Chương 5
Suốt những năm tháng đi xa, một trong những ấn tượng luôn luôn sáng lên trong nỗi nhớ nhung của Tân về làng quê là các cánh đồng. Nếu lấy cây đa cổng Hột làm chuẩn thì ruộng đất làng Thị chạy theo hình rẻ quạt mở đầu là vùng triều trũng ven sông Cửa Đình, rồi vùng Bờ Vô, Bờ Hồng, chạy qua Quán Dòng, chùa Hàn, về tới chùa Mận, Ao Phe, Lò Gạch, cầu Đá và Mạn Điền.
Cánh đồng Mạn Điền hơi xa làng nhưng màu mỡ. Những năm chiến tranh chống Pháp, cánh đồng này rất hay bỏ hoang vì quá gần quận lỵ Thọ Chương. Người nông dân cắm cúi theo trâu ngẩng đầu lên có thể thấy lính quận đã phục kích kín khóm tre đầu làng Kim Trang. Lúc ấy giữa đồng không mông quạnh không chạy cũng chết mà chạy chúng bắn theo cũng chỉ có chết. Phải mất một đoạn đường mới về tới chùa Dền và ngòi Ao Phe là trận địa phục kích chặn địch của du kích làng Thị.
Hợp tác xã thành lập, cánh đồng Mạn Điền đã đem lại cho làng biết bao của cải. Vụ chiêm trồng dưa hấu đổi gạo và xen kẽ là đỗ xanh, đỗ đen, thứ nào cũng cho sản lượng cao. Vụ mùa cấy nếp hoặc tám xoan là thứ gạo chỉ những nhà giàu nhất làng ngày xưa mới được ăn. Hợp tác xã toàn xã thành lập cánh đồng Mạn Điền cùng với mười mẫu lụt lội đồng Mè bỗng nhảy phốc lên một phát sang quyền quản lý canh tác của nông dân làng Cao. Khi cánh đồng Mè bị bỏ hoang thì người ta nhất quyết coi đây là thời cơ để thu lại toàn bộ đất đai vốn có từ thuở lập làng.
Sau buổi tiếp bí thư huyện ủy, bà con làng Thị càng lảng xa hợp tác xã toàn xã. Với lý do là những năm gần đây hợp tác xã toàn xã chả lo gì tới đời sống của bà con làng Thị. Dân kiến nghị, họ đưa ra đại hội đại biểu xã viên thì mỗi lần như thế bao giờ cũng bị là thiểu số vì dân làng Thị chỉ bằng một phần ba số dân làng Cao. Theo nhu cầu bức thiết, làng Thị đề nghị có cỗ xe đòn đám ma riêng, xã nhất quyết không cho kinh phí đã tự đóng và cấp cho một bộ mới tinh, giá thành một trăm năm mươi ngàn, mang về chưa dùng đã hỏng. Xã cử thợ sang sửa đi chữa lại tốn sáu mươi ngàn nữa, hỏng vẫn hoàn hỏng. Làng Thị bảo nhau góp tiền đóng cỗ khác chỉ tốn chín mươi ngàn đồng dùng rất tốt.
Dân làng Thị tuyên bố tự điều hành công việc đồng áng và nộp đủ mọi khoản nghĩa vụ với Nhà nước. Tân phân vân ghê gớm nhưng không thể phản đối. Nếu chỉ xét tới động cơ làm sao có nhiều của cải và thôn xóm yên vui thì anh hoàn toàn ủng hộ. Nhưng việc dãn đội hình hợp tác xã động chạm tới chủ trương, tới chính sách, khó ai có thể tự mình quyết định được. Anh rất thông cảm với bí thư huyện ủy hôm dự họp làng. Bà con đòi đồng chí lãnh đạo phải trả lời tại chỗ đồng ý cho dãn đội hình hợp tác xã toàn xã. Phút ấy chính Tân đã gỡ thế bí cho anh. Bằng uy tín của mình anh đề nghị bà con làm một đơn tường trình đầy đủ lý do nhờ bí thư huyện ủy mang về cho tập thể lãnh đạo và báo cáo lên trên. Cũng hôm ấy có người còn tranh thủ mắng nhiếc chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Bùi Văn Hoàng. Anh này người làng Thị nhưng ngày đêm làm việc tại trụ sở đặt ở làng Cao. Nếu anh ủng hộ hoàn toàn dân làng Thị và chi bộ làng Thị thì cũng có nghĩa hành động lệch hướng với nghị quyết thường vụ đảng ủy xã mà anh là một thành viên. Nếu anh lúc nào cũng xã nói thế này, huyện bảo thế nọ thì khó mà vác mặt về làng là nơi chôn rau cắt rốn. Có người khuyên anh nên bỏ phăng chức chủ tịch Ủy ban nhân dân xã về làm thằng lực điền là hay hơn cả. Nhưng anh không muốn thế. Anh biết mình bị kẹt, rất khó hoạt động. Nhưng chắc chắn làm chủ tịch xã vẫn hơn làm thợ cày. Cái khó của anh là vợ con vẫn ở làng Thị chứ không như cửa hàng trưởng Nguyễn Văn La nhổ phăng gốc rễ đưa vợ con sang xã cả.
