CHƯƠNG 26
Stranahan đến Boca trên con Cordoba cổ lỗ vừa chuộc lại sau khi đóng phạt 300 đô lỗi đậu sai quy định. Anh đỗ xe ở một cửa hàng Winn-Dixie, cách nhà thờ vài dãy nhà, vì không muốn ai thấy mình đi cùng với anh trai của Joey. Stranahan định đội mái tóc giả màu nâu xạ hương mà Joey mua ở Galleria, nhưng cuối cùng lại đổi ý. Anh muốn Chaz Perrone nhận ra mình là cái gã đã cho nó no đòn ở trên ca nô. Phải hù thằng chó đẻ một phen mới được.
Bộ ba guitar đồng quê nhà thờ mời về có tên là Sự Ăn Năn. Lúc Stranahan bước vào bên trong nhà thờ St. Conan’s thì họ đang chơi bài Michael, Row the Boat Ashore . Anh lo là thế nào lát nữa họ cũng sẽ đánh tiếp bài Kumbaya . Khán phòng nhà thờ bây giờ đã lấp được ba phần tư, toàn bạn bè và hàng xóm của Joey, đa số là phụ nữ. Nhiều người trong số này đã từng dự đám cưới và ngay tại lễ thành hôn, vài người đã đánh hơi được sự tào lao của chú rể. Tất nhiên là họ chẳng thể bộc bạch nỗi hoài nghi của mình với Joey, hoặc có nói thì cô cũng chẳng buồn nghe.
Rose nhìn lẳng lơ đến phát sợ nơi hàng ghế đầu. Cô đang mặc một chiếc áo len bó sát, kết hợp cùng váy ngắn màu đen, vớ lưới cao khêu gợi và giày cao gót. Màu tóc vàng chói chang vừa mới được dặm lại màu, chiếc vòng cổ mã não làm nổi bật cần cổ dài trắng trẻo và đôi môi rực đỏ san hô. Tương phản hoàn toàn là những thành viên khác trong hội sách, ai cũng ăn vận như mấy bà cô ế chồng. Gần lối ra nhà thờ là một người đàn ông tầm thước, da trắng, mặc bộ vest xám đậm mới toanh như vừa mới may. Toàn thân người đó toát ra khí chất cảnh sát. Stranahan cả quyết đó là Karl Rolvaag và anh chọn chỗ ngồi trên người đó khoảng chục hàng, ở phía bên kia lối đi.
Bản Kumbaya đã chơi được mấy vòng rồi, mà vẫn không thấy tăm hơi Chaz Perrone. Stranahan bắt đầu lo lắng.
Anh trai của Joey đã thay chiếc áo khoác nông dân để mặc một bộ vest ba mảnh màu xanh thanh lịch. Anh đã cạo râu, tỉa lại tóc tai, vậy mà vẫn nom như một tay đua xe bất hợp pháp đang chờ luật sư đến bảo lãnh. Trên bục thờ là một chiếc bàn bọc nhung. Trên bàn, Corbett Wheeler đã đặt một tấm ảnh 20x25cm của Joey, đang ngồi bắt chéo chân trên bãi cỏ, gần một cây cọ. Trong bức ảnh ấy, mái tóc của Joey bị gió thổi tung và nụ cười như được thắp sáng bởi ánh mặt trời. Những người tiếc thương trong nhà thờ này hẳn sẽ sảng hồn nếu biết bức ảnh mới được anh trai của Joey chụp chưa đầy 24 tiếng đồng hồ trước đó, trên một hòn đảo tư tại vịnh Biscayne. Và nụ cười rạng rỡ kia là dành cho một người đàn ông trung niên hưu non với cặp mông săn chắc. Người ấy cũng đang hiện diện tại nhà thờ St. Conan’s, sốt ruột được sắm vai kẻ tống tiền trở lại.
Tam tấu guitar đang hào hứng gẩy bản Blowin’ in the Win vào đoạn cao trào thì bị Corbett Wheeler ra hiệu ngưng lại với động tác chém ngang cổ. Anh bước lên bục và giới thiệu bản thân.
“Chúng ta hiện diện ở đây để tưởng nhớ về cuộc đời và thanh xuân của một cô gái tuyệt vời, em gái tôi,” anh bắt đầu, “Joey Wheeler.” Joey nhất định không muốn dùng tên sau khi đã lập gia đình và anh trai cô đồng ý.
“Con bé là một chiến binh, một mãnh hổ, nhưng đồng thời lại sở hữu một trái tim nhân ái. Trong gia đình, con bé luôn là người ngây thơ, lãng mạn, mơ mộng, luôn tin vào sự thiện lương và chân thành ở mỗi người mà mình gặp. Nhưng tiếc thay, thỉnh thoảng con bé đã lầm…” Anh nói.
Corbett Wheeler quét mắt một vòng quanh nhà thờ sau khi bỏ lửng câu nói. Nhiều người trong nhà thờ đã biết đến lịch sử trăng hoa của Chaz Perrone, đưa mắt nhìn nhau ra điều hiểu chuyện.
“Vậy mà Joey chưa từng đánh mất niềm tin vào con người, rằng sâu thẳm trong tâm hồn mình, họ vẫn là những người tốt bụng và đầy phẩm giá.”
Anh trai của Joey tiếp tục kể thêm vài câu chuyện và đám đông bắt đầu sụt sùi. Đầu tiên là chuyện về đám tang của bố mẹ, khi cô bé bốn tuổi Joey đứng cạnh mộ và hát bài Leavin’ on a Jet Plane với lời bài hát được chỉnh sửa cho phù hợp với tình hình thực tế của Hank và Lana Wheeler (*con gấu đã vào chỗ, ta sẵn sàng lên đường*).
