CHƯƠNG 25
Charles Perrone nói: “Tao đéo đi đâu hết.”
“Red nói khác à nha.” Tool đang dựa lưng vào tủ lạnh, gặm khô bò và tu chai Mountain Dew cỡ đại.
“Tao đéo quan tâm Red nói gì!”
Tay phải của Chaz đang cầm tờ Sun-Sentinel . Nó cuộn tờ báo lại rồi vung vẩy như khua cái ống nước. Ở trang cáo phó có bản tin về việc anh trai của Joey tổ chức một lễ tưởng niệm tại nhà thờ St. Conan’s vào sáng thứ Năm. Tất cả bè bạn, người thân của Joey đều được mời đến để “ôn lại kỷ niệm lúc sinh thời và ca ngợi tinh thần yêu đời của người vắn số”.
Tha cho tao đi mà, Chaz nghĩ. Nó đã nhìn thấy tấm hình trên bản tin, chụp Joey lúc mới mười tám.
Và bây giờ thì điện thoại tường đang reo. Đó là một tin nhắn thoại, từ gã khùng New Zealand. Corbett yêu cầu nó phải viết một điếu văn dài năm phút.
“Mày nên để tâm lời dặn của Red,” Tool cảnh báo.
“Vậy sao?”
Dù tinh thần suy sụp cỡ nào đi nữa, Chaz vẫn tràn đầy niềm tin là bản di chúc mà Rolvaag mang đến là thật. Nghĩa là nó sẽ thừa hưởng 13 triệu đô la từ Joey. Khi ấy nó sẽ giã từ Samuel Johnson Hammernut trong một nốt nhạc và cả đời không bao giờ đặt chân đến đống cứt mang tên Everglades nữa.
Tool nói: “Ổng nói nếu như mày không đến dự lễ tang của chính vợ mình, người ngoài họ nói chết.”
“Tao đéo quan tâm đến người ngoài. Tao không đi.”
Chaz vẫn còn ám ảnh với tiếng ù ù của trực thăng, chỉ có điều bây giờ đầu óc nó không còn mường tượng ra cảnh rượt đuổi trong GoodFellas nữa mà đã chuyển sang cảnh khỉ bay trong Phù thủy xứ Oz . Ấy vậy mà lão Red Hammernut vẫn im re trước cáo buộc của Chaz ở triền đê. Thái độ khó chịu ấy càng làm nó căng thẳng hơn. Từ ngày xô vợ khỏi tàu Sun Duchess, nó đã phải hứng chịu quá nhiều: thằng bệnh hoạn đột nhập nhà, gã thanh tra quỷ quái, nhân chứng nay biến thành kẻ tống tiền lưu manh, vụ bê bối với Ricca và bây giờ là cả một đội trực thăng bí ẩn.
Kế hoạch của Chaz bây giờ là cố thủ bên trong khu vực Đồi Cát Tây Boca Giai đoạn II cho đến khi cái thế giới chết tiệt ngoài kia không còn làm phiền nó nữa.
“Tao sẽ không đến lễ tưởng niệm,” nó đáp lại với giọng thách thức.
Tool đậy nắp chai Mountain Dew lại, từ từ bước đến chỗ Chaz và lấy cái chai to đùng nện nó. Còn đang lồm cồm bò dậy thì Chaz bị bồi thêm cú nữa. Cú này đã làm vỡ cái chai nhựa, một dòng nước xanh có ga xịt đầy mặt Chaz. Tool lôi nó dậy từ sàn nhà và nói: “Có người bấm chuông cửa. Ra đuổi họ đi.”
Chaz gập đầu dữ dội, khuỵu đầu gối xuống và quẫy đạp như một con cua sắp chết dưới bàn bếp.
Tool thở dài: “Trời ơi, tao ước gì được tét đít mày như bọn nông dân thu hoạch cà chua ngày xưa.”
Rồi nó bước ra mở cửa. Viên thanh tra đang đứng chờ, tay cầm một chiếc cặp táp. Tool hất đầu mời vào.
“Ông Perrone có nhà không?” Karl Rolvaag hỏi.
“Ở trong bếp,” Tool xoay đôi giày đế cao, hướng về phòng ngủ để đánh một giấc nữa.
Viên thanh tra tìm thấy Chaz đang cuộn người run rẩy dưới cái bàn. “Một ngày tồi tệ nhỉ?” Anh hỏi.