Mùa màng ập đến nhanh chóng. Vừa mới hôm nào là những đợt heo may rải đồng và trẻ con đi bắt tôm húi hay thả cần câu cả mương xuống những bậc ao làng mà hôm nay lúa đã vàng rực trên khắp các cánh đồng. Nước triều rút vội. Hàng năm cứ vào dịp này là dân làng Thị nhộn nhịp hẳn lên. Họ phải lo mọi công tác chuẩn bị gặt hái, lại phải lo dọn cỏ và những cây vông vang trên cánh đồng triều bát ngát chạy dọc bờ sông Cửa Đình và lo làm vụ đông ngay sau khi gặt lúa nếp. Tân đi xa nhớ rất nhiều về những ngày này. Nước sông rút mau phơi ra những bãi bồi đầy hến. Dòng chảy hẹp lại làm cho mật độ tôm cá nhộn nhịp hơn và những đứa trẻ choai choai tổ chức thành từng tốp cào dậm theo dòng nước đang xuống. Mỗi lần giẫm chân lên một con cà da chúng reo vui sướng. Trên cánh đồng triều bát ngát những người phụ nữ hối hả dọn cỏ. Họ bắt được không ít những con cà da gần giống như cua bể nhưng nhỏ bé hơn và vui mừng nhẩm tính bữa canh rau cải chiều nay - Suốt những năm đi xa Tân ngập chìm trong những kỷ niệm làng quê ấy - Và rất lạ là, giữa những phút sục sôi công việc, trên suốt cánh đồng triều luôn luôn có những chú cò đơn chiếc với đôi chân dài nghêu và cái mỏ nhọn hoắt. Chúng dường như đã quen người nên chẳng buồn bay lượn khi con người đã tới gần. Chúng cứ thản nhiên mổ tôm cá và đĩnh đạc bước một trong cảnh nhàn du đơn độc. Đôi khi chúng vỗ cánh bay và bầu trời xám đục ghi mãi những chớp trắng nhỏ yếu, xa dần.
Một bữa Tân đi dọn triều giúp vợ, vừa về đến nhà thì anh Ưng và anh Thùy vội đến. Trời đã mờ tối. Ánh chiều vàng nhạt vừa tắt lịm đâu đây. Chị Tân thắp đèn giục chồng mời khách vào nhà nhưng chẳng ai để ý đến điều đó và cứ đứng trao đổi trên sân.
Anh Thùy hỏi ngay:
- Chú tính thế nào về mười mẫu triều đồng Mè?
Tân chưa sẵn sàng giải đáp một vấn đề thế này. Hôm họp làng bà con quyết định phải cấy mảnh ruộng ấy để tránh tình trạng bỏ hoang và tránh hiện tượng có thể có như đang đồn đại là phát canh thu tô. Ưng đã khẳng định không bao giờ mình làm như vậy nhưng dư luận không chịu buông tha anh. Anh phát cáu mặc kệ cho những lời đồn đại.
Ba người lặng im nhìn nhau và chờ đợi thái độ của nhau. Bỏ hoang hóa là có tội. Nhưng cày cấy lại không phải quyền của họ. Cứ làm là vi phạm. Rắc rối gớm! - Đại tá hếch mặt lên nhổ nhổ những sợi râu ngứa ở phía dưới cằm. Thói quen ấy chẳng đẹp đẽ gì nhưng bỏ thì thật là khó, nhất là những phút cần suy nghĩ và hai tay không phải làm gì. Hai nội dung vi phạm trên thì việc để hoang ruộng đất là đáng chém. Tân biết các bạn chờ đợi ý kiến của anh nhưng anh không dám quyết. Anh đề nghị mai đi xin ý kiến cấp trên. Tân muốn lên huyện. Anh muốn gặp bí thư huyện ủy chuyện trò nếu đồng chí ấy vui lòng tiếp. Hôm bí thư về làng Tân định gặp riêng nhưng chẳng còn thời gian nữa.
Anh lên huyện một mình. Thùy và Ưng lấy cớ phải ở lại điều hành công việc đồng áng nhưng cái chính là muốn đùn anh làm công việc giao tiếp đối ngoại. Bí thư vắng. Anh đợi. Nhưng chỉ vài phút đã thấy chiếc Lađa lượn vào chỗ đậu và đồng chí lãnh đạo của huyện bước ra. Bí thư nhanh nhẹn rẽ vào hàng hiên và đặt gót giày gấp gấp trên những bậc cầu thang ốp đá. Cả hai đều nhận ra nhau. Cả hai đều vui mừng tiến lại và vồn vã bắt tay nhau. Không khí bạn bè bằng hữu làm Tân thấy thanh thoát và anh thoáng lúng túng không biết nên đặt vấn đề như thế nào cho phải. Anh lo nhất mình có biểu hiện gì sai phạm vào chính sách. Mặc dầu gốc rễ là nông dân nhưng trong con người anh nhuốm đỏ màu lính. Quá quen thuộc với bản đồ, với các tình huống chiến thuật và chiến dịch, với thời cơ cho từng trận đánh lớn. Việc đồng áng vẫn chưa ăn nhập vào anh. Anh cảm thấy như từ bé tới giờ lần đầu tiên mình nhảy lên lưng con ngựa chưa quen biết và buộc phải ra roi. Nhất định là phải vừa phi vừa học cưỡi và tìm hiểu tính tình con vật. Làm sao đây cho khỏi ngã.