Câu chuyện thứ hai liên quan đến số phận bi thảm của người chồng đầu. Anh dốc lòng ngợi ca những đức tính cao thượng của người đàn ông này, dẫu chưa gặp lần nào. “Benny là chút ánh sáng le lói trong đời em tôi,” Corbett hào phóng tán dương Benjamin Middenbock. “Trước khi nói lời từ biệt sau cùng, em tôi đã đặt vào trong quan tài của chồng chiếc cần câu cá và vài con cá giả do chính tay mình vẽ và bện lại. Con bé nói nó rất mừng cho mấy anh nhà đòn, vì Benny không thích bowling.”
Phải mất một đến hai nhịp, những người trong nhà thờ mới mỉm cười.
“Đúng vậy, Joey đã phải đối diện với không biết bao nhiêu nỗi buồn trong đời,” người anh trai tiếp tục, “nhưng con bé không bao giờ để mình bị đánh bại. Nó chưa từng đánh mất khiếu hài hước hay sự lạc quan. Đó là con người lạc quan nhất mà tôi từng biết. Đó cũng là con người đầy hy vọng và không bao giờ biết ích kỷ là gì. Con bé có thể sống như một công chúa nhưng đã chọn một cuộc đời đơn giản, bình dị bởi vì con bé tin sự giản đơn là chìa khóa dẫn đến hạnh phúc đích thực. Tất nhiên là với sự giúp sức của mấy đôi giày Ý.”
Câu thoại này đã mang đến một tràng cười cho hội chị em mua sắm.
“Con bé không hề hoàn hảo,” người anh tiếp tục. “Con bé có những nhược điểm, như tất cả chúng ta. Những khoảnh khắc bốc đồng, những lúc mù quáng, những phán xét sai lầm.”
Corbett Wheeler ngưng lại ở đó, thiếu điều chỉ nói tên Chaz Perrone ra nữa mà thôi. Mà cái thằng góa vợ đang ở xó xỉnh nào nhỉ? Stranahan tự hỏi.
“Không, em gái tôi không phải một người hoàn hảo,” người anh tổng kết, “nhưng em ấy quả thực là một người tốt bụng và chúng ta rồi sẽ nhớ con bé thật nhiều.”
Một vị cha xứ tóc bạc trắng tiến lên phía trước. Với chất giọng Đông Âu buồn bã, ông đọc một đoạn kinh cầu nguyện. Bộ ba Sự Ăn Năn tiếp nối với bản Bridge Over Troubled Water dài tới 13 phút làm mọi người phát oải. Người lên bục phát biểu tiếp theo là Carmen Raguso, người hàng xóm quảng giao nhất của nhà Perrone và là nữ hoàng dao kéo của Đồi Cát Tây Boca Giai đoạn II. Cô kể lại chuyện Joey đã giúp dở lũ mèo hoang cơ nhỡ phía sau nhà hàng KFC, mang chúng đến tận một phòng khám thú y ở Margate để chăm sóc. Cô Raguso nhớ Joey đã phải chi hơn hai nghìn đô cho vụ này. Một lần khác, Joey thuê thủy phi cơ để mang một con cá heo bị ốm từ bãi biển đảo Grand Bahama đến Viện Hải dương Miami. Con cá tắc ruột tưởng toi đến nơi, rốt cục cũng đã hồi phục trước khi trở về với biển cả.
“Tại sao con cá heo ấy lại không xuất hiện ở dòng Gulf Stream cái đêm Joey rơi khỏi tàu và bơi đến giải cứu cô ấy để trả ơn?” Cô Raguso nói. “Tại sao đời không như là phim nhỉ?”
Rồi những người bạn khác lần lượt đứng dậy và kể về những cuộc làm thiện nguyện âm thầm, tình yêu dành cho thiên nhiên và lòng tốt dành cho những mảnh đời bất hạnh. Người cuối cùng phát biểu là Rose. Trên đường Rose bước lên bục, Stranahan để ý thấy cánh đàn ông ngồi dưới tươi tỉnh hẳn lên, kể cả thanh tra Rolvaag.
“Joey là ngôi sao trong CLB sách của chúng tôi, rõ ràng là thế!” Rose bắt đầu. “Chính cô ấy đã giúp chúng tôi biết ai là Margaret Atwood, A. S. Byatt và P. D. James. Trời ơi, chúng tôi có khi đã mất nguyên sáu tuần lễ để phân tích Jane Austen, nếu Joey không khai sáng. Cô ấy là một nàng công chúa ngọt ngào, nhưng cũng mang đầy năng lượng. Một người không bao giờ ngại dấn thân. Mọi người phải nghe cô ấy đọc những đoạn văn cảm động từ cuốn sách mới nhất của Jean Auel, ôi, mấy bức tường thiếu điều muốn đổ lệ.”
Stranahan thầm nghĩ: phải Joey của mình không vậy?
“Con nhỏ lắm mồm ấy là ai thế nhỉ?” Chaz Perrone làu bàu.
Tool không trả lời. Mà thực ra sáng giờ nó cũng không hé môi nửa lời. Chaz không mời mẹ ruột của nó đến viếng đứa con dâu vắn số, riêng việc đó Tool đã không chấp nhận nổi. Nó và Chaz đang xem buổi tưởng niệm từ phòng thờ, tránh mặt đám đông. Tâm trạng của Chaz đang cực kỳ tồi tệ sau khi nó tự chẩn đoán mình bị nhiễm virus Tây sông Nile. Kỳ thực, tình trạng đơ cứng của cần cổ là do bị chai Mountain Dew hai lít tộng vào đầu. Nhưng vốn bị bệnh tưởng nặng, Chaz tin đây là dấu hiệu của chứng “tiền viêm não”, rồi sẽ sớm chuyển sang sốt, co giật, run rẩy, váng vất và cuối cùng là hôn mê. Đêm qua, nó còn nhờ Tool đo giùm nhiệt độ, nhưng thằng cô hồn quay đít bỏ đi với cục xúc xích đông lạnh và lọ kem dưỡng da.