“Bị đau bao tử ấy mà,” Chaz nhẹ nhõm vì khả năng nói xạo của mình vẫn chưa hề suy suyển.
Rolvaag ngồi xuống sàn cạnh nó. “Có mấy thắc mắc mà tôi phải hỏi ngay.”
“Trước giờ vẫn vậy mà,” Chaz liên tục dụi mí mắt bỏng rát.
“Vợ của ông có một cái thẻ của American Express.”
“Đứa nào chẳng có cái thẻ ấy.”
“Vậy cái thẻ của Joey đâu?” thanh tra hỏi.
“Tôi nói với anh rồi mà. Tôi dọn hết đồ của cô ấy đi rồi. Tất tần tật,” Chaz nói. “Để bất kỳ vật nào trong nhà cũng đau lòng hết. Cái thẻ tín dụng ấy có lẽ nằm trong mấy cái xắc mà tôi đã vứt đi.”
“Chính xác là cái nào? Có phải cái mà cổ đã dùng trên tàu?”
“Làm sao tôi biết được? Tôi quăng hết mà.”
“Có khi nào thẻ và bằng lái xe của cổ bị trộm không?” Rolvaag hỏi.
Chaz duỗi người chậm chạp và từ từ ngồi dậy. Nó đang nghĩ về mấy cuộc đột nhập trước đây, nếu kẻ xông vào nhà tình cờ nhìn thấy mấy cái thùng trong gara và thó cái thẻ AmEx của Joey thì chẳng phải là điều tốt sao?
“Sở dĩ tôi hỏi là vì sau khi vợ ông mất tích, cái thẻ vẫn được mang ra dùng nhiều lần,” thanh tra nói.
“Không phải tôi rồi đó!”
“Toàn là đồ của phụ nữ thôi, son phấn, quần áo này nọ.”
Giờ thì Chaz thật sự ngạc nhiên. Và nó hy vọng thanh tra thấy điều đó.
“Có khi nào bạn của vợ ông dùng thẻ? Hoặc bạn của ông không chừng?” Rolvaag hỏi.
Chaz biết tỏng tay thanh tra muốn ám chỉ điều gì: lũ gái gú của nó. Nó nói: “Làm sao mà tụi nó giữ thẻ của vợ tôi được? Tôi bị thiểu năng hay gì?”
Vẻ mặt của Rolvaag cho thấy hoàn toàn có khả năng này.
Chắc là thằng tống tiền rồi, Chaz nghĩ. Mà hay là Ricca ta? Còn ai có thể vào nhà nó và thó cái thẻ American Express của Joey chứ?
“À. Còn thằng O’Toole?” Chaz nói giọng hào hứng.
Viên thanh tra cười nhẹ: “Tôi không dám nghĩ đến cảnh ông ta mua một bộ bikini của Burberry. Nhưng ai biết được nhỉ?”
“Ừa, có khi nó có bồ thì sao?” Chaz nói, thầm nghĩ: khi ấy mặt trời mọc đằng tây không biết chừng.
“Ông biết không? Tôi đoán thẻ của Joey bị trộm khi bọn tôi còn trên tàu,” Chaz nói giọng hào hứng. “Mấy nhân viên trên tàu đều có chìa khóa tổng để vào mọi phòng mà.”
Rolvaag thừa nhận đấy cũng là một khả năng. “Nhưng dù gì đi nữa, ông cũng nên báo để American Express họ hủy thẻ đi.”
“Ờ, rõ ràng rồi,” Chaz nói, mặc dù sau đó nó hoàn toàn mặc xác việc ấy. Thời gian rảnh rỗi, nó thấy mình mơ mộng về những em xinh tươi mảnh khảnh, da rám nắng làm việc trên tàu Sun Duchess. Không biết em nào trong số đó đang nằm dài trên một bãi biển ở Aruba, trên người là bộ hai mảnh của Burberry.
Khi Rolvaag trở lại văn phòng thì thấy sếp Gallo chặn ngay cửa. “Anh trai bà Perrone đang ở đây, ăn vận như đang đi thử vai cho quảng cáo Outback.”