Tân vừa tâm sự điều đó xong, bí thư huyện ủy đã nói ngay:
- Chẳng phải riêng anh lo ngã ngựa mà chính tôi cũng thế. Lãnh đạo sản xuất có những khó khăn đôi khi tưởng như không vượt qua được. Người nông dân bây giờ không phải như ngày anh ra đi, cũng không giống vài năm về trước. Nhận thức của họ rất nhanh và nhậy. Người ta chỉ quanh quẩn trên đồng làng nhưng biết rất rõ bên Liên Xô cho đấu thầu ruộng đất năm mươi năm, hiểu tường tận tình hình làng xóm cùng với các tập đoàn sản xuất ở đồng bằng sông Cửu Long. Chỉ thị 100 ra đời gây không khí phấn chấn trên khắp các cánh đồng nhưng chỉ ít năm sau đã nhanh chóng không còn thích hợp nữa. Người nông dân nhiều nơi đang quẩn quanh đối phó với các đội thu hồi sản phẩm, có địa phương thực là quyết liệt và báo chí đã nói đến nghị quyết 10 ra đời mà nông dân ta quen gọi là khoán 10. Lại một luồng không khí mới tràn về. Chúng ta có quá nhiều chỉ thị và nghị quyết. Riêng lĩnh vực này, theo tôi, hiểu thế cũng được, nhưng đúng đắn hơn là phải nhìn nhận sự vận động của xã hội nông thôn Việt Nam rất mau lẹ. Nhận thức của chính chúng ta nếu chai lỳ là sẽ chuyển biến không kịp. Tôi lo nhất là mình lạc hậu hơn thực tại!
Tân giật mình. Chính anh cũng đang lo sợ mình chạy theo hiện thực đang phát triển. Biết rằng nếu sa đà vào những vấn đề có tính lý luận như thế này sẽ rất căng thẳng và làm lu mờ mục đích chuyến lên huyện của mình, đại tá hỏi vào đúng nội dung cần đề cập tới:
- Anh đã về thăm làng Thị. Anh đã nghe bà con nói. Tôi thay mặt dân làng báo cáo anh xem họ cấy trên cánh đồng Mè và đảm nhận các khoản nộp nghĩa vụ có được không?
Câu hỏi ấy rơi đánh tõm. Cả hai cùng im lặng. Tân thấy ngay mình đang thiếu cân nhắc và tự xấu hổ với mình. Không bao giờ nên hỏi đồng chí bí thư huyện một khía cạnh nhỏ nhặt thuộc phạm vi của thôn và xã giải quyết. Chỉ huy trưởng một sư đoàn lại quá quan tâm tới tình huống chiến thuật cá nhân và quên đi tình huống chiến dịch hay ý đồ bao quát của cả trận tấn công thì tốt nhất nên xuống làm trung đội trưởng.
Thực tình Tân thấy lòng mình chưa ổn. Anh vẫn lo lắng con ngựa bất kham của mình đang cưỡi. Chẳng ai vui thú gì khi phải thổi một điệu kèn ngập ngừng. Nhưng anh muốn biết chính kiến của bí thư huyện ủy về những vấn đề đại loại như thế này.
Toàn huyện không phải chỉ có làng Thị róng riết đòi xem xét lại đội hình hợp tác xã toàn xã. Vùng bắc sông Thưa có nơi người ta đã táo tợn chặn xe của chủ tịch huyện lại để chất vấn. Bên kia đường Mười bảy có xã còn tập họp lại mấy chục bà con kéo lên tỉnh, lên Trung ương, đòi gặp chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng giải quyết vấn đề ruộng đất. Là cán bộ lãnh đạo, khi quyết một nội dung cụ thể, bao giờ cũng phải cân nhắc giữa hiện tượng thực tiễn với lý luận đã được đúc kết, được cụ thể hóa thành chủ trương, chính sách. Cái khó là lý luận thường phải đi trước và dắt dẫn hiện thực nhưng không ít trường hợp đã từ hiện thực phong phú và sinh động mới đúc rút thành lý luận. Day dứt là ở chỗ này. Nếu có quyền định hướng và quyết định thì phải hành động như thế nào đối với một vấn đề vừa mới nảy sinh đang phát triển. Chờ đợi trên cho chủ trương thì đôi khi không ứng xử kịp với thực tiễn đang phát triển. Gặp hai người đang hăm hở lao vào đâm chém nhau thì việc đầu tiên là phải tìm mọi cách tách họ ra xa, thu vũ khí rồi mới đến phân biệt phải trái. Gặp một tai nạn giao thông thì việc đầu tiên là cứu người bị nạn rồi mới đến lập biên bản để xem xét bên nào phạm luật, bên nào đúng luật.