Nếu chết vì muỗi cắn thì đúng là bách nhục, Chaz nghĩ.
Màn lại quả từ cái đầm lầy chết tiệt.
Nó nhẩm tính, khoảng một nửa trong số ba mươi bốn vết muỗi chích trên mặt đã bong vảy hoặc nhiễm trùng, vì nó cứ gãi không ngừng. Hồi nãy nó đã kịp gặp anh trai của Joey ngay bên ngoài nhà thờ. Nhìn cái mặt như núi lửa của Chaz, Corbett buông ngay một câu hỏi thiếu tế nhị: Chích ngừa đậu mùa chưa đó?
Má cái thằng ái cừu, Chaz rủa.
Với hy vọng tìm được một vài ý tứ hay ho cho bài phát biểu của mình, Chaz hết sức chú tâm vào màn phát biểu vô cùng sống động của Rose. Nhưng sự chú ý của nó dần chuyển hướng xuống cái váy ngắn cũn và đôi vớ táo bạo. Cô nàng rặt một vẻ chịu chơi.
“Chú đã sẵn sàng chưa, Charles?”
Chaz nhảy dựng lên, hóa ra Corbett Wheeler đã âm thầm bước vào phòng chờ từ cửa sau.
“Chú là nhân vật chính đó. Mọi người đều chờ bài phát biểu của chú.”
Chaz lén nhìn ra ngoài và nghĩ: Mấy người này là ai vậy nhỉ? Nó ngạc nhiên vì đám tang của vợ mình lại đông đảo đến vậy. Một vài người hình như có gặp ở đám cưới, còn lại thì lạ hoắc. Cũng đúng thôi, vì Chaz có đời nào quan tâm xem Joey làm gì ở nhà trong lúc nó đi làm, đánh golf hoặc bồ bịch bên ngoài. Nó cũng chưa bao giờ tò mò về đời tư của vợ trước khi gặp nhau. Chính sách gia đình của Chaz là không bao giờ hỏi những câu mà chính nó sẽ không buồn trả lời.
“Người bạn này là ai thế?” Corbett Wheeler hỏi. Rồi không đợi trả lời, anh bước tới, bắt tay và chào đón nhiệt liệt. “Nhìn cách ăn mặc, tôi dám cá anh là dân làm vườn.”
Tool đã đến nhà thờ với chiếc quần yếm màu đen, giặt ủi kỹ càng cho trang trọng. Chaz Perrone không muốn nó đi, nhưng Red Hammernut nhất mực yêu cầu. “Tôi canh chừng nhân công cho một nông trại,” Tool trả lời. Anh trai của Joey khoái ra mặt. “Còn tôi thì canh chừng hai ngàn con cừu.”
Tool ấn tượng liền: “Thiệt hôn? Loại nào thế?”
Chúa ơi cứu con, Chaz than thầm. Mấy đứa quái thai đột biến bắt đầu kết thân với nhau kìa. Bên kia, Rose đang nói gì đó làm ở dưới cười rộ và đột nhiên Chaz cảm thấy bàn tay chắc nịch của Corbett Wheeler kéo hắn ra khỏi phòng chờ, lên một cầu thang nhỏ để leo lên bục phát biểu. Chaz thấy mình hai tay mình run rẩy khi điều chỉnh micro cũng như khi thò vào túi tìm mẩu giấy ghi chú. Nó tiếp tục giật mình khi nhận ra chữ viết tay của mình, nét chữ ngày nào vững vàng trầm ổn nay đã khúc khuỷu, lí nhí và nguệch ngoạc như ám hiệu giao tiếp với UFO hay mấy tay bắn tỉa đến từ tương lai.
Nó ngước mắt lên nhìn xuống đám đông và lập tức đứng hình. Trời ơi thằng tống tiền kìa, cách nó vỏn vẹn có ba hàng, cười nhe răng như một con sói đói. Chaz Perrone bèn hướng ánh nhìn sang bên kia, chỉ để nhìn thấy Karl Rolvaag, tay chống cằm tư lự cứ như đang theo dõi một trận đấu hockey.
Cổ họng Chaz khô ran. Và nó cất tiếng nói, thanh âm như cây vĩ cầm đứt dây. Anh trai của Joey đưa cho nó một ly nước, nhưng sức mấy nó dám uống, vì sợ bị đánh thuốc độc.
Cuối cùng, nó cũng liếm môi và bắt đầu: “Kính thưa quý anh chị, cho phép tôi được nói về vợ mình, Joey, người mà tôi yêu thương hơn tất thảy mọi thứ trên đời.”
Cùng thời điểm ấy, Joey Perrone đang thò tay vào chỗ đựng đồ ăn cho chim để lấy chìa khóa dự phòng. Cô lẻn vào nhà mình từ cửa sau, tắt chuông báo động, lao vào nhà tắm và nôn ra bữa ăn sáng.
Bình tĩnh nào, cô tự trấn an. Chúa ơi, mày không phải là người phụ nữ đầu tiên cưới sai chồng đâu.
Chỉ là mày xui xẻo chọn nhầm một trong những gã đàn ông tồi tệ nhất trên đời thôi mà.
Giường vẫn chưa được dọn, Joey nằm xuống, hít thở sâu và chậm. Cô nghe thấy mùi dầu gội đầu của Chaz còn vương trên gối. Dầu gội sữa dê mùi xoài gì đó mua từ tiệm làm tóc của Ricca. Joey nhìn lên trần nhà, tự hỏi không biết lúc nghĩ về kế hoạch giết mình, thằng chồng có nằm đúng chỗ này hay không. Lúc đó có khi mình đang nằm kế bên, tất nhiên là chẳng hay biết gì cả.