Corbett Wheeler đang đứng ở khu vực chờ, tám chuyện với một người phụ nữ mảnh khảnh, răng thưa, đứa con nghiện ngập của bà này vừa chôm mấy cái túi khí trên tàu tuần dương cảnh sát. Wheeler đội mũ rộng vành, áo khoác dài kiểu cao bồi, chống một cây ba toong đủ bự để làm cột hàng rào. Sau khi Rolvaag bước đến và giới thiệu bản thân, Wheeler liền đưa cho anh một chiếc phong bì lớn màu nâu.
“Di chúc của em gái tôi,” anh nói. “Hàng thật đấy.”
“Cùng về bàn làm việc của tôi nói chuyện nhé. Ông muốn làm tí cà phê không?”
Trong lúc anh trai của Joey nghiên cứu cuốn sổ in ảnh các tội phạm thì Rolvaag nghiên cứu kỹ bản di chúc. Văn bản này ghi rõ sẽ chia tài sản của Joey cho nhiều quỹ từ thiện và những nhóm bảo tồn khác nhau. Phần chia lớn nhất thuộc về HỘI BẢO TỒN ĐỘNG VẬT HOANG DÃ. Rồi thanh tra lấy bản di chúc được gửi đến văn phòng mình trước đó ra, thận trọng so sánh hai chữ ký. Mặc dù chúng không trùng khớp hoàn toàn, nhưng vẫn không đủ khác để kết luận chữ ký trong bản di chúc mới hơn là giả.
Corbett Wheeler cầm cuốn sổ in ảnh tội phạm lên và hỏi: “Ủa mấy người này là ai?” Biểu hiện trên gương mặt anh giống như một nhà nhân chủng học vừa phát hiện ra một tộc người mất tích.
“Lũ trộm cướp lừng danh,” Rolvaag đáp.
“Ồ, ngầu vậy. Trong này toàn dân có tiếng tăm à?”
“Chỉ là những kẻ làm ăn quanh các bãi biển. Chúng tôi còn có thêm bốn cuốn khác, lũ ấy thì quy mô toàn quốc.”
Corbett Wheeler đóng quyển sổ lại. “Cái người phụ nữ khi nãy tôi đứng nói chuyện ấy, con trai cổ được in hình trong này không?”
“Nếu chưa có thì sẽ sớm có thôi.”
“Trời ơi. Sao ông có thể làm việc này mỗi ngày mà không phát điên vậy?”
“Thực ra tôi chuẩn bị chuyển về Minnesota.”
“Mừng cho ông. Ở đó không có tội phạm à?”
“Có chứ, nhưng tội phạm ở đó hoạt động theo mùa,” Rolvaag nói. “Nhiệt độ xuống âm hai mươi thì còn trộm nào chịu khó nhập nha nữa. Cầm cây xà beng nạy cửa thôi là đủ đóng băng mấy ngón tay rồi.”
Anh đặt hai bức di chúc cạnh nhau trên bàn, để anh trai của Joey có thể thẩm định chữ ký.
“Tôi không phải chuyên gia,” Corbett Wheeler nói. “Nhưng cái của ông nhìn như hàng nhái.”
“Nếu vậy thì rõ ràng là nhái loại một.”
“Thì thằng Chaz Perrone nó có dư thời gian để tập luyện mà.” Corbett Wheeler thừa biết tấm di chúc giả này là sản phẩm của thằng em rể tương lai Mick Stranahan. Chính Stranahan đã ký nhái, dù hết sức kỹ lưỡng nhưng vẫn cố tình để lộ ra những nét bất hoàn hảo. Corbett đang đóng rất tốt vai của mình.
“Joey không đời nào để lại một xu cho Chaz. Cứ tin tôi đi.”
“Tôi ước gì mình có thể tin được,” thanh tra nói.
“Nghĩa là anh vẫn chưa có đủ chứng cứ để tóm nó.”
“Đúng vậy.”
Corbett Wheeler nhún vai. “Tệ nhỉ. Nhưng ông biết gì không? Tôi là người đặc biệt tin vào nhân quả.”
Câu nói ấy làm Rolvaag nghĩ ngay đến tính mạng của Chaz, giờ đang ngàn cân treo sợi tóc trong tay Red Hammernut. Nhưng anh không nói ra suy nghĩ này. “Ông có phiền không nếu tôi đến buổi tưởng niệm?”
“Chiều mai. Tôi mời ông,” Corbett Wheeler chồm đến gần hơn. “Kẻ góa vợ sẽ có một bài điếu văn đấy.”
