← Quay lại trang sách

Chương 4

Buổi tối Hân đang phấp phỏng về một điều gì đó khó cắt nghĩa nổi thì bí thư huyện ủy gọi lên. Anh mừng rơn. Anh chỉ mong có thế. Anh biết bí thư có kế hoạch về vùng nam sông Thưa nhưng chưa rõ sẽ đi vào ngày nào và điều quan trọng là vì sao chưa hỏi đến mình là cán bộ được phân công theo dõi phụ trách các xã khu nam. Giờ đây chắc chắn bí thư sẽ bàn về chuyến đi hoặc nếu không mình cũng tìm cách nói về mấy xã khu nam khác với đánh giá tình hình của bà con đang tố cáo.

Hân có mặt lập tức. Bí thư vẫn ngồi im và chỉ cho Hân chiếc ghế trước mặt. Họ cách nhau chiếc bàn con trên có bộ ấm xuyến pha trà và lọ hoa nhỏ cắm năm bông đồng tiền đang nở.

Thói quen không vội vàng của bí thư làm cho anh sốt ruột. Nhưng rồi Hân phấn chấn vì cho rằng buổi tối yên tĩnh như thế này có thể nói chuyện lâu hơn, có thể đàm đạo thanh thản cho đến tận cùng những nội dung được nêu ra. Hân sẽ trổ mọi thủ pháp và công sức tô son vẽ phấn cho những ai anh ưa thích và lợi dụng cơ hội hiếm hoi như thế này để trở nên gần cận với lãnh đạo.

Mãi sau bí thư mới hỏi:

- Ông hiểu tình hình hiện trạng của bà con làng Thị chứ?

Hân nhấp nhỏm trên ghế như muốn lấy lại tư thế ngồi. Anh còn đang tìm cách đặt vấn đề sao cho có lợi nhất thì bí thư nói tiếp:

- Bà con xin dãn đội hình hợp tác xã toàn xã. Vấn đề khá nan giải và liên quan tới chủ trương của trên. Chúng ta đã có một thời đua nhau thành lập hợp tác xã quy mô lớn và mơ ước tới xây dựng cơ sở kinh tế cho cấp huyện. Chúng ta muốn cái gì cũng đồ sộ và cho rằng hiệu quả kinh tế sẽ tỉ lệ thuận với quy mô sản xuất. Hôm nay đây bài toán ấy đã được trả lời.

Cả hai cùng im lặng. Bí thư huyện ủy phóng tầm mắt qua cửa sổ như muốn nhìn tận nơi vì sao kia xem trên đó có gì. Anh có vẻ suy nghĩ sục sôi. Anh về huyện nhận nhiệm vụ không lâu và cùng với niềm vui đã phải chịu nhiều dằn vặt đau buồn. Một đoàn nông dân ở phía bắc huyện tố cáo ban quản trị tham ô và trù dập. Họ tới thanh tra huyện. Thanh tra chưa kịp giải quyết họ kéo lên tỉnh. Tỉnh chuyển công văn về huyện. Họ tới gặp lãnh đạo huyện mấy lượt bị thường trực khất lần liền quyết định đón đường bí thư huyện ủy đúng lúc anh đang dẫn đoàn nhà báo Trung ương tới thăm một số cơ sở sản xuất. Họ vây chặt lấy cả anh và cánh nhà báo. Họ róng riết tố cáo đúng một giờ đồng hồ làm xe không sao lăn bánh được. Một hai thanh niên trong đoàn quá khích đã có những lời lẽ thiếu đứng đắn khiến anh nếu không kiềm chế có thể dẫn tới những hậu quả khó lường. Rồi đến những bức thư nặc danh tố cáo anh, đe dọa anh và dựng chuyện cho anh. Có thể họ không ác ý. Nhưng chắc chắn họ đã hiểu lầm vì tiếp thu những thông tin sai lệch. Khi quyền dân chủ được mở rộng thì người dân sẵn sàng khai thác triệt để những gì mà hiến pháp cho phép mình được hưởng. Bí thư huyện ủy vui vui vì chắc chắn đây là dấu hiệu đáng mừng.

Bí thư nhìn anh cán bộ dưới quyền như tìm hiểu, như cân nhắc. Tự nhiên anh đưa tay xoay xoay lọ sứ cắm hoa nhỏ xíu làm cho những bông đồng tiền cũng xoay theo. Rồi trà nóng rót ra đợt nữa. Nước sánh vàng chạy tròn theo rìa chén và mùi thơm thoáng qua như có những hạt phấn hoa đang bay. Hân thoáng lúng túng. Anh không hiểu nên vào đề như thế nào vì bỗng dưng mất quyền chủ động. Anh lặng lẽ đợi chờ.