Rồi cô bước qua phòng khách, bật cái CD của Sheryl Crow mà cả hai cùng thích. Âm nhạc làm cô cảm thấy dễ chịu hơn. Rồi cô ngồi trên sofa. Trên đó Chaz còn để nguyên cái túi đi làm mở toang hoác. Bên trong, ngoài mấy biểu đồ nước còn để trống, mấy tờ chứng từ đã điền một nửa, là bản phô-tô di chúc mà Mick đã gửi cho viên thanh tra. Chaz đã lấy viết đỏ gạch đít đoạn văn bản ghi cô sẽ để lại toàn bộ gia tài cho nó. Ở ngoài lề, nó viết ba dấu chấm than. Joey lật nhanh đến trang cuối cùng và ngó vào chữ ký. Mick đã nhái chữ ký của cô sau khi xem qua mấy cái biên lai thẻ tín dụng. Trông vừa đẹp để đánh lừa thằng chồng, mà ngay cả không giống thì lòng tham cũng sẽ khiến cho nó thấy sao mà y hệt. Khốn nạn cái thằng!
Hẳn là nó đã tưởng tượng mình sở hữu sức hấp dẫn không cưỡng nổi, nên Joey - trong một cơn bốc đồng - đã xé thỏa thuận tiền hôn nhân và để lại mọi thứ cho nó. Joey thừa biết Chaz luôn tự tạo ra một giả thiết cho mọi tình huống bất thường. Dám nó nghĩ Joey đã lên kế hoạch gây bất ngờ vào cái đêm trên tàu, nào ngờ chưa kịp nói gì đã rơi tòm xuống biển. Sau khi em gái qua đời, Corbett mới âm thầm ném bản di chúc này cho Rolvaag để viên thanh tra có lý do hoài nghi, để quy cho Chaz một động cơ giết người.
Ít nhất đấy là cách thằng Chaz kết nối những dữ kiện lại với nhau, Joey nghĩ. Viễn cảnh được thừa kế 13 triệu đô la quá đẹp, đủ để nó khỏa lấp mọi điều dù vô lý đến đâu đi nữa.
Joey nhét tài liệu trở lại ba lô, rồi cất chiếc CD lại chỗ cũ. Rồi cô đi tới bể cá, mấy con cá đang trồi lên đầy hưng phấn vì nghĩ sắp được cho ăn. Nhân viên chỗ cửa hàng thú cưng đã lấp đầy bể cá với đủ chủng loại: mấy con cá bống neon, một bầy cá mó cầu vồng, một con cá bướm, một con nữ hoàng, hai con cá hề và một con cá dù vàng. Joey lấy ba nhúm thức ăn ném vào bể và nhìn đám cá loạn xạ lao lên như kính vạn hoa.
Giữa hồ là một vật trang trí làm bằng xi măng hình con tàu đắm nằm giữa bãi sỏi. Joey thò tay vào túi quần jean, lấy ra chiếc nhẫn cưới làm bằng bạch kim, thảy qua thảy lại giữa hai lòng bàn tay. Khỏi cần phải đọc lại dòng chữ khắc ở bên trong làm gì, vì cô đã thuộc nằm lòng: “Tặng Joey, người con gái trong những giấc mơ anh. Yêu em, CRP.” Joey nắm chặt chiếc nhẫn trong tay mình và dùng tay kia mở nắp hồ cá.
“Giờ cô gái trong mơ chỉ về trong ác mộng thôi, thằng chó đẻ,” cô nói.
Chaz bắt đầu tìm thấy sự thoải mái trên bục. Lạ kỳ thay, cái cổ của nó đã hết đơ và những vết muỗi chích trên mặt cũng không còn đau nhức.
“Tấn bi kịch này đã dày vò tâm trí của tôi hàng nghìn lần,” nó đang nói, “và tôi không thể ngưng nghĩ đó là lỗi của mình. Giá như tôi bảo Joey chờ mình đêm đó, giá như tôi rời phòng của mình sớm hơn vài phút, chúng tôi đã có thể cùng nhau bước lên boong tàu. Cô ấy đã không phải đứng đó một mình, trên cái sàn trơn trượt vì mưa ướt. Lẽ ra tôi phải ở đó, ngay cạnh cô ấy và thảm kịch kia đã không bao giờ xảy ra.”
Chaz biết hiểm họa khi kể lại câu chuyện tưởng tượng lộ liễu của mình trước cả đống người, những người rồi sẽ trở thành nhân chứng tiềm năng cho tội khai man nếu xảy ra kiện cáo. Nhưng Chaz biết đây là một thời điểm hệ trọng để cho Rolvaag thấy đấy rõ ràng là “phiên bản gốc” của câu chuyện. Nó cũng muốn nhân cơ hội này tiêm nhiễm vào đầu mọi người cái ý nghĩ là Joey thực ra đang chiến đấu với những vấn đề nội tâm nghiêm trọng, không thể chia sẻ được với ai và cuối cùng đã chọn cách hủy mình.
“Cảnh tượng đêm ấy đã tái hiện trong đầu tôi hết lần này đến lần khác,” Chaz nói, “nhưng rốt cục những câu hỏi vẫn nhiều hơn câu trả lời. Có bao nhiêu người trong số các vị đã đọc cuốn Madame Bovary ?”
Đúng như nó dự đoán, tất cả các thành viên trong đội đọc sách của Joey đều giơ tay. Karl Rolvaag và thêm khoảng chục người nữa trong nhà thờ cũng vậy. Chaz nói: “Joey đang đọc cuốn này khi ở trên thuyền. Sau đó, vì tò mò mà tôi cũng đọc.” Thực ra, nó chỉ đọc hai đoạn tóm tắt từ trang web người hâm mộ Flaubert.
