Chương 6
Cụ già nhỏm đầu dậy khi ba người đàn ông bước vào. Ở tuổi cụ như người ta thường nói là gần đất xa trời hay lực bất tòng tâm, thường phó mặc sự đời cho con cái. Nhưng cụ Tuần không thế. Cụ cho rằng chỉ khi nào nhắm mắt xuôi tay mới thôi để ý đến xóm, đến làng. Cụ đau lòng vì chí cùng lực kiệt không ra ngoài Mạn Điền với bà con được. Cả làng biết cụ là một trong những người đã đổ nhiều mồ hôi vào loại nhất trên cánh đồng ấy suốt bao năm tháng lao động vất vả. Cụ còn hiến một phần máu đỏ trong cuộc kháng chiến chống Pháp cũng trên cánh đồng Mạn Điền. Ấy là những ngày bộ đội địa phương Gia Lộc tập kích tiểu đội lính ngụy đi tuần từ Đò Neo tới Thọ Chương ở khu vực Quán Khoang. Du kích làng Thị vận động ra đê chùa Dền chặn một cánh quân địch có thể từ làng Kim Trang tiến ra, bảo vệ đường rút lui cho các anh. Một chiến sĩ bị dính đạn thù ngã lăn trên luống cày của cánh đồng Mạn Điền. Cụ Tuần lao tới. Lẽ tất nhiên lúc ấy cụ chưa già và chưa yếu như bây giờ. Cụ cõng anh bộ đội huyện mặc cho đạn súng cối từ Đò Neo bắn chặn. Về tới làng Thị yên ổn, cụ mới thấy áo mình ướt máu và một mảnh đạn găm vào bả vai. Anh bộ đội ấy giờ đây là bí thư huyện ủy còn cụ thì sắp sửa đi vào cõi tiên.
Cụ hỏi chung tất cả:
- Các anh định đòi lại cánh đồng Mạn Điền phải không?
Cả ba nhìn nhau. Một lát, Tân mới ngập ngừng:
- Vâng! Thưa bác...
Cụ hỏi tiếp sau một cơn ho:
- Nghe nói có xảy ra xô xát?
Cả ba lại nhìn nhau. Rồi Tân giải thích:
- Chẳng hề có xô xát. Chỉ là tranh luận thôi ạ.
Cụ Tuần không hài lòng:
- Có súng nổ. Con Loan bắn phải không? Anh Thùy. - Ông già mở tròn hai mắt - Anh dạy con cái cầm súng như thế phải không? Nghe nói công an có về mà chẳng hiểu sao họ không bắt trói cả một lũ các anh lại.
Ba thành viên trong ban điều hành ngồi đuỗn dài mặt ra. Ông cụ vừa nói vừa húng hắng ho và xem ra mệt lắm. Mặt cụ hơi hồng lên làm cho sắc thái tươi tỉnh. Đôi mắt cụ loang loáng trở lại, vẻ tinh anh như những ngày nào. Cụ thở. Rồi cụ xuống giọng trầm tĩnh như là tâm tình nhắn gửi:
- Đừng bao giờ nôn nóng. Gần chín mươi tuổi đầu, tôi đã sống qua bao lần nước sôi lửa bỏng đến tai hại. Đòi ruộng về cũng phải sao cho có lý có tình và trên dưới xuôi lòng. Bà con nông dân ta phải mong mỏi trước tiên là sao cho mưa thuận gió hòa và càng tránh được những cơn hồng thủy chướng giật nhiều bao nhiêu càng tốt.
Cụ im lặng. Cụ không còn sức nói nữa hoặc giả cụ để thời gian cho người nghe suy nghĩ. Các thành viên trong ban điều hành sản xuất hiểu ngay cụ mong muốn gì rồi. Cụ đã nhiều lần không giấu giếm sự ân hận về những hành động quá khích của bà con ta trong những cao trào của từng đợt vận động cách mạng. Ngày cải cách ruộng đất mới thật là bồng bột ngây thơ, nghe ai mà lại gán cho ông Nguyễn Văn Ngà có mười hai mẫu ruộng là huyện ủy viên Việt Nam Quốc dân đảng. Ông tham gia kháng chiến như mọi người dân, làm chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến xã, làm phó chủ tịch Mặt trận Việt Minh Liên Việt huyện và nhiều công tác khác. Ông có ba con trai thì một cầu an chạy vào Hà Nội, hai ở lại vùng căn cứ kháng chiến và dạy học. Tới cải cách ruộng đất, nhiều bà con a dua nhau tố bừa lên rằng ông chẳng những đầy những tội ác về kinh tế mà còn phản dân hại nước, chui vào hàng ngũ kháng chiến để phá hoại kháng chiến, gửi con vào Hà Nội làm mật thám cho giặc, rồi lôi ông ra bắn tại Quán Dòng. Con người ấy ngã xuống làm cụ Tuần suốt mấy đêm không ngủ. Cụ thừa nhận ông Ngà có bóc lột về kinh tế, có dồn ép mắng mỏ người làm, trong đó có cụ, có làm lý trưởng một thời gian trước ngày khởi nghĩa, nhưng không bao giờ cụ thừa nhận ông là người chống lại kháng chiến, phản lại dân tộc. Cụ nhất định không chịu đấu tố là điều mà cán bộ đội cải cách ruộng đất rất khó chịu nhưng không làm gì được vì cụ là một cố nông và là một con người mẫu mực của làng. Khi có phong trào sửa sai, những kẻ quá khích lại hò hét nhau đi diệt cốt cán. Nếu không có cụ thì chẳng phải ai khác mà chính bác Nham làng này đã xuống âm phủ cũng nên. Cả một đoàn người đầy khí thế kéo đến nhà người mình định hỏi tội. Bác Nham sợ quá nhảy vào buồng rồi phốc lên gác xép ghép bằng những tấm gỗ nằm nín thở. Đoàn người gậy gộc ào ào kéo tới sục tìm: không thấy bác Nham, họ toan châm lửa đốt nhà. Vợ con bác lạy van và khóc váng lên. Vào đúng lúc ấy, cụ Tuần - còn đang khỏe mạnh nhanh nhẹn, bước tới. Cụ nhảy lên một cái cối đá, đứng cho cao rồi quát nạt:
- Các người định làm trò gì thế này?