Bí thư huyện ủy nói nhỏ như một lời tâm sự:

- Người nông dân của chúng ta hôm nay khác quá xa với những năm tôi và ông còn ở làng cầm cày cầm cuốc. Họ rất nhạy cảm với thời cuộc. Họ chỉ ở làng nhưng biết rất rõ bên Liên Xô cho đấu thầu đất đai năm mươi năm. Họ tỏ ra năng động và rất hiểu mảnh đất đẫm mồ hôi của mình nên sử dụng như thế nào cho hiệu quả nhất. Họ nuôi khát vọng một đời sống dễ chịu đã mấy chục năm. Họ đáng ngợi ca trước khi có thể phê phán. Tính manh động của họ, nếu có ở nhiều trường hợp cũng là do sự thúc đẩy của những ước mơ chưa thành đạt. Họ đang tố cáo việc thu hồi sản phẩm quá nặng, nghe tin có nghị quyết Mười lập tức chuyển sang xin dãn đội hình hợp tác xã toàn xã. Có nơi còn bày tỏ nguyện vọng trao ruộng đất về từng hộ gia đình. Những vấn đề này lớn quá. Vượt tầm của cấp huyện chúng ta rất nhiều.

Song những điều giãi bày ấy, bí thư huyện ủy mới hỏi tới tình hình các xã khu nam, trong đó có thôn Cao và thôn Thị. Hân trình bày, song bài bản sắp sẵn trong đầu óc anh bay sạch. Anh không còn hứng thú. Anh có cảm giác như bí thư hỏi là để có thêm cơ sở khẳng định chứ thực ra đã biết hết mọi chuyện.

Hân chờn chợn. Con người này thật khó đánh giá. Lúc tỏ ra sắc sảo và rất linh hoạt. Lúc lại như buồn bực vì những ưu tư. Hân có thói quen nắm bắt cấp trên nhưng với bí thư huyện ủy anh thấy gần gũi đấy mà vẫn xa vời. Bởi lẽ ấy anh cần thận trọng. Giờ đây chưa phải thời cơ tung chuyện người ta kiện tụng La ra bàn.

Hôm sau, Hân tháp tùng bí thư huyện ủy về vùng nam sông Thưa. Các xã khu nam trải dài từ Phạm Trấn tới Đúc Xương dọc theo bờ sông hoặc những dòng chi lưu. Con sông lượn lờ từ Xịch qua Trại Vệ, qua Đò Thưa qua Ánh và Bượi Cầu thì chẳng hiểu sao lại đổ vội về Đò Đáy, qua Yết Kiêu để rồi nhập vào với sông Thái Bình. Ngày xưa vùng này chi chít đồn bốt giặc mà Đò Thưa là một trong những vị trí hung ác nhất.

Hân và bí thư huyện ủy đều triền miên suy nghĩ về một vùng đất họ đang tới, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được ký kết, hòa bình lập lại, niềm vui tràn ngập khắp mọi nhà. Rồi cải cách ruộng đất và cao trào hợp tác hóa nông nghiệp sôi động khắp xóm thôn hẻo lánh. Từ bữa ấy tới hôm nay là một chặng đường dài. Người nông dân nuôi trong mình biết bao khát vọng. Kháng chiến chống Pháp mong ước ngày độc lập. Độc lập rồi chờ cải cách ruộng đất để làm ăn tập thể tiến lên chủ nghĩa xã hội. Rồi kháng chiến chống Mỹ. Rồi sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, lập hợp tác xã và xây dựng quy mô cấp huyện. Bấy nhiêu giai đoạn là bấy nhiêu ước mơ, người dân cứ việc đổ mồ hôi và xương máu để bước từ nấc thang này sang nấc thang kia, nhưng hỡi ơi, cái thang đó nằm ngang. Có lúc anh chạy hẳn hoi nhưng chỉ là chạy tại chỗ. Bởi vì ở làng quê ta hôm nay còn gian khổ lắm, người nông dân vẫn nhọc nhằn với hòn đất ải để bữa sớm bữa chiều bát cơm khi vơi khi đầy tùy theo kết quả của từng mùa. Lại còn bao tệ nạn nảy sinh. Họ kéo nhau đi kiện, đi đòi gặp lãnh đạo cấp trên chính là mong muốn giải tỏa một bế tắc. Khát vọng vươn tới của người nông dân dường như không biết mệt mỏi là gì.

Tới ngã tư Trạm Bóng xe rẽ sang đường Hai mươi. Bí thư huyện ủy đột nhiên hỏi anh cán bộ dưới quyền:

- Ông trả lời gọn xem là vì sao bà con làng Thị đề nghị xem xét lại quy mô hợp tác xã nông nghiệp?

Câu hỏi làm Hân bất ngờ. Nhưng không thể không trả lời. Lại càng không thể sơ sểnh. Suy nghĩ một lát anh quyết định trả lời chung nhất:

- Họ muốn làm giàu riêng lẻ.

Bí thư nhìn thẳng vào mặt Hân:

- Nghĩa là người làng Thị cục bộ?