“Cuốn sách kể về một phụ nữ trẻ người Pháp, chán nản và buồn bã với cuộc đời mình. Cô thành hôn với một người đàn ông, hy vọng người này sẽ mang đến cho cô hạnh phúc và sự hứng khởi với cuộc đời… Người ấy là một Tiến sĩ.”
Chaz ra bộ nghẹn ngào, để ngay cả những người ngờ nghệch nhất cũng tìm thấy mối liên hệ. “Nhưng đáng buồn thay, Madame Bovary vẫn không tìm thấy điều mình mong đợi. Rồi cô tìm đủ mọi lối thoát để kéo mình ra khỏi nỗi buồn dai dẳng này. Rồi đến cuối truyện, người phụ nữ đáng thương quẫn trí ấy đã tự tìm đến cái chết.”
Bầu không khí trong nhà thờ chợt im lìm quái đản, Chaz vẫn tiếp tục màn diễn thuyết.
“Gấp quyển sách lại, tôi phải thừa nhận mình ủ ê vô cùng. Tôi không thể ngăn mình suy nghĩ: tại sao Joey của tôi cũng không cảm thấy hạnh phúc. Liệu cô ấy có nhìn thấy cuộc đời mình trong câu chuyện ấy và giấu tôi những cảm xúc của mình.” Chaz cúi đầu, hai vai chùng xuống. Khi nhìn lên trở lại, nó thấy kẻ tống tiền hình như đang ngủ gật. Trong khi đó, cảm xúc của Rolvaag (hay nên nói là sự vô cảm) không hề thay đổi.
“Nhưng tôi cứ nghĩ, nghĩ mãi về chuyện đó,” Chaz tiếp tục, “sau khi nói chuyện với nhiều người quen biết và yêu thương người vợ tuyệt vời của tôi,” đây lại là một lời nói dối sống sượng, vì nó không hề gọi lại một cuộc nào, “tôi càng nhận ra cô ấy thực sự là một người rất hạnh phúc. Một con người tích cực, như anh trai cô ấy nói. Một viên pháo nổ, như người bạn thiết thân Rose mô tả. Một chiến binh, một người lạc quan hết lòng yêu đời. Đấy là Joey Perrone mà tôi biết. Đấy là Joey Perrone mà tôi tôn sùng. Và đấy là Joey Perrone mà…”
Ngay khoảnh khắc ấy, Chaz bỗng bị xao nhãng bởi một bóng người vừa bước vào nhà thờ, khập khiễng trên đôi nạng.
“… mà tôi sẽ khóc thương…”
Một người phụ nữ, Chaz ráng nhìn kỹ hơn. Người này đang bước lên lối đi giữa hai hàng ghế.
“… cho đến hết cuộc…”
Với mái tóc bù xù và một chân bó bột, người phụ nữ ấy đã làm hỏng khoảnh khắc hạ màn đẫm nước mắt của nó. Ai, đứa nào mà vô duyên vậy!
“… cuộc… đời…”
Con Ricca!
Không thể được! Chaz nghĩ. Làm sao có chuyện này được.
“… mình,” nó kết thúc với giọng the thé, hai tay bấu chặt cái bục phát biểu.
Cử tọa đã nhìn thấy sự đổi thay trong tâm trạng của nó và những tiếng rì rầm bắt đầu vang lên. Nó ép mình nhìn đi chỗ khác trong khi Ricca ngồi xuống bên cạnh gã tống tiền và gã lịch sự cầm đôi nạng của cô đặt dưới gầm ghế.
Chết mẹ rồi.
Hơi thở hổn hển thoát ra từ Charles Regis Perrone. Xây xẩm mặt mày, nó bước khỏi bục phát biểu và lảo đảo tiến về phòng chờ, nuốt nước bọt khó nhọc như một con cá ngừ mắc cạn. Nó vừa đến ngưỡng cửa thì hai chân bỗng mềm nhũn như bún, Tool phải chụp lại để nó không ngã vật ra. Chaz nhắm mắt lại trong không gian đang ngập tràn giai điệu của bài Where have all the flowers gone - tiếng đàn thật ngọt ngào và thấu cảm, được trình bày bởi nhóm “Sự Ăn Năn”.
Ricca thì thầm với Mick Stranahan: “Ông đã nói đúng về thằng đầu buồi ấy. Nó đã giết vợ. Chính nó nói với tôi như vậy.”
“Cô bị gì thế?”
“Đó là một câu chuyện dài, nó lôi tôi ra đầm lầy và bắn tôi. Ông tin nổi không?”
Stranahan bảo tin chứ, quá tin là khác. “Vậy cô đến đây làm gì?”
“Làm cho nó rét,” Ricca nói. “Ý tưởng hơi điên nhưng tôi muốn Chaz thấy mình còn sống. Ở giữa nhà thờ nó cũng đâu thể làm ẩu?”
“Cô báo cảnh sát chưa?”
“Chưa, nhưng tôi sẽ báo.”
“Giúp tôi một việc được không? Đợi vài ngày nữa rồi hãy báo?”
Ricca mỉm cười: “Vậy ra anh đang tống tiền nó thật.”
“Ồ, còn vui hơn tống tiền ấy chứ,” Stranahan nói. “Nhưng trong thời gian tới, cô phải thận trọng. Chaz nó sẽ năn nỉ được gặp cô. Nó sẽ khóc lóc, van xin, có thể đề nghị cả đống tiền để mua sự im lặng.”
“Và sau đó nó sẽ cố giết tôi lần nữa.”
“Tất nhiên rồi. Nhưng tôi sẽ đưa cho cô số phôn. Nếu phải đi gặp nó, nhớ gọi trước cho tôi một tiếng.” Stranahan ghi thông tin lên mặt sau của một tấm thẻ cầu nguyện.