Một gã trống choai gào thét:
- Đốt sạch râu lão già đi!
Cụ Tuần mới để râu từ những ngày đội cải cách ruộng đất về làng. Cụ tin vào mình cũng như tin ở lẽ phải, nên đã lớn tiếng đáp lại:
- Cứ đốt sạch râu tôi đi! - Mắt cụ bỗng rực sáng - Nhưng tôi cấm châm lửa đốt nhà của người đàn bà khốn khổ này. Hò hét như thế này là quá lắm. Ai cho các người được quyền xét hỏi người khác. Giải tán!
Cái mệnh lệnh ấy mới thực kỳ quặc bởi nó được phát ra từ cửa miệng người chẳng hề có chức có quyền gì cả. Nhưng dân làng nghe. Người ta thấy cụ có sức mạnh. Khi thôn xóm đã trở lại thanh bình người ta mời cụ ra làm chủ tịch Mặt trận nhưng cụ vin vào lý do mình ít chữ nghĩa, nhất định từ chối. Song, việc làng từ lớn đến nhỏ không thể vượt qua mắt cụ. Giờ đây tuổi già sức yếu phải yên vị nằm đó thì chỉ những kẻ láo lếu như Nguyễn Văn La mới có gan báng bổ lại những lời khuyên răn của cụ.
Cụ đưa bàn tay xương xẩu lên tìm bàn tay Tân chứ không phải bàn tay Ưng, - con trai cụ. Cầm được rồi, cụ cứ nắm lấy như những cọng rơm khô buộc quanh một chùm củ mài củ sắn. Cụ muốn nói một điều gì mà nghĩ mãi chưa ra hoặc giả quá mệt mỏi chưa cất lời lên được. Lát sau, bỗng cụ làm động tác như kéo kéo Tân lại gần và thì thào.
Cụ nói nhiều. Câu được câu chăng. Mọi người lắng nghe và hiểu rằng nhiều suy nghĩ đánh giá thời thế của cụ không còn thích hợp nữa nhưng vẫn muốn nghe cụ nói. Chỉ đến khi cụ tỏ ra mệt lắm, họ mới khuyên cụ nằm im để cụ nghỉ ngơi hoàn toàn. Họ ngồi luôn đấy bàn việc của làng. Họ nhận định tình hình về buổi sáng và nghe Tân thuật cuộc tiếp xúc với bí thư huyện ủy. Nội dung cuộc tiếp xúc ấy bị chìm xuống, bởi sự việc bồng bột mới xảy ra. Đang lúc trao đổi thì Loan tìm đến. Mọi người chăm chú và hăm hở nghe cô kể lại.
Thùy hỏi cắt ngang:
- Chúng nó có khóa tay mày không? Chúng nó có truy bức mày bắt phải trả lời theo ý chúng không? Đứa nào đầu trò đưa ra các câu hỏi?
Cô bé chẳng tỏ ra vội vã mà cũng chẳng tỏ ra lo lắng gì trước sự kiện này. Cô nói với bố:
- Thì bố cứ để im con kể. Chả có gì phải sợ cả. Con cầm lấy súng. Chẳng may cướp cò. Con có chủ định bắn ai đâu mà sợ.
Ông bố trợn mắt:
- Nhưng mà đạn đã làm chảy máu người ta. Chúng mày liệu hồn! Súng đạn không phải là đồ chơi đâu mà cứ muốn vồ lấy lúc nào cũng được.
Loan cãi:
- Thì cứ để im con nói, chưa chi bố đã hỏi dồn dập, rồi chửi. Cái ông Hinh bị sướt da ấy tới ăn vạ, bắt con phải về lấy tiền để ông đi viện. Năm chục ngàn! - Ông ta hét lên như thế. Lại còn đe kiện ra tòa. Con nói ngay là muốn kiện đâu thì kiện, còn cái gọi là vết thương kia cứ lấy lá cây bỏng mà đắp hoặc cho trẻ con đái vào là khỏi - Rồi đột ngột cô gái cất giọng cay độc - Đồ ăn vạ! Đồ cặp kè!
Thùy giãy nẩy lên:
- Mẹ bố mày! Mày ăn nói như thế mà sao người ta không gang mồm mày ra hả con bé này.
Cô gái vẫn bình thản:
- Chưa chi bố đã chửi. Bố chửi thì con nghe chứ bọn làng Cao chửi thế mà con chịu được à? Ông ta kéo cả nhà ra ăn vạ và gào thét tục tĩu thì con tha đập vỡ mặt là phúc lắm rồi. May có công an huyện can ngăn. Nếu không chắc cũng chẳng êm nhẹ chuyện này được.