Anh cán bộ huyện ủy khẳng định:

- Chính như vậy.

Bí thư rõ ràng đang suy nghĩ về một điều sâu xa nên không để cho người đối thoại với mình yên được:

- Thế thì đúng hay sai?

Hân chưa biết trả lời ra sao bèn tảng lờ bằng cách đăm đăm nhìn ngọn tháp nhà thờ Ba Đông cao vút. Đó là một làng công giáo toàn tòng của những năm trước thời kỳ chia cắt đất nước. Những ngày lực lượng vũ trang hai bên tập kết theo Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương, bà con giáo dân vào Nam, làng gần như bỏ không. Các gia đình vùng chung quanh được phép kéo đến ở. Họ sửa sang nhà cửa và xây dựng thôn xóm theo quy mô mới. Từ ngày lập chính quyền cách mạng, xã ấy chỉ có hai thôn. Và từ ngày xa xưa nữa họ cũng nằm trong một tổng gọi là tổng Thị. Dân làng Thị tự hào thôn mình được mang tên tổng thì dân làng Cao dường như chưa bao giờ thừa nhận cái làng nhỏ bé kề bên kia là bậc ngang hàng. Từ những ngày xa xăm ấy dân hai làng không ngừng tìm ra những ưu điểm của mình và nhược điểm của bạn để mà so sánh, để mà chế nhạo. Làng Cao cho rằng giếng nước làng mình bề thế nguy nga thì làng Thị tự hào bởi giếng làng mình trong veo, nước ngọt như nước đường phèn, con gái uống vào da trắng như trứng gà bóc. Làng Cao tự hào với cổng Đá, cổng Và, cổng Đông đồ sộ thì làng Thị đối lại bằng cổng Hột có tầng gác cho một tiểu đội tuần đinh ngủ canh với cây đa làng bảy người ôm mới xuể. Làng Cao khoe rằng đình làng mình có cột lim đẫy hai vòng tay người thì làng Thị khẳng định thần hoàng làng mình thiêng hơn, lại có hai cây quéo ở trước cửa để trở thành đất thơm cho cò, vạc, chim, muông trú ngụ. Làng Cao bảo làng Thị chỉ như cái trại của họ, thì dân làng Thị tuyên bố: "Chơi với quân Rồng mất gồng mất gánh", hoặc hát: "Qua Thông xuống Bóng chớ vào Rồng. Vào Rồng chó cắn gẫy gậy lại ra không".

Hoạt động ở vùng nam sông Thưa, cả Hân và bí thư huyện ủy đều hiểu những câu hát kia mang ý gì rồi. Chợ Thông, chợ Bóng, chợ Rồng là to nhất của vùng nam sông Thưa. Người ăn mày ngày trước chống gậy xin cơm cũng không thể nghĩ đến chuyện vào làng Rồng, tức là một tên gọi của làng Cao, mà dân làng Cao rất đỗi tự hào. Những ngày chống Pháp, lính quận Chương vào qua Kim Trang bò sang vây làng Thị thì du kích làng Cao xông ra chi viện đánh chặn, ngược lại lính bót Đò Neo qua đường Hai mươi đánh vào làng Cao thì du kích làng Thị vận động sang phối hợp chiến đấu. Nhưng làng Cao vẫn là làng Cao, làng Thị vẫn là làng Thị. Nghĩa là đình làng Cao to hơn, đình làng Thị có thần hoàng thiêng hơn. Hợp tác xã quy mô toàn xã, những vấn đề riêng của mỗi làng nảy sinh, quyền lợi mặt này mặt khác của mỗi làng đụng độ, cây đa, giếng nước đặc trưng cho làng nào là phải của riêng làng ấy không thể lẫn lộn được. Được vài năm làm ăn đâu ra đấy nhưng rồi sản xuất cứ chểnh mảng dần, mâu thuẫn phát sinh, tồn đọng này chưa kịp giải quyết thì va chạm khác đã nảy nở. Nếu có thể ví đây là một cặp vợ chồng thì người vợ là dân làng Thị đang muốn ly dị để chỉ còn coi nhau như anh em hay bạn bè bằng hữu.

Bí thư huyện ủy lại đưa ra câu hỏi:

- Người ta đòi xem xét lại đội hình sản xuất là do động cơ kinh tế nhưng chẳng lẽ chỉ có thế?

Cán bộ kiểm tra huyện ủy chau mày. Bao nhiêu lần anh toan giành quyền chủ động nêu vấn đề chung đều lần lượt bị buộc phải trả lời theo chiều hướng khác. Anh muốn tỏ ra lơ đãng, song như vậy lại mâu thuẫn với chính động cơ xuyên suốt của mình. Một con người như Hân có bao giờ và lúc nào muốn để cấp trên không vừa ý. Anh trả lời lưỡng lự:

- Có thể còn nguyên nhân khác?