Ricca không nhận ra cái tên hay số phôn ghi trên đó, nhưng con nhỏ vẫn cho vào giỏ xách. Bộ tam guitar đã kết thúc màn trình diễn và nhà thờ im lặng trở lại. Corbett Wheeler lúc này đã quay lại bục phát biểu.
“Đây có lẽ là ngày khó khăn nhất của tất cả chúng ta,” anh nói trong lúc liếc nhìn về phía phòng chờ. “Về phần tôi, tôi vẫn chưa tin là em gái mình đã qua đời. Cứ như sáng nay con bé hãy còn chọc tôi về đôi giày hai lúa và kiểu tóc thổ dân châu Úc.”
Mọi người nén một tiếng cười, nhưng chỉ có Stranahan là hiểu rõ câu đùa ấy nhất. Joey đã càu nhàu suốt khi anh trai mình lên đồ cho buổi tưởng niệm.
“Cám ơn tất cả đã đến và chia sẻ những ký ức của mình hôm nay. Joey hẳn rất cảm động,” Corbett Wheeler kết luận. “Tôi biết nhiều người trong số quý vị muốn chia buồn với chồng con bé, Chaz. Cậu ấy sẽ chờ mọi người trên lối ra.”
“Tuyệt vời,” Ricca nói.
“Khoan khoan nào,” Stranahan nhắc nhở.
Khi nghe tin Charles Perrone sẽ tạm biệt và cám ơn từng người bên ngoài nhà thờ St. Conan’s, người bất ngờ nhất còn ai ngoài… chính nó. Nó đã xin kiếu vì còn yếu và quẫn trí quá, nhưng anh trai của Joey vẫn cầm tay nó lôi dậy. Tool chẳng buồn giúp Chaz thoát khỏi tình huống khó xử này, nó đang mải nhìn di ảnh trên bàn thờ của Joey. Đây là lần đầu tiên Tool nhìn thấy gương mặt của Joey Perrone và nó thấy sao mà… quen quen.
Quen, nhưng mà ai mới được chứ? Tool không nhớ nổi. Đấy là một trong những hệ lụy của mấy miếng thuốc dán - nó làm người ta mất trí nhớ tạm thời.
Nó bước ra ngoài, tìm đến bóng mát của một cây đa. Nó ngồi xuống, đầu tựa vào gốc cây. Trong lúc quan sát Chaz bắt tay và ôm hôn những vị khách ở ngưỡng cửa nhà thờ, Tool cứ nghĩ mãi về bức ảnh của bà Perrone. Nó tự hỏi: vì sao một người con gái xinh đẹp, nhìn thông minh sáng láng thế mà lại đi dính vào một thằng vô lại. Công bằng ở chỗ quái nào?
Bỗng Tool thấy bực vì có một người đàn ông tiến đến và ngồi xuống cạnh mình.
“Nhớ tao không?” Người đàn ông ấy hỏi.
“Nhớ chứ.” Đó chính là gã đã dộng một cú quá mạnh vào cổ nó ngay trong nhà của Chaz. Gã tống tiền. Tool nheo mắt lại. “Hên cho mày là xung quanh đây có nhiều người đấy.”
“Nếu mày nổi điên thì tao cũng không trách đâu. Hôm đó tao độp mày hơi quá.”
“Cứ chờ lần sau đi con.”
“Tao muốn nói chuyện về vụ đó đây,” gã tống tiền hạ giọng. “Chỗ đặt tiền.”
“Gì cơ?”
“Chỗ đặt số tiền mà tao yêu cầu.”
“À, phải,” Tool nhúc nhích người khó chịu. Hồi nãy nó vô tình ngồi lên chỗ gồ của rễ cây đa và chỗ ấy đang cạ vào viên đạn ghim trong mông nó.
Người kia nói: “Tao có cảm giác Chaz sẽ chuẩn bị làm một việc cực kỳ ngu si. Mà vậy thì nó sẽ toang và cả ông Hammernut cũng toang theo.”
“Đừng lo. Có tao ở đây thì nó không dám làm ẩu đâu.”
“Nghe vậy mừng ghê.” Gã tống tiền chỉ tay về cửa nhà thờ: “Mày nhận ra hai người đó chứ?”
Tool nheo mắt: “Một người là cớm.”
“Đúng. Đó là thanh tra Rolvaag. Còn người phụ nữ tóc sẫm chống nạng kia?”
“Cũng quen.” Tool thò tay vào trong cái quần yếm để gãi háng.
Kẻ tống tiền bảo người phụ nữ ấy tên Ricca Spillman. “Thằng Chaz của mày đã cố giết con nhỏ đó mấy đêm trước.”
“Thiệt hả?” Tool hỏi, dù nó biết đấy là sự thật. Nó cũng biết là cần phải báo gấp cho Red tin này, vì lớn chuyện thật rồi. Thằng Tiến sĩ đã bắn con bồ, vậy mà thay vì chết nghẻo, nó đang đứng tám chuyện với một tên cớm. Tool đứng dậy và phủi đít, nó cảm nhận được viên đạn đang chà lên xương sống mình.
Gã tống tiền cũng đứng dậy. Gã nói: “Tao không muốn Rolvaag thấy tao, nên tao đi trước.”
Tool rụt vai. Nó để ý thấy anh trai của Joey, người sở hữu trang trại nuôi cừu, đang tiến đến chỗ người phụ nữ chống nạng. Tình hình mỗi lúc một tệ hơn, Tool nghĩ.
Gã tống tiền nói: “Dù gì đi nữa, tao cũng muốn xin lỗi vì chuyện trong nhà hồi tuần trước.”
Tool nói: “Tụi mình chưa xong đâu.”
“Tao cũng nghĩ thế.”
“Hey. Nhỏ bồ mày đâu, cái con gặp ở Flamingo ấy?”
“À, bận ở nhà lau mấy cây súng máy.”