Tân hỏi xen vào:
- Có làm biên bản không?
Cô gái trả lời rất nhanh:
- Có ạ!
Ông bố sợ hãi:
- Mày ký chứ?
Loan vẫn thản nhiên:
- Tất nhiên con ký. Sợ gì đâu ạ.
Thùy hồi hộp và băn khoăn:
- Viết như thế nào? Là tao hỏi về nội dung biên bản ấy.
Cô gái kể:
- Tường thuật lại sự việc. Khẩu súng ấy đã nạp đạn sẵn từ lúc nào con không biết. Con chỉ mới vừa chạm phải đã nổ. Chẳng may thôi mà!
Ông bố kinh ngạc:
- Mày nói nghe dễ dàng gớm nhỉ. Chẳng may thôi à? Lỡ đạn thủng bụng cái ông Hinh ấy thì sao?
Cô gái mỉm cười như đùa trêu bố:
- Thì con đi tù. Ở đời làm gì có chuyện lỡ thế hả bố? Cái gì phải xảy ra thì nó đã xảy ra!
Thùy đỏ mặt:
- Cút! Đồ mất dạy. Ăn nói cứ như là với bạn bè không bằng.
Cô gái bám lấy bố và cười làm lành:
- Chưa chi bố đã nổi cáu. Chú Tân và chú Ưng nghe chưa. - Cô gái quay sang phía những người bạn của bố - Bố cháu hồi này đến là hay nổi nóng. Cháu có làm gì cho bố cháu phải giận đâu nhỉ?
Nhí nhảnh một thôi như vậy, cô gái mới tường thuật thêm một số chi tiết xảy ra lúc cô bị công an dẫn vào trụ sở Ủy ban nhân dân xã đặt ở làng Cao. Với cô, mọi việc đều hồn nhiên và chả có gì quan trọng. Ứng xử không khéo dẫn đến kịch chiến cũng tựa như đem miếng vải ra cắt áo loay hoay sao lại không đúng mốt thời trang, có khác chăng là ở chỗ cãi nhau chán rồi thì thôi, cười hề hề là xí xóa hết, còn miếng vải cắt lầm thì xót xa lắm, phải tích cóp đến bao giờ mới đủ tiền mua một thứ hàng đẹp như thế. Việc quái gì phải nghĩ cho nát lòng nát ruột.
Cô con gái ra khỏi, cụ già mới tỉnh lại sau một chập thiếp đi. Cụ lên tiếng làm mọi người chú ý.
- Tôi sắp về cõi tiên phật rồi. Chỉ mong sao các anh lãnh đạo dân đừng để dân oán, dân hờn và cũng đừng dắt dẫn dân lao vào những hành động quá đáng để sau này phải sửa đi sửa lại. Dân tin các anh. Nhưng các anh đừng lạm dụng lòng tin chân thành ấy. Các anh chỉ viết thư thôi chưa đủ mà còn phải cử người sang thương lượng với dân làng Cao về cánh đồng Mạn Điền - Ông cụ im lặng một lát rồi đưa ra câu hỏi làm mọi người ngơ ngác nhìn nhau - Mà sao không mời chủ tịch Hoàng tới cùng bàn nhỉ?
Ưng nói nhanh:
- Chủ tịch Hoàng làm việc trên xã và là người của xã.
Cụ Tuần rõ ràng bất bình trước câu trả lời ấy. Cụ muốn ngồi bật dậy, nhưng sức yếu không làm nổi việc đó. Giọng cụ gay gắt:
- Nói gì lạ thế anh Ưng? Người của xã thì nhẽ thường không thể là người của làng nữa hay sao? Đừng ăn nói theo kiểu chia rẽ như vậy.
Vấn đề không đơn giản như người già đã nghĩ. Chủ tịch Hoàng có thái độ lừng khừng trước mọi diễn biến gay gắt ở làng và ở xã. Anh là phó bí thư đảng ủy, là chủ tịch, nhưng lại là con của làng Thị, không được phép cục bộ địa phương nhưng cũng phải giữ sao cho mình mãi mãi là con của làng. Quan nhất thời, dân vạn đại. Bất cứ một ai quay lưng lại với bà con chòm xóm đều có nghĩa là cầu rút ván, hậu quả lâu dài khó lường hết được. Chi bộ làng Thị ủng hộ nhân dân làng Thị còn đảng ủy xã rất muốn giải quyết vấn đề này sao cho êm đẹp, không gây căng thẳng, không mất lòng cấp trên và lại được lòng cấp dưới, để không bị trên quở trách và cũng không bị nhân dân la ó.
Bàn bạc với chủ tịch Hoàng lúc nào chẳng được vì tối đến anh ta dứt khoát phải về làng ngủ với vợ con. Vấn đề sang làng Cao bàn bạc với dân làng đó hệ trọng hơn nhiều. Việc này không dễ. Cả Thùy và Ưng đều không dám nhận. Họ viện lý do chưa quen ăn nói, nhưng thực ra là ngại, mà trực tiếp bàn bạc với dân chứ không phải là cấp ủy ban lãnh đạo gì cả. Đầu xuôi đuôi lọt, dân có thông mọi việc mới trôi. Chuyện va chạm ở Mạn Điền chắc chắn người làng Cao còn hậm hực khá lâu, nói chuyện với họ rất dễ dẫn đến thượng cẳng chân hạ cẳng tay và điều này không kém phần hệ trọng, giờ đây cần nhắc lại mới thấy dân làng Cao được huy động ra Mạn Điền vừa rồi chủ yếu là xóm Cổng Và, nghĩa là đa số ngày xưa làm nghề cặp kè.