“Thật nóng lòng được nghe.”
Anh trai của Joey đứng dậy và bắt tay Rolvaag thật nhiệt thành. “Cám ơn ông đã cố gắng suốt thời gian qua.”
“Đáng tiếc là vụ này quá khó.”
“Những gì diễn ra trên tàu không phải là tai nạn, xin hãy tin tôi. Cái thằng hạ cấp ấy đã xô em gái tôi xuống biển.”
Rolvaag nói. “Tôi cũng nghĩ thế. Nhưng chứng minh được lại là chuyện khác.”
Anh dẫn Corbett Wheeler trở lại khu vực chờ, nơi ấy giờ đã có một nhóm Hướng Đạo Sinh. Rolvaag từng là một hướng đạo viên hồi còn là thiếu niên ở Twin Cities. Kỷ niệm đáng nhớ nhất là anh suýt nữa mất ngón tay cái trong lúc cố dựng một cái cột gỗ totem.
“À. Ở Minnesota có trang trại nuôi cừu không?” Corbett Wheeler nói.
“Tôi nghĩ là có chứ.”
“Thử nuôi đi, Karl, nếu nghề cảnh sát làm anh cảm thấy quá chán chường. Lũ cừu là một biểu tượng toàn cầu về sự ngây thơ thánh thiện đó.”
Khuyên xong, anh trai của Joey Perrone giơ cao cây ba toong, dùng nó mở cửa rồi rời khỏi đồn cảnh sát.
Sau vài bận ngủ với Mick Stranahan, Joey đi đến kết luận rằng hóa ra trải nghiệm tình dục với Chaz Perrone không tuyệt vời như cô vẫn nghĩ. Dù Mick không dai sức và hùng hục như một cỗ máy (Chaz chính xác là kiểu này), anh lại chu đáo, dịu dàng và táo bạo hơn nhiều. Với Joey, đấy quả là một chân trời mới. Mick không bao giờ có màn lén nhìn cặp mông đang gồng của mình trong gương, không có màn hô hào thể hiện tính đực, cũng không có màn tự tán dương mỗi khi về đích. Những cái ôm ghì siết của Chaz chỉ khiến Joey cảm giác mình như một món phụ tùng khiêu dâm mà Chaz đặt mua trên mạng. Với Mick, cô thật sự tham gia vào cuộc truy hoan, là một người tình thật sự của anh. Cơn cực khoái Chaz mang đến kịch liệt như động đất, nhưng rồi nó ngay lập tức muốn nghe cô ngợi khen, nó thích được “điểm cao” hơn là trải nghiệm sự thân mật. Trong khi đó với Mick, những cơn cực khoái không kém phần mãnh liệt, đã vậy dư vị lại càng ngọt ngào gấp bội, vì anh không bao giờ cần cô chấm điểm. Đâu chỉ vì anh lớn tuổi hơn và ít tôn sùng bản thân mình hơn Chaz. Mà vì anh thực sự đáng yêu và tử tế. Anh biết cách hân thưởng những khoảnh khắc bên nhau.
Và bây giờ, Joey đang gối đầu lên ngực anh. “Anh Corbett thật dễ thương khi để bọn mình bên nhau cả buổi chiều.”
“Một quý ông, một người thông thái,” Stranahan ngái ngủ đáp lại.
Corbett Wheeler đã lái con Boston Whaler đến Virginia Key. Từ cảng sẽ có một chuyến xe dịch vụ đưa anh đến Fort Lauderdale để gặp Thanh tra Rolvaag. Joey định đưa cho anh chìa khóa chiếc Suburban đậu ở Coconut Grove, nhưng anh bảo không cần. Lỡ mà có va chạm trên đường, chắc anh đánh người ta tàn phế mất.
Chiếc thuyền vừa khuất tầm mắt, Joey và Mick đã trèo lên giường và quấn nhau cho tới giờ. Họ ôm nhau sung sướng không rời, ngay cả khi một cơn gió mạnh thổi ngang qua vịnh, đập vào cánh mấy cánh cửa sổ bằng gỗ đã cong vênh và hắt mưa vào bên trong.
“Em có thể sống ở đây cả đời,” cô nói khi mặt trời bắt đầu ló dạng trở lại, “tất nhiên là nếu người ta mời em ở lại.”