Bí thư huyện ủy vui vẻ phát biểu chính kiến của mình:
- Xem xét ai phải chịu trách nhiệm tới việc mười mẫu đồng Mè bỏ hoang thì trước tiên thuộc về bà con xã viên làng Thị và làng Cao. Bởi vì còn bao yếu tố liên quan đến nó. Cũng như việc anh Ưng có thu tô hay không thì phải từ chính nội bộ bà con làng Thị phán xét chứ. Tôi chỉ có thể nói nguyên tắc chung nhất mà anh cũng tán thành là: không được để ruộng hoang! Phải làm giàu và làm giàu bằng đôi bàn tay lao động cần cù và trí óc minh mẫn say sưa sáng tạo của mình.
Đại tá hỏi ngay:
- Bà con làng Thị quyết định vụ này cày cấy trên mười mẫu đồng Mè, anh thấy thế nào?
Bí thư khẳng định:
- Được! Với điều kiện các đội sản xuất của hai làng thương lượng nhau.
Tân nghĩ rất nhanh! Thế là ổn! Làng Cao muốn duỗi bỏ mười mẫu đồng Mè không khác gì một ông bố vớ được gã trai trẻ nào đó mang rượu thịt đến dạm hỏi cô con gái quá tuổi và hấp tính của mình. Họ vừa được tiếng nhường nhịn và lại vừa khỏi phải đeo cái vạ vào thân.
Nhân đà vui, Tân hỏi thăm dò:
- Vấn đề xin dãn đội hình hợp tác xã toàn xã thế nào anh nhỉ? Thực tình tôi rất lo vi phạm chính sách Nhà nước và nghị quyết của Đảng. Đã có thời chúng ta hô hào rất tích cực lập hợp tác xã quy mô lớn.
Bí thư mỉm cười:
- Thời ấy chắc anh đang ở trong quân đội! - Giọng bí thư vui lên trong tình bạn bè bằng hữu. - Cái bồng bột chủ quan đã nhường cho sự thận trọng và sâu lắng. Giá của sai lầm quá đắt. Có điều khốn khổ cho bà con mình là mọi hậu quả của lỗi lầm đều đổ lên vai người dân. Sản xuất mới xem ra có năng suất cao họ đã chuẩn bị nộp nhiều sản phẩm. Mùa màng thất bát họ ngửa mặt lên trời kêu đói.
Bùi Danh Tân phấn chấn. Anh thấy đồng chí lãnh đạo huyện nói trúng ý mình và tỏ ra rất hiểu người dân. Con người lao động trên đất nước ta và đặc biệt là nông dân suốt mấy thế hệ gian khổ hy sinh và mong đợi. Cách mạng thành công là bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, họ mong ngày độc lập. Kháng chiến thành công, họ mong đợi cải cách ruộng đất để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Rồi chống Mỹ. Rồi mong chờ thống nhất. Một nửa thế kỷ qua, hạnh phúc và sướng vui lởn vởn trước tầm nhìn của họ trong lúc thực tiễn vẫn đầy mồ hôi và cả đắng cay nữa.
Nhà lãnh đạo của huyện trả lời tiếp:
- Xin dãn đội hình hợp tác xã toàn xã không phải là vi phạm điều cấm. Nghị quyết 10 đã tháo gỡ nhiều, mặc dầu theo tôi thực tiễn diễn biến nhanh biết đâu chẳng có những vấn đề sau này phải bổ sung điều chỉnh. Nhưng anh biết đấy, như một cặp vợ chồng có đơn ly dị thì tòa án bao giờ cũng hòa giải đã, sau này thấy không còn cách nào tốt hơn mới đồng ý cho ly hôn. Ở đây tôi chưa nói đến trường hợp cụ thể xin ly hôn lại chỉ có một người ký trong đơn.
Tân hỏi luôn:
- Nghĩa là anh muốn dàn xếp cho ổn thỏa?
Câu trả lời như một hiệu lệnh:
- Đúng! Hãy cố gắng giải quyết sao cho ổn thỏa. Đây là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, chứ không phải mâu thuẫn đối kháng. Ngay trong huyện ta đã có địa phương xin dãn đội hình hợp tác xã toàn xã, nhưng rồi sau khi bàn bạc cân nhắc rất kỹ càng họ đã tự nguyện rút đơn. Tôi định tâm theo dõi chuyển biến của mấy địa phương này. Xây một cái nhà là khó. Nhưng phá mà phải cố giữ gần như đầy đủ nguyên vật liệu, những sắt, thép, gạch, đá còn khó khăn hơn nhiều.
Tân muốn trao đổi thêm về tình hình hợp tác xã song thấy ngay rằng như vậy là lạm dụng. Anh cũng đã kịp phát hiện ra bóng cán bộ kiểm tra huyện ủy đi cùng bí thư về làng hôm trước đang lởn vởn ngoài hành lang, chắc là có việc cần báo cáo, nên ngồi thêm cũng bất tiện. Đại tá đứng lên. Bí thư tiễn anh ra cửa. Hai người bắt tay nhau thật chặt và chí tình. Tân không về làng ngay mà rẽ vào thăm mấy anh em trước có thời cùng đơn vị đang công tác bên huyện đội. Họ làm cơm mời anh. Chiều mát anh mới ung dung đạp xe đạp xuôi tới sông Thưa. Chưa qua sông anh nhận ra rằng không thể nào không rẽ vào thăm chiến sĩ lái xe hôm trước đã đưa mình về. Chiến sĩ này đang xin chuyển ngành. Vào thăm gia đình chú ấy và hỏi xem công việc đến đâu rồi. Cả nhà vui đón anh. Ông bố kiên quyết không cho anh về trong đêm nay. Anh vui mừng ở lại. Anh có ngờ đâu qua một đêm, bao nhiêu sự việc đã diễn ra ở làng.