Bí thư chộp ngay lấy:

- Nguyên nhân gì?

Cán bộ huyện ủy tặc lưỡi cốt cho xong chuyện:

- Về tâm lý chẳng hạn.

Bí thư vỗ đùi reo lớn:

- Đúng! Đúng là còn nguyên nhân tâm lý nữa. Mình đã có lần nghe một giáo sư sử học nói rằng làng Việt Nam, mà tiêu biểu là làng ở vùng châu thổ sông Hồng mang đầy đủ bản sắc cát cứ của chế độ phong kiến Việt Nam. Đó là những tế bào độc lập cất tạo nên đất nước Việt Nam. Phép vua ngày xưa ghê gớm là thế mà cũng bị chặn đứng ở cổng làng. Thực dân Pháp thất bại cũng có nguyên nhân không san bằng được các lũy kháng chiến của làng Việt Nam. Tình làng nghĩa xóm vừa thể hiện truyền thống tốt đẹp vừa phản ánh tư duy của nền kinh tế tự cấp tự túc chưa bị phá vỡ. Xây dựng quy mô sản xuất lớn mà không tính đến yếu tố xã hội này là áp đặt, là chủ quan, là nôn nóng.

Làng Thị hiện ra với chân tre viền quanh và bóng cau cao vút. Xe qua cổng Cầu Sung lập tức một đoàn trẻ con bám theo. Có đứa lợi dụng xe chạy chậm bám vào khung bạt nhảy lên. Có đứa đang đánh đu bị tụt quần vội vàng nhảy xuống. Đến giữa làng thì đoàn trẻ có tới trên ba mươi đứa trở thành ngần ấy cái loa loan tin tới mọi gia đình xã viên. Bí thư huyện ủy cùng cán bộ Hân bước xuống. Người lãnh đạo cao nhất huyện hỏi cháu bé đứng gần mình nhất:

- Nhà cụ Tuần chỗ nào?

Bọn trẻ ríu rít tranh nhau kéo bí thư đi tới. Nhưng ngay lúc đó một tốp người lật đật bước đến. Bí thư vội vàng bắt tay chào hỏi. Một người đàn ông tiến lên trước và tự giới thiệu:

- Tôi là Bùi Danh Tân.

Bí thư vui mừng:

- Anh mới về làng. Tôi nghe nói. May mà bữa nay lại gặp.

Đại tá phấn chấn:

- Bà con mong anh về. Bà con muốn được nghe anh nói và nói để anh nghe. Anh có thể ở đây cả ngày chứ?

Bí thư thân mật vui đùa:

- Được! Sợ rằng bà con không có gạo nuôi tôi.

Tân thanh thản:

- Vậy thì vui rồi. Có nghĩa là anh ở lại.

Họ rẽ vào một gia đình liền đó mà dường như vừa rồi ba người đại diện của làng đang ngồi uống nước tại đây. Bí thư huyện ủy chưa kịp bước lên thềm thì bà con kéo tới, kín mảnh sân con. May mà bọn trẻ nhít vớ được chiếc xe ô tô đang xúm lại đánh đu và lát lát lại bóp còi để rồi reo hò inh ỏi, nếu không chúng sẽ biến thành từng ấy cái loa đi khắp xóm trên xóm dưới kêu gọi. Bí thư quay mặt chào bà con rồi bước vào trong nhà. Dân làng tiến theo. Bí thư ngồi ghế giữa trước chiếc bàn con cùng vài người đại diện thì xã viên ngồi kín những chiếc giường và sập hai bên. Có người đứng. Có người dựa lưng khung cửa. Ngoài kia vẫn từng tốp kéo đến và thấy trong nhà đã chật thì ùn ùn ngồi ngay trên sân.

Một người đàn bà bước tới:

- Thưa bác, chúng em ít chữ nghĩa nên bác thứ lỗi cho những câu hỏi có gì gọi là sỗ sàng, đường đột, bác là bí thư huyện ủy phải không?

Đồng chí lãnh đạo trả lời thành thật:

- Vâng! Tôi là...

Người đàn bà nông dân nói năng kề rề cà rà, nhưng giọng đầy tự tin:

- Bác cho em hỏi, chế độ ta tốt đẹp như mong ước của Bác Hồ và ý nguyện của Đảng lãnh đạo, vậy người này có quyền bóc lột người kia như thời đế quốc phong kiến không ạ?

Bí thư huyện ủy nhìn người phụ nữ nông dân rất nhanh để đánh giá. Anh hoàn toàn không khó chịu chút nào trước những câu hỏi lạ lạ này. Anh sẵn sàng lắng nghe mọi ý kiến nên ôn tồn trả lời:

- Lẽ tất nhiên người không được bóc lột người bác ạ.

