Chương 8
Cả làng đang tập trung dưới gốc cây để tiến hành đấu thầu ao, hồ, chuôm, ngòi và cả đoạn sông chảy qua địa phận của làng thì mọi người hớt hải chạy tới báo tin cụ Tuần đang hấp hối. Cuộc mặc cả tạm ngừng. Không một người dân làng Thị nào có thể vắng mặt trước phút lâm chung của ông già đáng kính. Con người từng tha phương cầu thực, từng lên rừng thiêng nước độc chặt gỗ và tới tận khu mỏ đào than, con người từng mê hoặc một thế hệ trai làng bằng bao câu chuyện thần kỳ về ô tô ray, về những ông cai mỏ có roi cặc bò, về tiếng gầm của ông hùm nơi rừng sâu Bến Tắm, về vắt, về ruồi vàng và về những đường goòng chở than thăm thẳm trong núi sâu, con người thuộc cánh đồng làng Thị như lòng bàn tay, có thể kể ra vanh vách không lầm lẫn từng mảnh nhỏ trên cánh đồng bao nhiêu sào, bao nhiêu thước, của nhà ai bán sang tay nhà ai qua mấy đời cho tới tận ngày cải cách ruộng đất. Con người đã đi vào huyền thoại với những câu chuyện thần tiên về những gò đống, những ao hồ, những cầu đá, cầu tre, cắt nghĩa rạch ròi nguồn gốc bao tên xóm, tên đồng, tên bờ vùng, bờ thửa, con người ấy đang bước đến sự vĩnh hằng làm cho cả làng xao xuyến.
Người ta ào ạt kéo nhau về xóm Cửa Đình. Thế hệ sinh ra hôm nay chỉ thấy nhà là nhà trên vùng đất cao nhô ra như cái tai của làng và sát bên bờ sông. Con đường lát gạch khang trang cùng với cầu ao bằng đá nhẵn thín đầy cá mương đớp rỉa phải chăng là dấu tích ngày xưa còn lại. Ao này là ao đình thông với sông Cửa Đình bằng cái nổ có thể ngăn cách hay khai thông tùy bàn tay điều khiển của con người. Tiến lên bước nữa là hai cây quéo to lớn cũng nằm ngay bên bờ sông. Ai trồng hai cây quéo này, cụ Tuần biết. Ai đã từng mang quéo chia cho mỗi suất đinh trong làng, chính cụ Tuần nhớ. Vườn nhãn sau đình nay không còn nữa nhưng vườn nhãn ấy có bao nhiêu cây, cây nào quả ngon nhất, cây nào giặc đã trói ai vào gốc đánh đập trong một trận vây làng, cây nào ở vườn trên, cây nào ở vườn dưới, giờ đây chỉ cụ Tuần có thể kể thuộc lòng.
Vườn nhãn giờ đây sáu gia đình ở, còn chính nền đình và nhà giải vũ mười gia đình ở. Xóm Cửa Đình rầm rập người đi lại vào nhà cụ Tuần. Ưng quấn quýt bên cha, còn Thùy vội vớ lấy cái tay thước rõ dài đuổi bọn trẻ con ra ngoài. Trong nhà chật như nêm. Ngoài sân đông nghịt. Ai cũng muốn được nhòm vào một tí. Ai cũng muốn được nghe lời người già dù là chẳng rõ câu, rõ tiếng. Ai cũng muốn tỏ lòng tôn kính người con của làng trước phút giây vĩnh biệt.
Cụ già nằm trên chiếc giường tre. Khuôn mặt nhăn nheo, dường như hơi quắt lại và tiếng nói méo mó như âm thanh của sợi dây đàn mà hộp cộng hưởng của nó bị vỡ nát. Xúm quanh cụ là những người thân yêu nhất gồm ban điều hành hợp tác xã, những con cháu, họ hàng. Cụ Tuần quờ tay kéo vạt áo Ưng hỏi:
- Anh Thùy đâu nhỉ?
Thùy vội vàng bước tới trước mặt cụ để cụ nhìn cho rõ:
- Con đây ạ!
Cụ già thều thào:
- Ngồi đi. Ngồi đi. Tôi muốn nói nhiều với các anh.
Thùy ghé thấp tai xuống:
- Con nghe đây ạ.
Cụ Tuần tỏ vẻ hài lòng:
- Các anh đừng cho rằng người già lẩn thẩn. Tuy gần đất xa trời nhưng tôi vẫn muốn nói với các anh những lời dạy bảo thánh hiền. Đừng để xảy ra chuyện nổ súng như bữa trước. Từ thuở ngày xửa ngày xưa tôi có thấy hai làng đôi khi va vấp chuyện này chuyện khác nhưng chưa bao giờ nổ súng vào nhau.
Cụ già mệt nhọc im lặng. Cụ nói đứt đoạn và người nghe phải cố gắng lắm mới chắp lại thành câu hoàn chỉnh như trên. Giọng cụ lúc đó lạc đi như đang bay tới nơi chốn tận cùng xa xăm nào đó. Tiếng cụ lúc tròn lúc méo và nhiều khi chẳng rõ hình hài gì cả. Thùy cùng với mọi người chăm chú nắm bắt từng tín hiệu âm thanh phát ra từ khuôn ngực lép bẹp của cụ.
Người già chớp chớp hai mắt:
- Con Loan... Đã có chỗ nào chưa?
Thùy nhanh nhảu:
- Dạ, đã có vài đám ạ. Nhưng cháu nó còn đang ngúng nguẩy.