Làng Cao sinh ra từ ngày nào ở vùng nam sông Thưa không ai biết, nhưng mọi thế hệ đang tồn tại đều thấy là một làng lớn vào loại nhất vùng và, điều này lớp trẻ hôm nay không hiểu nhưng lớp trung niên trở lên rất rõ, làng Cao thời phong kiến có những đặc điểm rất lạ về tập quán và sinh hoạt. Làng Cao có bốn cổng là cổng Từ, cổng Đá, cổng Đông và cổng Và đều to lớn, có sàn gác cho một tiểu đội tuần đinh ngủ canh phòng như cổng Hột của làng Thị. Làng Cao có một xóm theo đạo Thiên chúa gọi là xóm Cổng Từ và chẳng hiểu sao phát âm rất nặng không giống cách phát âm của làng. Dân xóm ấy không thể gọi miếng thịt mà phải là miếng thịch, không thể gọi chết mà gọi là chếch. Nghe đâu ngày xưa một trai làng đã nhại tiếng nói của xóm đó bằng câu: "Kìa, chênh chếch, con vịch nó chạy, mau bắt về làm thịch đánh tiết canh", thế là xảy ra hỗn chiến. Làng Cao có một xóm là xóm Cổng Và từ thủa xa xưa hầu hết là các gia đình đàn ông đều làm nghề cặp kè. Người ta quẩy một đôi sọt nhỏ đi khắp làng và khắp vùng dùng cái cặp kè nhặt phân đầy gánh, tập trung về bán trên đường Hai mươi nơi ngã ba nối với đường chạy vào cổng Đá. Ở đây chiều nào cũng họp chợ, chỉ bán phân ấy, gọi là phân bắc, gồm những tay cặp kè trứ danh của làng Cao cùng với những tay cặp kè trứ danh từ Đọ Lâm kéo xuống. Khách mua là những người nông dân trồng màu. Mặc cả xong, thợ cặp kè gánh tới ruộng cho người mua và đào đất ủ xong xuôi mới nhận tiền. Chợ phân làng Cao tấp nập đông vui nghe nói không kém gì chợ phân làng Hui gần tỉnh lỵ. Chỉ có cách mạng và kháng chiến mới qua đi tên gọi miệt thị đối với người làng Cao là dân cặp kè. Lớp sinh sau đẻ muộn không biết từ ngữ ấy nhưng định kiến còn hằn trong ký ức của bao lớp người đi trước.
Cử người sang hội ý với bà con cặp kè không thể ai khác ngoài Bùi Danh Tân. Tự Tân cũng thấy trách nhiệm của mình. Anh do dự vì mình không phải là xã viên. Anh chỉ là sĩ quan nghỉ hưu ở làng. Song việc làng lại không trừ một ai. Anh nhận lời. Anh báo tin ngay chiều hay tối nay sẽ sang làng Cao bàn bạc thì cụ Tuần vui hẳn lên. Cụ lần tìm tay anh và nắm lấy:
- Phải đấy. Tôi tin ở anh! Anh Ưng nhà này hay anh Thùy nhiều khi nổi nóng. Chắc các anh nhớ hồi kháng chiến chống Pháp, ai cũng nghĩ cứ độc lập là sẽ sung sướng, là có chủ nghĩa xã hội với những ước mơ thành sự thực. Đến cải cách ruộng đất, người ta lại đinh ninh rằng chia xong ruộng đất cho người cày là chủ nghĩa xã hội cùng sướng vui đến chân làng Kim Trang kia rồi. Giờ đây người ta mới hiểu thì ra bát cơm manh áo bao giờ cũng đi với sự nhọc nhằn.
Cả ba im lặng. Cụ già gắng sức nói tiếp:
- Đi đi con ạ! Người làng ta và người làng Cao có lúc khích bác nhau nhưng chưa bao giờ thù hằn nhau cả, không bao giờ được để xảy ra nổ súng vào nhau như mới rồi.
Cụ nhắm hai mắt lại, nghỉ ngơi. Cả ba giữ ý đứng lên và lặng lẽ rút lui để người già yên giấc.
Qua cổng Cầu Sung một trăm mét là tới Cầu Đá trong và một trăm mét nữa là tới Cầu Đá ngoài. Từ đây đã có thể coi là địa phận làng Cao. Thủa ấu thơ của Tân, những cầu đá này vẫn nổi tiếng là có ma thiêng. Phiên chợ Rồng nào người ta chẳng khấn vái ở cầu đá trong và cầu đá ngoài. Có người chỉ thắp hương. Có người đặt thờ nải chuối, phẩm oản hoặc có khi là cái bánh đa với một cái kẹo vừng. Ngày nay hai cầu đều chẳng còn, đường mở to ra cho ô tô đi lại dễ dàng và mỗi mùa nước lũ chẳng ai phải vén quần lội ì oạp.