Cánh đồng Mạn Điền rộng trên hai mươi hécta và từ thuở người dân làng Thị xưa nhất có ở trên đời đã thấy nó thuộc quyền sở hữu của làng. Thuở ấy đất đai còn là tài sản riêng của cá nhân. Mạn Điền chủ yếu của ba gia đình giàu có và mấy trung nông lớp trên. Cải cách ruộng đất, cánh đồng Mạn Điền chia cho hai mươi nhăm gia đình nông dân. Mấy năm sau tất cả thành tài sản của hợp tác xã.
Ngày xửa ngày xưa, Mạn Điền vẫn là cánh đồng màu. Người ta cấy lúa nếp để tháng chín âm lịch gặt và trồng khoai sớm hoặc cấy tám thơm gặt muộn để trồng khoai ngắn vụ. Khoai lan gần tới rãnh lập tức được vén ngọn trồng đỗ các loại hai bên luống. Tháng năm mưa rào, đỗ tàn, khoai cũng đến mùa thu hoạch, người ta cày móc hai bên luống ra, vùi lấp thân đỗ và dây khoai làm phân còn lấy lại củ. Những chất hữu cơ này chăm bón lúa mùa và làm cho đất luôn luôn có độ mùa tơi, bở.
Mấy năm sau này nông dân đến trại Lương Đình Của mua giống dưa hấu đông ngắn hạn. Đó là một trong những đổi mới kỳ lạ ở vùng nam sông Thưa. Thì ra không phải chỉ mùa hè, mà cả những ngày nắng hanh khe khắt ăn miếng dưa hấu đỏ tươi và đầy nước ngọt vẫn mát rượi ruột gan. Tỉnh và huyện kêu gọi trồng dưa hấu đông xuất khẩu, nghe nói chở sang những nước xa xôi lắm. Toàn bộ cánh đồng Mạn Điền được trồng dưa hấu đông ngắn vụ đã rồi sau đó vẫn trồng khoai muộn hoặc cấy lúa chiêm xuân. Hòn đất được vần vò không nghỉ và cho ta nguồn của cải gấp ba, gấp năm ngày trước. Mạn Điền chỉ có ngần ấy diện tích nhưng đã nuôi sống một nửa dân làng Thị. Vào hợp tác xã toàn xã, đất ấy được cắt cho làng Cao và bỗng dưng họ còn được luôn cả mười mẫu đồng Mè chua mặn nữa. Thoạt đầu người ta có phân vân nhưng rồi tặc lưỡi: Ừ, thì đất đai là tài sản chung quốc gia. Làng Cao ít ruộng, bình quân đầu người của họ chỉ bằng năm mươi phần trăm bình quân đầu người của làng Thị. Họ nhận Mạn Điền đồng thời đảm nhận luôn mười mẫu đồng Mè xa xôi và chua mặn là đáng cho họ lắm. Lập luận ấy không bền vững. Người dân làng Thị nhanh chóng thấy mình mất mát. Câu châm ngôn: "Chơi với quân Rồng mất gồng mất gánh" từ ngày xưa bỗng dưng sống lại. Đến khi cánh đồng Mè bị bỏ hoang và biết bao rắm rối khác xảy ra dưới cơ chế của hợp tác xã thì ý thức về LÀNG đối với dân làng Thị trở nên mãnh liệt.
Sĩ quan về hưu Bùi Danh Tân không lường hết tính bột phát của vấn đề. Sáng hôm sau, khi anh còn đang lắng nghe gia đình chiến sĩ lái giới thiệu về chuồng lợn, chuồng gà và cách nấu rượu lấy bỗng nuôi lợn thì bà con làng Thị tập họp từ lớn đến bé, từ già đến trẻ, từ trai đến gái, kéo ra cày cuốc cánh đồng Mạn Điền vừa gặt trơ gốc rạ. Đội quân lao động đông đảo tới hơn nửa nghìn người do bốn mươi lực điền vác cày và dong trâu hùng dũng đi trước. Hầu như toàn trâu mộng. Chẳng biết các chú ngứa sừng hay khoái chí với cảnh rầm rầm rộ rộ mà cứ thi nhau nghé ngọ vang lừng. Tiếp đến là một đoàn các bà, các cô, vác vồ, vác cuốc. Rồi trẻ con hò reo như đang dự ngày hội. Chúng chạy lên, chạy xuống ra chiều vui sướng lắm.