Stranahan nói: “Cứ xem như là em đã được mời đi, nhưng trước tiên em phải suy nghĩ đã.”
“Anh không muốn em sao?”
“Hơn mọi thứ trên đời. Nhưng ở đây đâu có nhiều thứ để làm. Có những người cần nhiều hơn một cơn gió biển và một buổi chiều đẹp.”
“Ý anh là cần thêm mấy em nữa chứ gì?” Joey nói.
“Trời ơi, ở đây anh còn không có ăng ten chảo để coi TV.”
“Vậy nha người ơi. Chúng ta chốt vụ ở lại.”
Stranahan ôm cô chặt hơn và hôn lên sống mũi, nói: “Cứ suy nghĩ đã, được không em?”
“Thôi đi ông già.”
“À, anh quên khen em. Hôm nọ em dám lên lại chiếc du thuyền ấy, thiệt sự dũng cảm lắm.”
Joey bảo anh đừng đánh trống lảng. “Nhưng phải thừa nhận, anh mặc cái áo khoác xanh trông sexy kinh khủng.”
“Một thời khắc lịch sử,” anh nói, “sẽ không bao giờ lặp lại.”
“Ồ. Em trân trọng sự hy sinh đó.”
“Còn em nhìn sexy kinh khủng trong bộ váy ngủ đó.”
“Anh già mất nết,” Joey nói.
Trở lại Sun Duchess rõ ràng là một trải nghiệm căng thẳng và kỳ dị. Boong tàu thấp hơn chỗ mà Chaz đã ném cô xuống biển, nhưng từ trên nhìn xuống vẫn sợ hãi y chang như vậy. Joey vẫn ngạc nhiên là mình vẫn toàn thây sau khi rơi xuống nước. Chưa bao giờ là một tín đồ tôn giáo, nhưng sau đêm đó, cô bắt đầu tin vào sự hiện diện của một Đấng Toàn Năng.
“Thỉnh thoảng em vẫn có cảm giác bàn tay Chaz đang chụp cổ chân mình.”
“Ước gì anh có thể khiến em quên đi,” Stranahan nói.
“Tay nó lạnh lắm, cứ như đã ngâm trong một thùng nước đá vậy,” cô nói. “Mick à, kế hoạch thông minh của chúng ta sẽ thành công chứ? Vì giờ chính em cũng không còn chắc chắn nữa.”
“Đến giờ bỏ cuộc vẫn còn kịp mà em. Theo những gì anh thấy trên ca nô, nó suy sụp dữ lắm rồi.” Stranahan nhẹ nhàng xoay Joey lại. Rồi anh chống tay và nhìn cô từ trên xuống. “Ngay sáng mai mình có thể đi gặp vị thanh tra kia. Xử tiếp vụ này ở tòa thôi.”
Cô xoa đầu anh: “Em không mạo hiểm được. Chaz nó gian xảo lắm.”
“Cũng có thể nó đã lừa anh.”
“Giả sử trong bồi thẩm đoàn có mấy vị nữ,” cô nói, “nó sẽ tìm cách rù quến họ để xử công bằng cho nó. Em là nhân chứng sống đây.”
Stranahan nói: “Rồi. Vậy mình đâm lao thì phải theo lao thôi.”
“Vâng.”
Nói thế, chứ trong bụng Joey vẫn lo. Thằng chồng sẽ làm gì khi phát hiện cô vẫn sống sờ sờ? Sẽ tìm cách thoát ra khỏi cáo buộc giết người? Lẩn trốn? Gục xuống ăn vạ như trẻ con? Lên một cơn đau tim?
Hay sẽ tấn công cô?
Không thể dự báo được phản ứng của Chaz, nhưng Joey biết chính xác mình định nói gì; những câu hỏi cô cứ canh cánh bên mình sau cái đêm dài dạt trôi trên biển. Cô tin là chính cơn giận đã giữ cho mình không gục ngã suốt những giờ phút ấy, nó cho cô sức lực để bám chặt lấy kiện cần sa - giận Chaz và giận cả mình vì đã lấy một thằng mạt hạng.
“Em có nói anh về vụ thơ thẩn chưa nhỉ?” cô hỏi Stranahan. “Cái đêm cầu hôn, tụi em đang ăn tối ở căn hộ của em thì nó móc ra một bài thơ tình. Nó bảo do chính tay nó viết. Và em, một con tóc vàng đầu đất cổ điển, đã tin như vậy.”