Bao dấu tích ngày xưa hằn lại trong ký ức người lớn tuổi và Tân lặng lẽ vừa bước đi vừa triền miên suy nghĩ. Lũy tre trúc làng Cao cũng chẳng còn vì giờ đây thôn xóm phình ra, nhà nhà chen chúc nhau vượt khỏi cả khuôn viên đất đai các cụ ngày xưa khoanh vùng làm biên giới. Đời người chí ít cũng phải có một lần mơ ước tới cõi tiên phật hoặc giả là cuộc đời thường nhưng cùng với nó là biết bao ấm êm hạnh phúc. Những ngày Cách mạng Tháng Tám, Tân vừa mới lớn lên nghe những chuyện bên Nga, bên Nhật mà trí tưởng tượng cứ lởn vởn ở lưng chừng trời. Tới những ngày hòa bình sau Điện Biên ai mà chẳng nghĩ sung sướng đến nơi rồi. Chủ nghĩa xã hội đang phi nước kiệu về tới tận khóm tre làng Kim Trang kia rồi. Niềm tin lãng mạn và hồn nhiên ấy đem cho ta sự sống đến hôm nay, góp cho ta sức mạnh mười năm đánh Mỹ, an ủi động viên ta vượt bao gian nguy của chặng đường dài.
Nhưng giờ đây không còn như thế được nữa. Chẳng một ai dễ dàng tin vào cõi thần tiên ở đâu đâu mà có thể quên đi thực tế bụng mình đang đói. Cụ Tuần nói đúng! - Chớ có lạm dụng lòng tin của người dân! Đột ngột luồng suy nghĩ lóe lên trong Tân. Ai bắt ta phải nhảy ra đứng mũi chịu sào? Mình hoàn toàn có quyền nghỉ ngơi. Mình hoàn toàn có quyền chẳng phải làm gì cả sau gần bốn mươi năm ra đi mà may sao lại tròn vẹn trở về. Rồi một luồng ý nghĩ khác lại đến: Như thế mình vẫn là công dân, vẫn mang danh hiệu chiến sĩ; nhưng lại là người thừa của làng. Như thế mình sẽ trở nên cô độc giữa hàng trăm gia đình làng Thị. Không được! Một khi bão đã cuốn, mọi cành lá đều rung rinh chứ không một cây nào biến thành đá gạch đứng im bên bậc cầu ao được!
Tân vào làng và bước tới xóm Cổng Và. Xóm này thuở xa xưa anh mới đến đôi lần nhưng hôm nay vẫn nhận ra con đường gạch lát nghiêng lâu ngày bị rêu phong làm đổi màu và một vài chỗ đổ xô theo một dốc của bờ ao bị lở. Ngày ấy, giữa làng còn có cái cổng gọi là cổng xóm. Cổng xóm cũng xây bằng gạch đêm đêm đóng lại kín mít như cổng làng chỉ khác là không có tầng gác cho tuần đinh ngủ lại.
Nghe đâu sau một lần đánh lộn giữa những người dân làng Cao với nhau thình lình mọc lên cái cổng của xóm Và. Cổng này cũng uy nghi ghê gớm và hai cánh bằng gỗ lim. Chầu hai bên trụ cổng ở phía ngoài là hai con chó đá chồm hỗm trong tư thế sẵn sàng lao tới đối phương. Từ phía trong cổng trở vào là cư dân của một quần thể chuyên làm nghề cặp kè. Những ngày xa xưa ấy bất cứ ai gặp anh nhặt phân mà bịt mũi chạy chạy hoặc có bất cứ cử chỉ khiếm nhã nào đều nhận được hai cách đối lại như sau: Một là, vào lúc lòng dạ đang phấn chấn, chưa thấy bị xúc phạm, người làm nghề cặp kè sẽ hát như nhắn gửi lời chửi mắng: Có cứt thì lúa mới xanh, quần hồ áo cánh nhờ anh cứt này. Hai là, vào lúc bực tức không kiềm chế được và tin ở mình có sức mạnh áp đảo, các anh cặp kè sẽ giơ vũ khí trước mũi đối thủ hăm dọa như sẵn sàng cặp vào mũi người ta thật.
Tân bước vào trong xóm. Anh hỏi thăm ông Hinh, người đã bị viên đạn từ khẩu súng Loan đang cầm bay sướt cánh tay. Ông này là một trong những người sống bản năng nhất làng Cao và rất hay trợn mắt tìm cách áp đảo cư dân xóm cặp kè. Thuở nhỏ ông ta hành nghề theo cha khắp vùng và phiên chợ chiều nào cũng có mặt ở đoạn đường Hai mươi thẳng từ làng Cao ra. Lớn lên, giặc càn lập vùng tạm chiếm, ông ta đi lính ngụy đóng ở đồn Bến Trại dưới Thanh Miện. Quân ta diệt đồn Bến Trại, Hinh bị bắt. Ông ta được học vài ngày rồi được phóng thích, trở về làng ông ta xin vào du kích không được chấp nhận lập tức cứ ở lỳ trong xóm mỗi khi địch càn tới để gọi là giúp du kích chiến đấu. Hòa bình lập lại, rồi cải cách ruộng đất, ông ta là cố nông đương nhiên được nâng lên tận mây xanh. Ông ta đi chửi rủa tất cả các gia đình khá giả trong xã và là một trong ba người ôm súng nhảy vào bắn ông Ngà sau khi ông này bị đấu tố và bị tòa án nhân dân đặc biệt tuyên bố tử hình. Ông và cả tổ ba người của ông chẳng hiểu mắt ngưỡng thiên ngưỡng địa thế nào mà bằng mấy loạt đạn ông Ngà gục xuống nhưng không chết hẳn. Khi lấy đất chôn, ông ngồi dậy van nài. Người làng Cao và người làng Thị vẫn nhớ vào giây phút ấy chính ông Hinh chứ không phải ai khác đã lao cái mai vào gáy ông Ngà cho con người khốn khổ này gục hẳn. Sau đó chia quả thực, ông Hinh được mấy gian nhà nhưng đã vội bán đi đánh chén. Ruộng đất trao cho ông ta làm ăn chẳng được liền bán cả rồi kéo bầu đoàn thê tử lên Thái Nguyên kiếm sống. Mấy năm rồi, chòm xóm lại thấy ông Hinh cặp kè lôi thôi lếch thếch dắt dẫn theo một tốp con cái trở về xóm Cổng Và. Sau bao tháng vạ vật nương nhờ hết người này đến người khác, chòm xóm thương tình dành ra một chỗ ở cho ông. Nghề cặp kè giờ đây chẳng còn nữa nhưng danh hiệu xóm cặp kè hay quân cặp kè đôi khi người ta vẫn dùng để chửi bới nhau hoặc là để bỡn cợt.