Tool không biết đó là một câu nói chơi hay nói thiệt. Và rồi đột nhiên nó nhớ ra: cái cô gái trên bàn thờ không phải giống y chang bồ gã tống tiền sao? Hôm ấy trời tối, nhưng gương mặt nó gặp rõ ràng giống y hệt tấm hình của người chết trong kia. Trời đất ơi, bà con ruột rà hay gì? Hay màn tống tiền này thực ra là một cuộc báo thù?
“Quý ông, cho hỏi câu được không?” Tool nói.
“Không,” gã tống tiền lạnh lùng bỏ đi.
Dẫu sao thì Chaz Perrone cũng thấy nhẹ nhõm hơn khi Corbett Wheeler đứng cạnh mình ở chỗ tiễn khách, cùng nó sẻ chia gánh nặng xã giao. Tỏ ra lịch sự và ái ngại vất vả lắm chứ bộ, nhất là khi nó hoàn toàn giả tạo. Mỗi người trong hàng sẽ tốn của Chaz khoảng mười hai giây cảm thông. Nhìn biểu cảm của họ, nó biết bộ vó của mình bây giờ rất thảm, cơ thể thì run rẩy, môi trên ẩm ướt và những vết muỗi đốt thì sưng tấy. Nhưng vậy cũng tốt cho vai diễn người chồng đau khổ, đang tan nát từ trong ra ngoài.
Bắt tay và ôm.
Bắt tay và ôm.
Chaz Perrone vật vã duy trì chiếc mặt nạ khổ đau, nhưng nó diễn hết nổi khi đến lượt gã tống tiền bước lên. Gã dúi vào tay nó một chiếc phong bì, tiến sát lại và thì thầm với chất giọng của Charlton Heston: “Tôi nghe thấy tiếng vù vù của trực thăng, Chazzie.”
Theo phản xạ, Chaz nhìn lên, nhưng chỉ thấy một chiếc máy bay nhỏ đang kéo một tấm banner của Budweiser phía sau, hướng về phía biển.
“Hẹn gặp tối mai,” gã tống tiền nói và đi mất.
Chaz không có thời gian để hoang mang, vì nó lập tức nhìn thấy Ricca, đang thì thầm gì đó với Rolvaag mà có trời mới biết. Tay cớm vẫn tỏ ra thoải mái, không giống như đang nghe tường trình về một vụ án mạng tại Loxahatchee. Mà có nghe thì sao, nó cũng đâu thể chạy trốn vào rừng như một con thỏ?
Cái ôm tiếp theo là với bà Raguso, một cái ôm đẫm nước mắt và có mùi nồng nặc như phô mai mozzarella. Chaz chợt cảm thấy sợ khi Corbett Wheeler xin lỗi mọi người vì phải đi ra chỗ kia một chút. Bị ghim chặt vào bộ ngực vĩ đại của bà Raguso, Chaz nhìn qua vai và thấy anh trai của Joey đang tiến về phía Ricca.
Đéo thể tin được, Chaz nghĩ. Toang mẹ nó thật.
Rồi ít lâu sau, Ricca bắt đầu chống nạng tiến về phía nó. Corbett Wheeler đi trước dẫn đường, Chaz đã thoát khỏi cái ôm của bà Raguso, nhưng không còn kịp để lẩn trốn nữa rồi.
“Người giúp việc của chú muốn nói vài lời riêng tư,” anh trai của Joey nói.
“Được thôi,” Chaz nói, thầm nghĩ: người giúp việc ư? Chúa ơi, cái con nhỏ này sẽ không bao giờ để mình quên việc ấy.
Corbett Wheeler tiến vào chỗ của Chaz để lãnh trách nhiệm cám ơn và tiễn khách. Ricca đứng sang một bên, nhìn nó ấm áp như một con cá nhồng. Sự hiện diện của cặp nạng đã ngăn cản tiết mục ôm xã giao.
Với giọng nửa thì thầm, Chaz nói: “Chúng ta cần nói chuyện.”
“Nói với cái đầu buồi của mày đi, Chaz.”
“Đêm ấy điên loạn quá. Anh đã hoàn toàn quẫn trí.”
Ricca nói: “Để dành mấy câu ấy mà nói với bồi thẩm đoàn.”
“Anh xin lỗi vì đã dọn sạch sẽ căn hộ của em. Anh hủy luôn chiếc xe hơi của em nữa,” Chaz nói. “Anh hoảng quá, cưng à. Phải nói sao cho em hiểu đây?”
“Nhìn mày như cứt vậy? Mấy cái vết lở trên mặt mày là gì?”
“Muỗi chích. Anh đã bị nhiễm virus Tây sông Nile.”
“Tốt. Hy vọng trứng dái của mày cũng lở loét chung cho vui.”
“Anh biết em có quyền nổi nóng. Anh đã làm một việc tồi tệ.”
“Tệ ư?”
“Nhưng đó không phải là con người anh. Anh đã thật sự quẫn trí,” Chaz nhấn mạnh. “Thật đó. Giờ anh có thể làm gì để bù đắp cho em?”
“Ngoài việc chết mọt gông trong tù á hả?”
“Suỵt. Làm ơn đi em yêu, nói lớn quá vậy.”
“Hai mươi lăm nghìn đô,” Ricca nói bình thản. “Tiền mặt.”
“Thật ư?” Chaz chợt cảm thấy nhẹ nhõm. Nó luôn mong con nhỏ là một đứa hám tiền như thế. Đây quả là thông tin vui nhất có thể.
“Và một con xe mới. Một chiếc Mustang mui trần,” Ricca tiếp. “Nếu không đáp ứng, tao đi gặp đứa bạn mới thân của tao liền.” Rồi cô hướng mắt về phía Karl Rolvaag, đang đứng nói chuyện với vị cha xứ tóc bạc.
“Rồi rồi, Ricca, đừng mà. Anh trả lời em liền nè!” Chaz cố sáp lại gần, nhưng Ricca đã đưa một cây nạng lên chống lại.