Người đàn bà vẫn kề cà nói như lúc ban đầu:

- Thế mà ở đây có chuyện ấy đấy. Người ta bỏ hoang ruộng đất. Người ta phát canh thu tô ruộng đất. Người ta nẫng tay trên tài sản do mồ hôi nước mắt của nông dân làm ra...

Bà này chưa kịp nói hết thì một chị nông dân địu đứa con nhỏ kéo ra để lấy chỗ cho mình tiến lại. Ai đó tỏ thái độ đồng tình:

- Đúng rồi! Bà Lai ra đi để cho người khác nói. Mỗi người chỉ được phát biểu ngăn ngắn thôi.

Bà tên gọi là Lai bực dọc đánh mặt sang chị nông dân bế con:

- Chị có quyền cấm tôi à?

Nhiều người trả lời thay chị:

- Chẳng ai cấm! Nhưng ai cũng muốn nói thì chỉ được nói ít thôi!

Bà Lai trợn mắt thách thức:

- Ít là thế nào? Tôi còn chưa nói xong. Tôi có quyền muốn nói đến bao giờ thì nói. Đừng ai hòng cậy thế bịt mồm tôi được!

Từ góc nhà có tiếng đáp lại gay gắt:

- Ai thèm bịt mồm nhà bà. Đồng chí bí thư không có thời gian nghe chuyện con cà con kê

của bà.

Bà Lai đỏ mặt:

- Tôi nói như thế mà bảo là con cà con kê à?

Nhưng rồi chẳng ai để cho bà đứng đấy mà cãi, họ nhoai tới kéo bà Lai lại để cho chị nông dân trình bày. Chị này cũng chỉ nói được dăm câu là có tiếng la ó để rồi đến lượt cô gái làng con bà Lai tên là Cúc tiến tới nói thay mẹ. Bí thư nhìn cô gái đánh giá: Thanh niên thời nay có khác, trẻ, khỏe, lanh lợi và duyên dáng thì không chê vào đâu được.

Bí thư khẽ nhắc:

- Cô nói đi, cô bé.

Cô gái mở đầu thực bất ngờ:

- Thưa bí thư!... Nhưng em muốn được gọi bằng anh cho tiện. Thưa anh, trong điều kiện

bây giờ người ta có quyền để hoang ruộng đất không ạ?

Bí thư trả lời luôn:

- Không một ai có quyền như thế đâu, cô bé.

Cúc hỏi nhanh:

- Vậy mà lãnh đạo xã này và hợp tác xã tự cho mình có quyền như vậy. Thực thì không một ai dại gì ngang nhiên tuyên bố cái quyền phản dân hại nước ấy. Nhưng họ đã chày cối cho rằng để hóa mười mẫu đồng Mè mấy vụ liền là điều khó thể tránh khỏi. Họ lơ đi những đòi hỏi của bà con. Họ lẩn khỏi những vấn đề bà con nêu ra như đàn chạch chạy nắng tháng sáu. Dân đói. Họ lo xây dựng hội trường thực lớn. Thưa anh, bà con xã viên chúng em không cần cái hội trường để khoe mẽ ấy mà lúc nào cũng chỉ mong muốn nồi cơm nhà mình thật đầy.

Cô gái ngừng một lát rồi nói tiếp:

- Dân nghèo mà ruộng lại bỏ hoang. Đó là sự khốn nạn không thể tha thứ mà những người lãnh đạo địa phương phải hoàn toàn chịu trách nhiệm!

Cô gái vừa nói đến đây thì bác Nham hùng hổ lao tới. Bác túm tay Cúc kéo giật lại và mặc cho bị phản đối cứ róng riết đẩy lùi về phía sau. Đoạn bác tiến đến bí thư cất giọng giận dữ:

- Xin đồng chí bí thư đừng chấp. Con bé này ngỗ ngược. Mẹ nó đã không biết dạy dỗ nó đến nơi đến chốn thì dân làng sẽ lo việc ấy. Từ bao ngày nay nó luôn mồm chửi bới bà con là khốn nạn. Bà con làng Thị chúng tôi không bao giờ như loài tôm tép cứt lộn lên đầu đâu đồng chí bí thư ạ. Chúng tôi đã có đơn gửi lên lãnh đạo trình bày các vấn đề. Hôm nay đồng chí về thăm bà con muốn nói để đồng chí nghe thêm cho rõ.

Lập tức có tiếng la ó:

- Vào đề đi! Vào đề đi!