Tân dừng chân dưới gốc cây vối ngả bóng xuống cái ao tròn và nhỏ. Nước ao đục. Bèo cái lãng đãng và thỉnh thoảng lại một con cá đớp nước đánh tộp. Vùng sáng nhỏ ven bờ in bóng một người đàn ông đang quét dọn cái điện thờ rêu phong và đổ nát. Những viên ngói xỉn màu mưa nắng và ở phía dưới nước tụ lại mọc rêu xanh lè. Cánh cửa không còn. Tường nứt toác, trống trải. Mấy vệt nắng soi vào làm cho từ góc này ao nhìn rõ bệ thờ xây gạch bị tróc hết lớp vữa trát ngoài và mấy cái bát hương bằng sứ mẻ từng mảng lớn. Tường trong của điện, nghĩa là ngay trước vài bát hương là hình nổi một cái cặp kè mà chắc chắn ai đó, chẳng hiểu với động cơ gì, vừa dùng sơn son quét lại. Ngày xưa có vào xóm nhưng chưa một lần Tân tới đây, nên nghe nói người ta thờ thần cặp kè, anh chỉ bán tín bán nghi cho là chuyện bịa. Nhưng sao đến hôm nay họ vẫn trân trọng cái dĩ vãng không bao giờ trở lại? Kể cũng buồn cười thật. Hay đây chỉ là một thói quen? Hay bỗng dưng hôm nay người ta chạnh nhớ tới hào quang của một thời xa vắng?
Ông Hinh xong việc bước ra thì Tân nhanh chân tiến tới. Hai người gặp nhau ở sân và chào nhau. Ông chưa đối mặt với Tân bao giờ. Nhưng qua lời đồn đại và sự phỏng đoán, ông Hinh có thể lơ mơ hiểu ra người khách không mời này là ai rồi. Nét mặt ông ta nhăn nhăn. Ông ta có chăng chỉ hơn Tân bảy, tám tuổi nhưng bộ râu cằm tua tủa đang nhướng lên kia cùng với bao vết hằn của những cuồng nhiệt phong ba khắc trên trán làm cho người ta tưởng ông phải già hơn tuổi thực nhiều.
Ông Hinh bắn ra những lời chẳng hữu nghị lắm:
- Hỏi thằng này hả? Đằng ấy ở đâu tới?
Tân từ tốn nhún nhường:
- Tôi là...
Bất ngờ ông ta trợn mắt lên:
- Hả? Đại tá à? Ngài đã chỉ huy cuộc dàn quân của nông dân làng Thị trên cánh đồng Mạn Điền. Ái chà chà! Thực phúc đức cho tôi được gặp một vị chỉ huy dù có thù ghét tôi cũng phải ngưỡng mộ. Nghe nói về hưu rồi mà sao ngài vẫn thèm muốn được ra lệnh làm vậy!
Hai tai Tân nóng bừng:
- Không phải vậy đâu. Ông hiểu lầm rồi. Tôi thấy cần phải giải thích...
Ông Hinh cướp lời:
- Khỏi! Anh muốn giải thích thì cứ về thuyết giáo cho dân làng Thị. Tôi không nghe. Tôi không cần ai dạy dỗ!
Tân nhăn nhó:
- Khổ lắm! Tôi có ý định dạy dỗ ai đâu. Tôi muốn gặp bác bàn bạc một việc.
Cằm râu ông cặp kè giương ra tua tủa:
- Bàn bạc à? Thì hãy cứ bồi thường vết thương trên cánh tay tôi đã. Mai tôi đi kiểm tra độ mất máu tại bệnh viện. Đưa trước đây năm mươi ngàn làm lộ phí. Nếu không, khó yên ổn với tôi.
Đại tá kiềm chế:
- Vấn đề xích mích trên cánh đồng Mạn Điền cần phải được xem xét kỹ lưỡng và tính đến mọi khía cạnh của sự việc. Bác không phải là đội trưởng sản xuất nhưng cũng là một thành viên của xóm Cổng Và. Đội của bác được giao canh tác toàn bộ cánh đồng Mạn Điền và mười mẫu đồng Mè. Bác tính sao về việc mười mẫu ngập lụt và mùa khô thì chó ỉa ấy bỏ hoang.