“Câu trả lời là ok,” nó hạ giọng thấp. “Em sẽ có mọi thứ em muốn.”
“Chờ phôn của tao,” con nhỏ nói cộc lốc rồi bỏ đi.
Chaz trở lại hàng chờ từ biệt, giờ chỉ còn lại vài người bạn của Joey. Corbett Wheeler tiến lại gần và nói: “Ở vùng của bọn anh không có kiểu giúp việc như thế. Con nhỏ bén nhỉ.”
“À vâng, tôi nghe bảo cổ bị lậu.”
Anh trai của Joey cười: “Ra thế.”
Rồi Chaz chợt thấy ai đó đang siết chặt cả hai tay mình: Rose, cô gái tóc vàng váy ngắn chung hội đọc sách của Joey.
“Em nói chuyện riêng với anh tí được không?” Cô hỏi.
“Được chứ.” Nó nghe được ngay mùi nước hoa mà cô nàng sử dụng, cùng hãng Chanel mà Joey ưa thích. Chaz bị kích thích mạnh, bởi vì cứ nghe cái mùi này là nó hưng phấn. Nó vẫn nhớ rõ: sau khi xô vợ ngã tòm xuống biển, nó vẫn còn nghe mùi thơm này thoảng đưa trong gió.
Rose dẫn Chaz Perrone vào trong nhà thờ trở lại. Bên trong ấm áp và tối hơn. Chaz cố hết sức để không nhìn quá lộ vào bộ ngực của người đối diện, trông cứ như bị bức tử dưới lớp áo chật.
“Màn điếu văn của anh thật cảm động,” Rose thì thầm đầy ngưỡng mộ.
“Joey quả là một người phụ nữ phi thường.”
“Chúa ơi, em vẫn chưa dám tin là cô ấy đã đi rồi. Không thể tin nổi.”
Nó nói: “Đúng vậy, tôi cũng chưa dám tin đấy là thật…”
“Nhưng bài phát biểu của anh thật sự… anh mạnh mẽ như một ngọn núi vậy. Ngọn núi đá Gibraltar.”
“Tôi chỉ cố tỏ ra mạnh mẽ thôi,” nó hạ giọng khiêm tốn, “vì Joey.”
“Anh dạo này ổn không, Chaz? Anh vượt qua chuyện này thế nào?”
Rose nắm lấy cả hai cánh tay của Chaz, vuốt ve nhẹ nhàng đủ để mang đến sự hưng phấn râm ran. Bao nhiêu ngày qua nó cứ nghĩ về việc phải chịch cho thỏa và tự dưng giờ kèo thơm hiện ra trước mặt. Một liều thuốc hoàn hảo cho chuỗi ngày ủ ê vừa qua.
Nó nói: “Nói thật với em, anh đang thật sự suy sụp.”
“Em biết mà, nhìn anh tệ lắm.”
“Nhà anh thật trống trải và cô đơn khi không còn cô ấy.”
“Em hiểu,” Rose nói, gương mặt đầy vẻ tiếc thương.
Chaz thật sự đã hưng phấn với mùi nước hoa. Nó nhìn vào màu son đỏ san hô trên môi cô nàng, cố ngăn mình không lao tới nấu cháo lưỡi ngay trong nhà thờ. Nào, chờ đã, nó tự nói với chính mình, phải có thời gian và địa điểm đàng hoàng chứ.
“Đêm nay sẽ kinh khủng lắm,” nó nói. “Buổi lễ này lẽ ra phải khép lại mọi đau khổ, nhưng sao anh không thấy nhẹ nhõm chút nào.”
Rose bắt đầu chuyển từ nắm tay sang đan tay. Quả là một sinh vật hấp dẫn, Chaz nghĩ. Nó tự hỏi sao Joey chẳng bao giờ dẫn cô nàng này về nhà để giới thiệu đàng hoàng.
“Anh nghĩ sao nếu em mời anh qua nhà em đêm nay? Em sẽ làm đồ ăn tối,” cô nói. “Chúng ta có thể thuê một bộ phim hay nào đó. Để giúp anh thoát khỏi những suy nghĩ đau khổ này. Anh có thích pasta không?”
“Được đó. Anh sẽ mang rượu. Nhà em ở đâu?”
Nó bước ra khỏi nhà thờ về phía ánh sáng với một tinh thần hoàn toàn khác. Cuối hàng người đang chờ đợi từ biệt là Karl Rolvaag, mọi người đều đã tản mát về cả. Viên thanh tra đang mỉm cười vui vẻ một mình.
Rồi Chaz dừng lại bên Rolvaag. “Này, chừng nào ông mới chịu nói cho tôi hay đội cứu hộ biển tìm thấy được gì của Joey?”
“Giờ tôi nói nè,” Rolvaag nói. “Họ tìm thấy móng tay.”
“Chúa ơi, chỉ còn lại móng tay thôi sao?”
“Đúng, trên một bó cần,” Rolvaag bắt đầu cười to.
“Ông nghĩ chuyện này vui lắm hả?” Chaz lắc đầu và bỏ đi.
Vị thanh tra đâu có cười về vụ móng tay của bà Perrone. Anh cười vì chiếc Chevrolet Suburban màu xanh lá đã đi hai vòng quanh nhà thờ. Chiếc xe mới và quá sạch, rõ ràng được thuê từ thẻ AmEx của bà Perrone. Ánh mặt trời xuyên qua kính màu chắn gió, đủ để thấy người lái xe là một phụ nữ, đang đeo kính râm quá cỡ và đội mũ lưỡi trai, một phụ nữ trẻ có tóc đuôi ngựa màu vàng.
Với Karl Rolvaag thế là hoàn hảo, quá vui đi chứ, có thể cười đến bể bụng!