Đội quân lao động đầy khí thế ấy quyết tâm ngay buổi sáng hôm nay cày vỡ, làm đất và trồng cây tra hạt nhiều nhất trên cánh đồng Mạn Điền càng vào sâu ở phía giữa được bao nhiêu càng tốt. Họ muốn làng Cao phải chấp nhận chuyện đã rồi. Họ không có ý định đánh lén hay đánh úp. Tối hôm qua họ còn gửi thư cho dân làng Cao báo tin xin lại mười mẫu đồng Mè và cánh đồng Mạn Điền vì họ đã lập ban điều hành sản xuất riêng mà không chịu sự chỉ đạo của ban quản trị hợp tác xã toàn xã nữa.
Bốn mươi con trâu mộng như một đoàn máy bay khu trục chở nặng bom vừa mới nhô lên đê chùa Dền đã bước sang cánh đồng Mạn Điền thì từ phía cổng Và của làng Cao xuất hiện hai chiếc máy cày đỏ như lửa hung hăng lao tới. Giống như xe tăng mở đường, sau hai máy cày hùng dũng, đoàn quân nông dân vác cày vác cuốc. Thấy có sự lạ bốn mươi con trâu dàn hàng ngang trên đê chùa Dền như một trận địa pháo sẵn sàng nổ đồng loạt. Nhưng chúng ngơ ngác. Có con tưởng rằng đây là cuộc tập trận giả vui chơi liền hếch mõm lên trời nghé ngọ hưởng ứng. Chủ của đàn trâu là những tay lực điền kỳ cựu không để mất thời gian, soạn thừng chão, ốp vai cày lên phía trên cổ trâu luồn thừng óng rồi hô bước rộn vang như các khẩu đội trưởng hạ đạt lệnh bắn cấp tập. Những đường cày đầu tiên lật đất thành đủ hình thù kỳ dị. Thế trận dàn ra rất nhanh chóng quanh cánh đồng Mạn Điền.
Lúc này đội quân có máy cày đỏ chói dẫn đường gấp rút vượt qua đê chùa Mới. Ngôi chùa nhỏ, độc mỗi cây đa và căn nhà ngói rêu phong vừa là chút hãnh diện của dân làng Thị. Làng Thị nhỏ nhưng có tới ba ngôi chùa lớn, tượng Phật nguy nga và rất thiêng, chẳng những chỉ là nơi thờ cúng của làng Thị và của cả bà con ở trong vùng. Chùa Dền nhỏ hơn, nghèo hơn. Chùa Mận cổ kính và rất nhiều hoa quả để nhà Phật thưởng thức và ban phát cho bần ni bốn phương. Chùa Hàn nằm bên cầu Mè uy nghiêm, bề thế và mỗi lần tiếng chuông ngân lên thì các đệ tử của làng Thị, của làng Mè, làng Đạo Phái, làng Kim Trang đều thành khẩn nghiêng mình đọc kinh nhà Phật. Các cụ kể rằng trước tình thế đó dân làng Cao vội vã xây dựng ngôi chùa và trồng cây đa làm biểu tượng đối diện với chùa Dền ở đầu bên này và đầu bên kia cánh đồng Mạn Điền.
Cả ba ngôi chùa ấy đều không nguyên vẹn như ngày xưa nữa nhưng dấu tích vẫn còn và con cháu sau này vẫn luôn luôn được nghe kể lại về một thời huy hoàng xa vắng của làng. Một đoàn khảo cổ của sở văn hóa đã về nghiên cứu và Nhà nước ta đã xếp hạng di tích đối với chùa Hàn. Một bài đã giới thiệu bia đá chùa này và đăng bản dịch chữ viết trên tấm bia ấy. Con cháu bây giờ chẳng quan tâm lắm tới Phật Tổ Như Lai nhưng cũng hãnh diện về một thời vàng son chói lọi của làng quê nhỏ bé của mình.
Cuộc giao tranh thực lạ. Nó được chính thức khai ngòi bằng việc một con trâu chẳng hiểu do từ nhỏ chưa thấy thằng bạn cùng nghề ăn dầu ma dút bao giờ hay vì một lý do nào khác bỗng nhiên hoảng loạn lồng té lên kéo theo cái cày và cả anh chàng lực điền. Hai chiếc máy cày lao xuống dốc chùa Mới, vòng quanh bờ chuôm và lượn sát mép cỏ chuẩn bị lấy đường cua xuống mảnh ruộng đầu tiên của cánh đồng Mạn Điền. Con trâu kéo theo cái cày và anh chàng lực điền cũng vừa lồng tới đó. Trâu chồm lên, chão đứt. Lưỡi cày bập vào bờ đê làm cho anh thanh niên tay vẫn cầm theo chóp cày bỗng ngã lăn kềnh chổng ngược bốn vó lên trời.
Một tiếng kêu như xé vải:
- Người làng ta chết rồi!
Lập tức không ai bảo ai bà con làng Thị xúm tới vây chặt hai chiếc máy cày trong lúc ba mươi chín tay lực điền còn lại ra sức thúc trâu đi. Dân làng Thị ít hơn những tỏ rõ sức quyết liệt của người giữ đất. Những tốp dân làng Cao bước tới đâu cũng bị chặn lại và được nghe những lời giải thích ngọt ngào rằng cánh đồng Mạn Điền từ ngày chưa có chùa Mới và chùa Hàn đã thuộc quyền sở hữu của làng Thị. Anh Ưng và anh Thùy lo lắng chạy ngược chạy xuôi khuyên bà con hết sức kiềm chế không để xảy ra những hành động đáng tiếc. Dân làng Thị nghe anh, ai ai cũng nhũn chi chi nhưng nhất quyết không để một người làng Cao nào bước xuống cánh đồng Mạn Điền. Người làng Cao thấy như bị lép vế là điều họ chưa hề thừa nhận bao giờ.
