý hả? Đừng có nói với tôi phải kết án Charles Perrone nha.”
Rolvaag mỉm cười. “Sếp đừng lo.”
Vị thanh tra đã chấp nhận sự thật là Perrone sẽ không bao giờ bị khép tội giết vợ, bất chấp sự thật gần như rành rành là nó đã xô vợ xuống biển. Thứ duy nhất cứu Rolvaag khỏi tâm trạng chán chường chính là mấy cái lọ đựng chất lỏng trên bàn kia, nước đầm lầy nhiễm loại phân bón hóa học độc hại nhất. Việc Chaz Perrone chà đạp lên một nơi thiêng liêng như Everglades chỉ vì tiền cho thấy sự bất lương thiên bẩm của nó. Và việc phát hiện ra tội ác của nhà sinh vật học này càng khẳng định nghi ngờ của Rolvaag là đúng: thằng này mà nhà khoa học cái gì, thật là mỉa mai.
Không cần phải làm gì cả, bởi vì Charles Regis Perrone rõ ràng sẽ banh xác.
Viên thanh tra chưa từng chắc chắn về điều gì hơn thế. Sau khi xếp lại những thông tin mà mình có được, Rolvaag nhận ra mình không cần tốn thêm thời gian nào để khép tội Chaz Perrone, vì kiểu gì nó chẳng đi đời.
Chaz là một kẻ đã chết. Chấm hết!
Vì cái thói kiêu căng và bốc đồng, nó sẽ bị Samuel Johnson Hammernut xử đẹp. Ngay cả khi Rolvaag có muốn can thiệp đi nữa, anh cũng sẽ chỉ trì hoãn một việc không thể tránh khỏi.
Đúng như ông anh vợ đã nhận định - Chaz Perrone là một thằng chó vô lại. Một khi lo sợ tội ác của mình sắp bị phanh phui, Perrone kiểu gì cũng sẽ quay sang cắn chủ, đồng thời cố xóa dấu vết phạm tội. Và còn ai có thể nhìn ra viễn cảnh ấy sớm hơn chính chủ của nó, Red Hammernut, kẻ đã thuê nhà sinh vật học trẻ tuổi vì chính sự hèn nhát và dối trá? Red Hammernut có thể nghe mùi phản bội từ cách xa cả dặm, dễ gì lão chịu ngồi yên mà chờ.
Karl Rolvaag giờ đã có thể rời Nam Florida cùng với sự bình an, thậm chí là thỏa mãn. Chaz Perrone có thể sẽ không bị kết tội giết vợ, nhưng chắc chắn nó sẽ bị trừng phạt.
Chỉ còn một chút gút mắc liên quan đến quy trình hàng tháng của American Express. Trong mười hai ngày kể từ khi Joey Perrone mất tích, có ai đó đã sử dụng thẻ tín dụng của cô để thuê một chiếc Chevrolet Suburban, đã thế còn mua một đống giày, đồ trang điểm, mắt kính thời trang và vô số quần áo, trong đó đó một bộ bikini của Burberry. Rolvaag không tin là Chaz Perrone bất cẩn đến thế (cũng như có gu thời trang đến thế). Nhưng cũng có thể một trong những con bồ của nó đã tìm thấy cái thẻ vàng AmEx của Joey ở nhà Chaz và lấy ra quẹt đại.
“Không thể tin là anh đã dọn hết đồ luôn rồi,” Gallo phàn nàn. Ông vẫn đang gác chân lên bàn của Rolvaag. “Tôi không thể tin là anh cạn tàu ráo máng đến vậy.”
Thanh tra mỉm cười hối lỗi. “Tôi nhớ tuyết quá sếp à,” anh nói.
Một chuyến viếng thăm cuối cùng đến Đồi cát Tây Boca Giai đoạn II. Rồi anh sẽ gọi U-Haul đến dọn đồ.