Rồi hai nông dân nữa chen vai nhau bước lại. Rồi ai đó cuộn hẳn cái mành lên cho người ngoài sân nhìn vào. Trẻ con reo hò ngoài ngõ cùng với tiếng còi ô tô lát lát lại bim bim. Đến lúc này bí thư và chủ tịch xã mới kịp có mặt. Tình thế đã chuyển hướng. Bác Nham chưa nói được lời nào tỏ ra hậm hực và tuyên bố nội nhật ngày hôm nay phải gặp riêng bí thư huyện ủy. Đại diện dân làng là anh Thùy, anh Ưng, anh Tân mời bí thư huyện ủy thăm đồng. Các cán bộ chủ chốt của xã cùng đi tháp tùng. Tân lúc đầu muốn nhường quyền hướng dẫn giới thiệu cho hai người bạn vì lo mình chưa nắm hết tình hình thôn xóm, nhưng bí thư mời anh cứ đi cùng. Anh Thùy, anh Ưng, anh Tân trao đổi với nhau và quyết định mời thêm bác Nham giữa lúc bác đang hậm hực đe nẹt cô bé Cúc đã láo lếu lại còn nói dài.

Bác ngạc nhiên hỏi lại:

- Tôi ý à?

Anh Thùy gật đầu:

- Bác. Bác hiểu về đồng đất làng ta không ai bằng. Bác sẽ nói những điều cần nói để lãnh đạo huyện rõ.

Bác Nham tròn xoe hai mắt:

- Nhưng các người không được đưa tôi vào tròng đâu đấy nhớ. Đừng có hòng lợi dụng những lời tôi nói mà bảo là vu cáo để bắt bớ.

Anh Thùy vội vàng chắp hai tay vái lia lịa:

- Đi đi bố ơi! Đừng để mọi người chờ đợi. Ai nỡ bắt giam bố và làm như vậy để đi tù theo bố hay sao?

Đến lúc này bác Nham mới yên tâm bước theo anh Thùy ra ngoài đường cái. Vẻ mặt mãn nguyện của bác mới thật khôi hài. Đôi mắt hấp háy, nụ cười hồn nhiên cùng với cánh mũi phập phồng chẳng ăn nhập tí nào với bước đi trang trọng mà bác đang cố tạo ra. Khi họ phải chạy kịp những người đi trước trong đó có bí thư huyện ủy đã tới bờ giếng dưới gốc cây đề thì đôi chân bác cứ ríu lại. Nhưng mà không hề vấp ngã. Bác nhìn nghiêng ngó như chưa bao giờ được ngắm cảnh trời đất của làng. Bác ngẩng cao đầu và đôi môi mấp máy như muốn tuyên bố rõ to, thề có ánh nắng, hôm nay là ngày hội của làng. Trẻ con reo vui chạy theo đoàn người thăm đồng thành một hàng rõ dài tới tận Bờ Vô mới quay về tụ tập dưới gốc cây đề cùng với người lớn. Không một ai muốn về vì một buổi làm mà lỡ dịp họp mặt có một không hai này. Anh cán bộ kiểm tra của huyện thì bề ngoài vui vẻ nói cười nhưng trong lòng rất bực vì chưa có lúc nào gặp riêng Loan được. Anh có nhìn thấy cô gái ở đầu hồi ngôi nhà khi nãy nhưng chẳng hiểu sao cô lại nhìn đi nơi khác lẩn tránh. Sự ấy làm anh thắc mắc và buồn.

Đoàn người dừng lại ở Bờ Hồng. Từ đây có thể phóng tầm mắt tới tận Ba Tòa, triều trên, triều dưới, ngược lên chùa Hàn và qua cánh đồng Mè sang tận chân tre làng Mè bên kia sông. Dòng nước đục lờ và quẩn quanh vì phía hạ lưu người ta hạ cửa đập ngăn không cho dòng chảy ra sông Thưa là con sóng lớn trong vùng.

Mười mẫu đồng Mè bên kia sông. Bí thư nhìn chỉ thấy dải nước mênh mông và rập rình những vùng cây vông vang mà lòng căm giận. Cô gái làng tên là Cúc nói đúng: Bất luận vì nguyên nhân gì dẫn đến đồng đất bỏ hoang phải được coi là tội lỗi. Mà vì nguyên nhân gì họ lại để cho dân làng Cao vượt qua suốt cánh đồng làng Thị cấy mảnh ruộng bên cánh đồng Mè? Để tạo ra phép trung bình cộng cân bằng với cánh Mạn Điền màu mỡ hay thực chất là sự yếu kém trong tổ chức và quản lý? Làng Cao ở xa, người dân phải hết nửa buổi mới đi tới nơi canh tác nên làm ăn thua lỗ, bèn bỏ. Cánh đồng này lại chẳng phải loại tấc đất tấc vàng. Phải chăng ngay từ phút đầu nhập hợp tác xã toàn xã người ta phải phân chia đất đai canh tác theo kiểu giữ miếng thiệt hơn chứ không phải hoàn toàn vì phát triển sản xuất?