Một tiếng đồng hô:
- Tiến lên anh em! Đất đai là tài sản chung quốc gia. Cánh đồng này hợp tác xã toàn xã đã giao quyền cho chúng ta.
Lập tức anh Thùy nhảy lên lưng con trâu lồng khi nãy, đứng rõ cao, tuyên bố:
- Xin bà con làng Cao chú ý. Chúng tôi đã có thư gửi sang nói rõ: Cánh đồng Mạn Điền là đất đai sinh sống lâu đời của dân làng Thị. Bà con làng Cao còn có nhiều nghề phụ. Bà con làng Cao từng sinh sống ngàn đời trên cánh đồng của mình và giữ quan hệ hữu nghị với dân làng Thị. Chúng tôi xin bà con, chúng tôi giành cho mình quyền tự điều hành sản xuất và nguyện xin trở về hợp tác xã quy mô thôn.
Một kẻ xấu chơi nào đó bập cuốc vào chân trâu làm con trâu lồng lên. Khối người dạt ra và ít nhất có bốn, năm người ngã chổng kềnh bốn vó. Anh Thùy bị hất xuống một cái rãnh bê bết bùn đất. Xã viên làng Cao phát hiện ra đầu đằng kia cánh đồng, phía sát chùa Dền, cả một rẻo đất rộng và chạy dài sát tới chân khóm tre làng Kim Trang chưa có một đường cày nào. Hai chiếc máy cày chồm tới. Dân làng Thị chặn phía trước bằng cách chạy giật lùi và luôn luôn ép người mép ruộng để máy cày không lao xuống được. Không khí lúc này chứa đựng sự bùng nổ. Dân làng Thị điều ba bà già đều là mẹ liệt sĩ lên trước. Hai chiếc máy cày lợi dụng các bà chậm chân chậm tay, chồm lên mở đường cua, vòng xuống đúng lúc các bà tới kịp. Một bà ngã lăn trước máy cày giãy đành đạch, mặc dầu sắt thép chưa chạm tới người. Một bà ôm chặt bánh máy cày gào thét như chính nhờ bàn tay giữ của bà mà cỗ máy chịu cứng không sao cựa quậy được.
Làng xóm kêu ầm lên:
- Chết người rồi, bà con ơi!
Người ta gọi y tá mặc dầu chẳng hề có y tá. Người ta gọi cáng thương nhưng chẳng có cáng thương. Người ta hò nhau cõng, kiệu người bị nạn. Điều rất lạ là bà mẹ ôm bánh máy cày cứ khư khư hai bàn tay và hai chân giẫm trên đất trong lúc miệng la trời. Hai bà đã ngã được nâng dậy. Các bà đau, sứt sát nhưng không hề bị thương, nhưng người ta cứ hò lên là bị thương. Hai chiếc máy cày giờ đây bị vây chặt không sao cựa quậy được. Dân chúng hai làng quấn vào nhau không để ý tới trưởng công an xã và xã đội trưởng người làng Cao dẫn một tiểu đội dân quân có súng ống tề chỉnh cũng là người làng Cao đang vận động quanh chuôm chùa Mới.
Tiếng loa điện phát ra:
- Giải tán! Yêu cầu giải tán!
Đứng trước mặt dân làng, tiểu đội dân quân chín tay súng nhìn ngó và chờ lệnh. Người dân làng Thị không thấy có thành viên nào trong đội ngũ ấy liền hét tướng lên: "Chúng nó mang súng ra dọa, bà con ơi! Chúng nó định giết dân mình bà con ơi!". Tức thì người ta thấy bác Nham, Cúc, Loan và một loạt những người khác lao tới và thình lình, hết sức chủ động, nhanh như chớp, giằng lấy những khẩu súng của dân quân. Loan vớ được khẩu K44, chẳng biết loay hoay thế nào mà một phát đạn bay vút ra khỏi nòng cùng với tiếng nổ đánh đoàng. Viên đạn ấy lướt qua cánh tay một người dân làng Cao.
Anh Thùy tái mặt vội vàng hét:
- Bỏ súng xuống! Bỏ súng xuống! - Hai mắt đỏ nọc, môi nhợt nhạt, anh chạy ngược chạy xuôi và trở nên hung hăng quyết liệt giằng lấy súng trong tay bất cứ ai còn đang do dự chưa hạ nó xuống đất. Anh giận dữ mắng mỏ bất cứ ai thái quá hoặc cương còng dám cưỡng lại mình và chẳng hiểu người ta sợ vẻ mặt dữ tợn của anh hay là sợ nguy hiểm với trò chơi súng đạn, nhiều người tự nguyện quẳng súng vào một chỗ.