Tức thì, câu nói ấy làm cho ông Hinh nổi sung lên. Hai mắt ông ta lồi ra trắng bạch. Mặt ông ta tía những vằn ngang dọc khác nhau. Những sợi râu dựng ngược như mũi mác:
- Cút. Anh là thá gì mà tới đây chửi bới hả? Cánh đồng mùa khô chó ỉa!... Mẹ kiếp! Ngày nay không có những thằng cặp kè nữa thì anh kéo họ hàng làng xóm anh ra mà dọa. Anh tưởng lai lịch nhà anh cao sang lắm hả? Dân làng Thị chỉ là cái đuôi của người ta đã không biết quẫy theo chủ lại còn lếu láo.
Tân giận run lên bần bật. Song chính vì vậy mà anh không chịu rút lui. Không thể chấp nhận thất bại dễ dàng như vậy. Khi con người cuối cùng của đoàn tới đích cũng có nghĩa là cả đoàn đã tới đích. Khó khăn cũng phải lao tới vì đây là nhiệm vụ của làng.
Tân kiên trì:
- Bác Hinh, sao lại nổi nóng. Tôi muốn bàn chuyện tử tế với bác về công việc hợp tác xã liên quan đến mỗi chúng ta. Tôi sẽ lắng nghe mọi ý kiến của bác và đề nghị bác nghiên cứu ý kiến của tôi. Phải tìm ra một tiếng nói chung. Bác mạt sát tôi như vậy phỏng có ích gì?
Người nông dân có nghề truyền thống là cặp kè dường như thấy mình đã quá lời. Ông ta vung tay khoát một cử chỉ vô nghĩa và lúc lắc mãi cái đầu, miệng lúng búng như là nói với riêng mình:
- Nói chuyện à? Có ý phải bàn hả? Đại tá thì lắm mưu nhiều kế và giống như những tay trên tỉnh, trên huyện về, chỉ khéo rót đường rót mật vào tai người ta xong rồi là cút. Ta đây đếch cần những thứ đó! Ta cần cơm để đổ vào mồm!
Rồi ông ta tiếp:
- Đường, mật của các anh thì ruồi cũng chẳng thèm bay đến. Ái chà chà! Mới nghe nói mới sướng tai phổng mũi. Ruộng đất về tay người cày để cùng làm cùng hưởng ư? Rồi đến một loạt những từ ngữ đếch hiểu là cái gì. Hợp tác hóa, hóa học hóa, cơ khí hóa, điện khí hóa, tự động hóa, thành thị hóa, chuyên môn hóa, kế hoạch hóa... Có đến một trăm thứ hóa để đến nỗi hôm nay tranh nhau mảnh ruộng chẳng còn ra cái chó gì. Sao không bán mẹ những thứ hóa ấy đi mà ăn? Rồi lại đến một trăm thứ nhất: anh hùng nhất, vĩ đại nhất, thủy chung nhất, gian khổ nhất, quyết liệt nhất, trong sáng nhất, đúng đắn nhất, dân chủ nhất, tốt đẹp nhất, vinh quang nhất, chói lọi nhất... Sao không nói tới một trăm cái nhất nữa là nghèo khổ nhất, rách rưới nhất, mánh khóe nhất, trắng trợn nhất, đểu cáng nhất, khốn nạn nhất... Đừng vẽ ra cái tiên phật huy hoàng để lừa bịp chúng tôi!
Ông ta im lặng, rồi lúc lắc cái đầu đi vào trong nhà. Tân vui vẻ bước theo vì biết ông ta đã dịu. Căn nhà cũng không đến nỗi nào, tường xây quét vôi trắng và lợp lá gồi. Hai cái giường gỗ kê ở phía trong của hai gian đầu. Một cái võng đay vắt ngang. Một bộ bàn ghế kê ở gian giữa nối tiếp với bàn thờ tổ. Chủ nhà ngồi xuống ghế và lặng lẽ chỉ cho khách chiếc ghế trước mặt. Tân ngồi. Anh ngả lưng về phía sau một chút và duỗi chân ra. Anh tự nhủ sẽ cố gắng thuần hóa được con người ngang bửa này. Thái độ của ông Hinh chắc chắn có tác động lớn tới bà con xóm Cổng Và. Cũng lạ là ngay sau khi bị viên đạn bay lướt qua cánh tay, ông ta đã không nổi sung lên. Có lẽ cái chính là ông ta sợ. Lúc đó chưa biết thực hư ra sao nên ông ta phát hoảng và ngã quay ra như chuẩn bị tắt thở. Cũng may, tổ công an huyện đi tuần thường kỳ thấy có sự lộn xộn, kịp thời ghé tới, nếu không, chẳng hiểu sự việc sẽ dẫn đến đâu.
Dường như không quen nghề đàm đạo nên ông Hinh vơ lấy cái điếu cày, rít một hơi rõ dài, rồi lấy nắm nan tre ra vót, vừa vót vừa nói:
- Nào, có chuyện gì bắt đầu đi.
Tân từ tốn:
- Tôi được bà con làng Thị cử làm đại diện sang đây.
Ông Hình nhướng cái cổ ra rõ dài:
- Anh là cái gì? Có phải là xã viên không mà đại diện cho xã viên? Chúng tôi lại không phải là lính dưới quyền anh, thế mới phiền chứ!