Bí thư huyện ủy bỗng nhớ tới một kỷ niệm kháng chiến đầu năm 1954. Đơn vị anh dùng phương pháp độn thổ phục kích một tiểu đội ngụy binh đi tuần ở Quán Khoang. Hoàn thành nhiệm vụ các anh rút chưa tới cánh đồng Mạn Điền thì lính quận Chương kéo vào làng Kim Trang. Phía bên kia lính bốt Đò Neo kéo qua đê Phượng Hoàng ra tận đường Hai mươi. Tổ chiến đấu của anh có nguy cơ bị hai gọng kìm kẹp lại. Đúng lúc ấy du kích làng Cao vận động ra đê Chùa Mới và du kích làng Thị vận động theo ngòi Ao Phe tới chùa Dền và chùa Mận hình thành hai mũi chốt chặn. Kẻ thù không tiến lên được. Các chiến sĩ ta giữa ban ngày nhanh nhẹn rút qua đê Mạn Điền an toàn về vùng căn cứ.

Những ngày tháng đã qua ấy đẹp tuyệt vời. Những ngày tháng ấy hai làng chỉ có một nhiệm vụ lớn xuyên suốt là đánh giặc giữ làng và họ nhịp nhàng phối hợp với nhau. Giờ đây những khát vọng riêng tư nổi lên, những mong muốn cuộc sống dễ chịu hơn nổi lên và người ta sẵn sàng chồm vào những ai ngăn chặn việc thực hiện khát vọng trường kỳ và nung nấu của họ. Khát vọng mong muốn cuộc sống dễ chịu là chính đáng. Nguyện vọng làm giàu là chính đáng. Người ta hoàn toàn có quyền căm phẫn việc để đất hoang hóa cũng như hồ, ao, sông, ngòi trong veo với những cọng bèo tây. Đó là những mất mát không thể tha thứ.

Phải tới lúc lẽ ra các nhà nổi lửa nấu cơm trưa, bí thư huyện ủy mới quay lại. Dân làng tập trung tất cả bên giếng dưới gốc cây đề. Cái giếng cổ lắm rồi. Bờ tường bao quanh rêu phong và đổ vỡ. Những bậc lên xuống bằng đá tảng nơi vết chân người bước lõm rõ sâu và nhẵn bóng. Bèo ong kết thành từng mảng, nước trong veo mát lịm khiến cả làng tự hào và truyền tụng rằng con gái uống vào da dẻ trắng mịn quả là có lý. Người ta đã kê từ lúc nào bàn viết và mấy cái ghế dài. Các cán bộ trên huyện, trên xã và đại diện dân làng là anh Ưng, anh Thùy, anh Tân ngồi xuống ghế. Cô gái Nguyễn Thị Loan được cử làm thư ký cuộc họp làng.

Anh Thùy đứng lên phát biểu:

- Thưa đồng chí bí thư huyện ủy! Thưa các đồng chí trên huyện và trên xã. Dân chúng tôi tụ họp ở đây bởi lẽ rất mừng có bí thư huyện ủy về thăm. Chúng tôi có một nguyên tắc duy nhất trong lao động là bắt đất đai sông hồ phải cho nhiều của cải, càng nhiều càng tốt và khát vọng duy nhất là làm giàu bằng đôi bàn tay lao động và trí sáng tạo của mình!

Vỗ tay nổi lên như sấm. Có người còn hưởng ứng hơi quá khích bằng cách hò la. Trẻ con chẳng hiểu ý nghĩa của những lời lẽ đó cũng cứ nhảy lên từng đợt.

Anh Thùy quay nhìn bí thư huyện ủy như muốn ngỏ ý xin phép xem có được nói tiếp hay không. Bí thư gật đầu khuyến khích. Cán bộ kiểm tra huyện ủy thì khó chịu ra mặt. Từ sớm anh toàn bị động. Từ sớm mấy lần định đề cập với bí thư huyện ủy về lá đơn kiện của dân làng mà anh đang âm mưu biến nó thành tờ đơn vu khống. Anh lừ mắt nhìn người đang phát biểu và đưa ra một câu ngầm cảnh báo: “ - Nhưng mà không được cục bộ”.

Câu nói ấy lọt vào tai Thùy. Anh đưa ngay vào nội dung bài phát biểu của mình:

- Vâng! - Anh nhấn mạnh - Lẽ tất nhiên là không được cục bộ. Nói đơn giản là không được chỉ thấy lợi ích của làng mình mà quên lợi ích của thôn bạn. Nhưng chúng tôi có quên lợi ích của thôn bạn đâu. Chúng tôi sẵn sàng chia sẻ ruộng đất, hồ ao vì bình quân làng Cao ít ruộng đất hơn. Nhưng người ta đã bỏ ruộng. Người ta xây hội trường tốn hàng chục triệu trong lúc chúng tôi đã không có hạt cơm đổ vào mồm giữa những ngày giáp hạt. Người ta đã ký hợp đồng bán lợn cho công ty thực phẩm huyện xập xí xập ngầu để nhân dân thua thiệt và những kẻ không hề biết nuôi lợn là gì đục nước béo cò. Chế độ ta là công bằng. Những kẻ làm nhịn đói, còn bọn ma cuội có tí quyền tí chức thì giàu lên nhanh chóng, có khác gì áp bức bóc lột.