Stranahan nói: “Để anh đoán coi nó chôm ở đâu nha. Shelley? Keats?”
“Anh nghiêm túc chút coi, Mick.”
“Chứ chôm của Shakespeare thì lộ quá.”
“Thử Neil Diamond đi,” Joey nói.
Stranahan giả vờ sửng sốt.
“Trời ơi, Chaz nó khôn lắm,” cô nói. “Nó biết em còn quá trẻ để nghe nhạc của ổng.”
Cười rũ rượi, Stranahan ngả ngược xuống gối. “Bài nào? Để anh đoán coi: I Am, I Said . Nghe có vẻ đúng chuẩn Chaz.”
“Không phải, nó là một cái bài tên là Tận sâu bên trong em ,” Joey nói giọng thảm não.” Có cái câu Hãy để anh là người… gì gì đó. Trời ơi, lúc đó em thấy sao mà nó ngọt ngào quá. Nó viết dòng thư ấy lên nhãn của chai rượu vang đầu tiên mà tụi em uống, trong cuộc hẹn đầu tiên. Rồi giữ cái nhãn ấy đến tận lúc cầu hôn. Công phu chứ.”
Cô quay người sang một bên và Mick ôm cô chặt hơn.
“Vài tháng sau, em nói chuyện với người kế toán làm tại sòng bạc của ba mẹ em,” cô nói. “Một người từng trải khôn ngoan, cổ hỏi em về chồng mới cưới và em đã tự hào kể là ảnh lãng mạn lắm, ảnh viết thơ tặng vào đêm cầu hôn. Inez, tên cô kế toán ấy, đã nói với em: Ôi cục cưng ơi, nghe mừng cho con quá. Thế là em mở cái ngăn kéo chứa mấy đồ kỷ niệm của Chaz, lôi bài thơ ra và đọc to qua điện thoại để khoe. Cổ mới lăn ra cười ngặt nghẽo, giống như anh hồi nãy vậy đó. Và cổ nói cho em nghe về Neil, còn khoe đi nghe hòa nhạc của ổng cả chục lần. Không cần phải nói, bài nào cổ cũng thuộc làu làu.”
“Rồi Chaz nó nói gì khi em lật tẩy nó?” Stranahan hỏi.
“Em đâu có lật.”
“Trời ơi, Joey.”
“Em không thể,” cô nói. “Ván đã đóng thuyền, lúc đó thì bọn em đã cưới nhau. Nên em cố trấn an mình: nó làm vậy là vì nó yêu mình quá, đến độ phải chôm cả chữ nghĩa của ngôi sao nhạc pop thời xưa. Em tự phỉnh mình: có lẽ nó đã phải lướt qua cả trăm bài hát rồi mới tìm được một bài ưng ý. Sau tất cả, nó vẫn nghĩ về em đúng không, việc nó chôm chỉa lời bài hát đâu có nghĩa là nó không chân thành. Và thế là em quyết định lờ đi, để vui với hạnh phúc em có.”
Stranahan nói: “Không. Là em sợ nó sẽ bịa ra một lời nói dối mới nếu em chất vấn.”
Joey gật đầu phiền muộn. “Đúng rồi. Em sợ phải nghe thêm một lời nói dối. Em thà mang ảo tưởng còn hơn.”
“Và giờ em đang ở đây.”
“Vâng, em đang ở đây.”
Stranahan hôn vào gáy cô. “Của đáng tội, anh cũng không biết làm thơ luôn.”
“Mick, sao anh không để em đến lễ tưởng niệm?”
“Bởi vì em là nhân vật chính của buổi ấy. Người ta phải tin là em chết rồi.”
“Nhưng em có thể hóa trang mà,” cô nói. “Nào anh, em muốn nghe điếu văn của Chaz.”
“Anh sẽ mang máy ghi âm theo. Có thể lần này nó sẽ đạo văn từ Sgt. Pepper.”
Joey nhích ra khỏi vòng tay của Mick và xích ra ngoài mép giường.
“Thằng chó chết dối trá,” cô lèm bèm. “Nó sẽ khiến mọi người cảm động phát khóc.”
“Mọi người không bao gồm anh rồi đó,” Stranahan nói, rồi chồm tới ôm cô lần nữa.