Tân nhún nhường:
- Đúng là tôi mới nghỉ hưu nhưng từ ngày có mặt ở trên đời tôi đã là dân làng Thị. Vì là con của làng tất nhiên có quyền và có trách nhiệm đại diện cho làng.
Tân im lặng và chăm chú theo dõi thái độ biểu hiện trên khuôn mặt người nghe. Anh cảm thấy mình đang làm công tác dân vận hay gây cơ sở ở vùng địch hậu nào đó. Cương vị đại tá của anh rõ ràng phải bật ra khỏi chốn này. Thực ra cũng chẳng có gì để làm mẽ cả. Một nhà xã hội học đã nói con người ta luôn luôn phải đóng nhiều vai trò khác nhau trong đời sống. Lúc đóng vai trò nào là chủ đạo thì phải biểu hiện tốt vai trò đó. Hôm nay là chủ tịch, ngày mai không được bầu nữa sẽ là người dân. Hôm nay là tá, là tướng, mai ngày về hưu không thể sử dụng cương vị ấy nuôi nấng, dạy dỗ con cái hoặc áp dụng vào việc chăn gà, chăn lợn.
Tân nhìn nhanh cái đầu ông Hinh đang im lặng. Ông ta chẳng nói chẳng rằng, nhưng rõ ràng là có nghe nên Tân tiếp tục:
- Chắc ông và mọi người đều nhớ Mạn Điền là cánh đồng làng Thị.
Một lần nữa, hai mắt ông Hinh lồi ra:
- Sao nữa?
Tân hăng hái:
- Cả mười mẫu đồng Mè.
- Thì sao?
Khách nhẫn nại:
- Bà con làng Thị muốn xem xét lại đội hình hợp tác xã toàn xã và xem xét lại sự phân công đất đai canh tác. Đã có nghị quyết 10 của Bộ Chính trị. Ta cần bàn bạc với nhau. Sự việc mới rồi là đáng tiếc và mang tính bột phát.
Chủ nhà chồm lên:
- Cái gì? Anh có im đi không? Định diễn thuyết là không xong đâu đấy nhớ. Chớ cậy lắm chữ mà nhiều lời. Mặc kệ nguyện vọng của làng Thị nhà anh. Chúng tôi cứ hợp tác phân công cho thì cấy.
Tân phản kích thăm dò:
- Nhưng sao lại để hoang mười mẫu đồng Mè?
Ông Hinh gầm gào:
- Việc đếch gì đến anh. Cút về đơn vị mà chỉ huy ba thằng lính. Dân đây cứ để hoang đấy. Cấy mà không thu được hơn vốn bỏ ra thì nhọc nhằn làm chó gì. Đây thích thế đấy, miếng nào ngon thì đớp. Làm gì được nào?
Tân thẳng thắn:
- Nói như bác không ổn. Để hoang ruộng đất là có tội!
Ông Hinh vung tay ra như kiểu đưa cái cặp kè dọa ai đó chế giễu mình và lớn tiếng:
- Anh chửi tôi đấy à? Anh cậy oai phong tới đây để áp đảo nhà tôi đấy à? Thằng trùm sò tổ chức dân làng Thị đòi ruộng đất phi pháp lại dám cả gan tới tận nhà nạn nhân gây sự. Nói cho mà biết, đây đã đổ máu thì sẵn sàng đổ máu tiếp.
Tân thấy có nghĩa vụ phải nói ngay ý định cuối cùng:
- Đừng gào thét lên như thế, ông Hinh! Bà con làng Thị chỉ muốn vì xã viên đội Cổng Và làm không hết ruộng thì thương lượng để nhường lại một phần. Chúng tôi sẽ cấy cánh đồng Mè và một phần hai hay một phần ba cánh đồng Mạn Điền.
Chủ nhà chỉ tay vào mặt khách:
- Này! Thớ anh chẳng biết cái này ra làm sao đâu đấy nhớ. Anh chỉ quen ra lệnh và có kẻ phục vụ hầu hạ. Anh có là nông dân quái đâu. Cút!
Tân đứng lên:
- Tôi về ngay bây giờ. Nhưng tôi cứ xin nhắc đề nghị của bà con làng Thị xin được nhận một phần hai hoặc một phần ba cánh đồng Mạn Điền cùng với việc cáng đáng luôn cả mười mẫu đồng Mè. Dân làng Thị sống bằng ruộng đất chứ không như dân làng Cao có nhiều nghề phụ.
Ông Hinh thộp lấy con dao vót nan từ khi nãy vẫn để nằm yên trên nền nhà:
- Ông băm mày ra làm tư! Mày dám mạt sát cái nghề thối tha của chúng ông xưa kia hả? Cút!
Bùi Danh Tân đã truyền đạt xong ý kiến của bà con làng Thị nên anh thanh thản lui ra ngõ. Mồ hôi nhớp nháp sau lưng áo. Anh bước vội như bị ma đuổi. Anh có gợn gợn lưỡi dao sáng loáng kia bén vào gót mình nhưng may sự ấy không xảy ra. Qua cái đền thờ cặp kè anh bỗng mỉm cười một mình và xua tan nhanh chóng cơn sốc của sự giận dữ. Qua cái cổng xóm ngày xưa, anh sải những bước rõ dài và khoan thai vì mình vừa hoàn thành sứ mạng không kém phần khó khăn gian khổ.