Cán bộ Hân nói thêm vào:

- Chẳng lẽ anh không thấy đời sống đã khác trước biết bao rồi hay sao?

Người nông dân ngứa tai và hai mắt gần như trợn lên:

- Anh muốn nói tới những cái xe đạp của một nửa số gia đình thôn này chứ gì? Anh muốn nói tới những đứa con của làng tới trường đại học và ra cả nước ngoài nữa chứ gì? Rồi thì nhà nào đi ngủ cũng có màn, có chăn, hầu như nhà nào cũng có phích đựng nước và bộ ấm xuyến pha trà. Nhìn nhận như vậy mà bảo đời sống sung sướng lắm rồi thì chẳng khác nào bảo trái đất đừng quay trong suốt gần một nửa thế kỷ qua. Lối so sánh như anh tôi thấy khối ông tuyên huấn nói.

Hân nhăn nhó. May mắn được ngồi gần cô thư ký mà mới trước đây ít ngày đã cùng mình bập bềnh trên bãi biển Đồ Sơn, anh ghé tai vào cô nói nhỏ: "- Cha này gàn!". Anh không ngờ Loan quay lại, hai mắt cháy lên và đôi má đỏ hồng nhưng giọng cô vẫn nhẹ như một lời thông báo: "- Bố em đấy!".

Anh cán bộ huyện ủy rõ ràng chưa nghe ra còn cố hỏi lại:

- Hả?

Loan gằn từng tiếng:

- Bố em đấy mà.

Bà con ở dưới chỉ ngạc nhiên không hiểu sao mồm anh cán bộ huyện ủy bỗng dưng lại hiện ra tròn xoe xoe nhẽ thường nhét vừa một cái chén tống.

Người ta còn phát biểu rất nhiều rồi mới đến phần cuối cùng là bí thư huyện ủy nói chuyện. Mặt trời đứng bóng. Không một ai thấy thời gian trôi đi. Bí thư rõ ràng xúc động được nghe trực tiếp ý kiến của dân làng. Kẻ nào bảo họ manh động là chưa đúng lắm. Kẻ nào khăng khăng bảo họ cục bộ là không khách quan. Ở đây có hai chi bộ Đảng và hai đội sản xuất và đa số các đảng viên cùng đứng với dân làng. Khẩu hiệu phải làm giàu bằng đôi bàn tay lao động và trí sáng tạo của mình chẳng lẽ không phải là khẩu hiệu của Đảng hay sao? Sự khẳng định nghèo là khốn nạn chẳng lẽ là quá khích hay sao? Vấn đề phải gỡ ra như thế nào để không ảnh hưởng tới tình đoàn kết trong thôn trong xã, không dẫn đến tình trạng xáo canh, không vi phạm chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.

Bí thư không nói nhiều. Đặc biệt anh không hứa hẹn một điều gì cả mà chỉ xin ghi nhận mọi ý kiến của bà con để về báo cáo với tập thể thường vụ và cấp trên. Khi đại diện dân làng mời anh nghỉ ăn trưa thì có một người đàn ông đi tới nắm lấy tay anh lôi lại:

- Thưa bí thư, cụ Tuần muốn gặp đồng chí.

Người lãnh đạo của huyện như sực nhớ ra:

- Cụ gọi ạ! Chết thật, tôi có lỗi, đã tính thăm cụ từ đầu... Vâng! Vâng! - Anh rối rít - Tôi sẽ tới ngay.

Anh thanh niên làng chỉ vào Ưng:

- Cụ là bố đẻ anh này.

Bí thư quay lại nhìn một trong ba đại diện của làng. Anh Ưng gật đầu:

- Vâng! Bố đẻ ra tôi - Rồi Ưng quay sang anh thanh niên làng - Nhưng bí thư còn nhiều việc, chú bảo hộ với bố tôi...

Bí thư huyện ủy ngăn Ưng lại:

- Không có việc gì quan trọng hơn đối với tôi là tới thăm cụ Tuần lúc này. Tôi hiểu, anh Ưng ạ, cụ chẳng những cao tuổi nhất mà còn được cả làng này vì nể. Cụ chưa hề bôn ba đây đó nhưng những tháng năm hoạt động của cụ thì vẻ vang chẳng kém mấy người. Cụ như vị anh hùng những năm kháng chiến chống Pháp. Cụ không phải đảng viên nhưng rõ ràng cuộc đời là sự phấn đấu cho quyền lợi chung của xóm của làng. Vào gặp cụ một lát, trước là để tỏ lòng tôn kính và sau nữa là nghe những lời chỉ bảo bao giờ cũng là việc nên làm.

Đoàn người vui vẻ kéo vào nhà cụ Tuần.