Người dân làng Cao bị đạn bay sượt cháy áo là ông Hinh. Vừa quá bất ngờ vừa thần hồn nát thần tính ông ta ngã nhào và run lên bần bật như chuẩn bị tắt thở. Dân làng Cao kêu lên: "Chúng nó bắn chết người làng mình rồi bà con ơi!".
Cuộc giáp chiến chắc chắn sẽ xảy ra nếu như phút đó không có hai xe Sítđờca chở mấy chiến sĩ công an huyện cùng bí thư đảng ủy xã và chủ tịch Ủy ban nhân dân xã ào tới. Bí thư đảng ủy và chủ tịch Bùi Văn Hoàng nhảy lên lưng trâu. Nhưng Hoàng bị bà con làng Thị kéo xuống. Bí thư đảng ủy kêu gọi bỏ vũ khí cùng với tất cả cuốc, xẻng, gậy gộc. Phó huyện trưởng công an đứng trên thùng xe ba bánh tuyên bố: Ai không được phép mà vẫn giữ vũ khí là phạm pháp. Anh nhấn mạnh để mọi người nghe rõ là trong trường hợp này cần thiết phải vận dụng quy định bắt khẩn cấp. Chín khẩu súng được giả lại ngay ngắn. Vồ, cuốc của làng nào xếp vào từng đống của làng ấy. Ba mươi chín con trâu đang kéo cày được lệnh dừng lại, tháo khoẳm, cởi chão. Ba mươi chín cái cày đứng im trên đất như trận địa súng cối hạng nặng còn đàn trâu thì nghênh ngang tìm tới những bãi cỏ rậm. Nhiều tay lực điền cho rằng, mình chỉ có phận cày, được nghỉ là thích, túm năm tụm ba, vớ lấy những cái điếu cày rít từng hơi sòng sọc và thở khói khoan khoái đón nhận giờ phút thanh bình của cuộc hưu chiến.
Tân về tới cổng Cầu Sung thì đúng lúc công an huyện và địa phương đang lập biên bản vụ xô xát. Anh chưa biết sự gì xảy ra nên ung dung và mải miết đạp xe, bụng mừng vui nghĩ tới chiến sĩ trẻ nọ với cô Loan, con gái bạn mình. Anh thấy chúng đẹp đôi và tin rằng nếu mình giới thiệu mọi việc sẽ thành. Bỗng anh nhận ra điều khác lạ là làng xóm vắng tanh vắng teo. Khi vỡ chuyện anh vứt xe đạp, ba chân bốn cẳng chạy tới cánh đồng Mạn Điền. Vừa lao tới anh đã bị phó trưởng công an huyện chặn hỏi:
- Anh là Bùi Danh Tân?
Sĩ quan về hưu sững sờ:
- Vâng! Chính tôi đây.
Phó trưởng công an huyện hỏi tiếp:
- Anh là một trong ba thành viên trong ban điều hành sản xuất của làng?
Tân có phần nào ngơ ngác:
- Vâng. Dân bầu tôi.
Một tờ giấy đã có hai chữ ký được đưa ra:
- Anh ký vào biên bản.
Tân thấy anh Thùy, anh Ưng cùng đông đảo bà con đang chăm chú chờ đợi thái độ của mình. Anh lưỡng lự:
- Tôi chưa rõ về việc gì.
Phó trưởng công an huyện giải thích:
- Biên bản cần có đủ chữ ký của những người đại diện cho làng. Liên đới của anh với sự kiện hôm nay tới mức nào xem xét sau và anh có thể bảo lưu ý kiến của mình bằng cách ghi tóm tắt vào chỗ sẽ ký. Anh có thể ghi rõ thời gian xảy ra sự kiện trên cánh đồng Mạn Điền, anh đang trên đường gặp bí thư huyện ủy trở về. Còn đây là hành động hoàn toàn bột phát hay có chuẩn bị cũng sẽ được xem xét sau.
Tân đọc tờ biên bản. Anh ghi những điều cần thiết đối với mình và ký. Khối người giải tán. Dân ở đâu về đó. Bốn mươi con trâu với bốn mươi lực điền vẫn đi trước nhưng khí thế xem ra không còn ngạo nghễ như buổi đầu. Phía sau là dân làng, hình thành từng tốp, trò chuyện lao xao, có người hậm hực vì mục đích chưa thành, có người vui vui vì đây thực là một trò chơi có giá, có người gào thét đòi phải trị cho phía bên kia đến nơi đến chốn và bằng mọi giá phải giữ lấy cánh đồng Mạn Điền.
Chẳng cần nghe ai nói lại từ đầu đến cuối sự việc, Tân cũng hiểu ngay rằng đây là vấn đề hệ trọng. Buổi nói chuyện với bí thư huyện ủy mờ nhạt trong anh. Anh đâu có ngờ đến nông nỗi như thế này. Anh tặc lưỡi: "Đã vậy, mình sẽ chịu với dân làng. Sướng vui cũng như hoạn nạn phải có bên nhau".
Anh Thùy và anh Ưng đợi anh ở cổng Hột. Cả ba chẳng nói một lời rẽ vào thăm cụ Tuần lúc này đang liệt giường liệt chiếu.