Cụ Tuần tự nắm lại những ngón tay xương xẩu như muốn tỏ rõ một cử chỉ:
- Gái lớn rồi! Có đám nào kha khá thì khuyên con gái hãy nghe lời. Đừng để nó tồng ngồng dạo khắp xóm làng, e bà con chê cười.
Cụ Tuần im lặng hồi lâu, có lẽ vừa để nghỉ ngơi lấy sức vừa nghĩ ngợi điều gì, rồi cụ gọi:
- Con cháu Cúc đâu?
Mọi người ngơ ngác nhìn quanh. Chẳng thấy một cô gái nào tên Cúc ở đây cả.
Anh Ưng ghé sát xuống tai cụ, hỏi:
- Ông gọi Cúc nào ạ? Cúc Cổng Hột hay Cúc xóm Cổng Cầu Sung?
Người già tỏ vẻ mệt nhọc:
- Còn Cúc nào nữa. Con bé đã làm cho ông Nham tức điên lên trong cuộc họp làng bữa trước. Con bé đã nói nghèo là khốn nạn ấy mà. Tội nghiệp nó mồ côi cha và mẹ đi lấy chồng.
Mọi người truyền cho nhau:
- Cúc Cổng Hột đâu? Cụ gọi.
Đánh loáng, cô gái xuất hiện. Mặt cô đỏ lên vì cảm động và vì được nhiều người chú ý tới. Cô đến bên người già và len lén ngồi xuống mép giường:
- Thưa ông, cháu đây ạ!
Cụ Tuần lại với với những ngón tay. Giọng cụ ra vẻ hài lòng:
- Cháu đấy hả? Cháu nói phải. Nghèo là khốn nạn! Đời ông đã từng khốn nạn cháu ạ. Không được nghèo. Làng Thị nếu chưa giàu cũng phải đủ ăn đủ mặc và có bát ăn bát để để đề phòng mất mùa lụt lội. Cái nghèo bao giờ cũng đi cùng cái hèn, cái đói cháu ạ!
Những người chung quanh rơm rớm nước mắt. Có người sụt sịt khóc. Cúc thút thít đưa bàn tay lên che mặt. Cụ già chớp chớp đôi mắt long lanh nói với đại tá Bùi Danh Tân đang đứng bên, nhưng chính là để tất cả cùng nghe được:
- Anh Tân! Nghe nói anh đã sang xóm Cổng Và gặp gỡ bà con bên đó.
Tân vội vàng:
- Vâng. Con đã gặp ông Hinh.
Cụ già tỉnh táo:
- Con Loan bắn vào tay ông ta phải không?
Tân cố nói từng tiếng cho rành rõ:
- Dạ, không phải ạ. Đó là cướp cò, là không may ạ.
Cụ già có vẻ băn khoăn:
- Nhưng có ai trong làng này còn gọi bà con xóm Cổng Và là dân cặp kè không?
Mấy người tranh nhau trả lời:
- Không đâu ạ. Không còn một ai gọi như thế ông ạ.
Cụ già gắng gượng nói tiếp:
- Đó là lối xưng hô khinh miệt và chia rẽ đã thịnh hành một thời. Không được nhắc lại nữa.
Nói xong câu ấy, cụ Tuần gần như đuối sức hoàn toàn và lịm dần đi. Giờ đây cụ chỉ còn thở. Hơi thở chìm dần và thỉnh thoảng lại nấc lên từng đợt như oan ức. Suốt đời cụ lận đận. Từ vùng mỏ trở về, cụ đem theo một người vợ quê cũng mãi tận vùng bể Thái Bình đói cơm khát nước lưu lạc ra ngoài đó. Người vợ xác xơ ấy đã sinh cho cụ đứa con trai là anh Ưng ngày nay thì cũng vì đói cơm khát áo mà vội vã qua đời. Cũng không thiếu người tha phương cầu thực khi trở về làng nếu không đầu trộm đuôi cướp cũng ngang dọc tung hoành giữa trời đất gây ra bao chuyện kinh thiên động địa. Nhưng cụ Tuần thì không. Cụ vẫn ăn sóng nói gió suốt đời trai trẻ, nhưng lại không bao giờ gây gổ và không bao giờ quên những chuyện của làng. Cụ thường kể có phần pha bịa thêm rằng, thuở chưa có vợ, gặp bất cứ người con gái nào cùng trên đường tha hương nhìn cụ và tỏ ra có cảm tình cụ cũng hát: "Hỡi cô thắt dải lưng xanh, có về làng Thị với anh thì về. Làng Thị có cây bồ đề, có giếng trong vắt có nghề tằm tơ". Chẳng được một cô gái nào đáp lại cả. Cụ phải chờ tới khi bị đuổi khỏi mỏ than Mạo Khê, chạy về mỏ Vàng Danh và chẳng hiểu có phải do cùng đi chuyến ô tô ray phóng nhanh như gió hay cùng đẩy xe goòng trong hầm lò hun hút, cụ đã cuỗm được người con gái quê Thái Bình nết na nhất mực và cũng tả tơi nhất mực. Người đàn bà ấy đã bỏ bể trần nghèo khổ lên chốn bồng lai tiên cảnh và giờ đây quyết lôi kéo bằng được người bạn đời gian truân của mình là cụ Tuần đi theo.
Các ủy viên ban điều hành sản xuất Nguyễn Văn Thùy, Bùi Danh Tân và Phạm Văn Ưng bước ra hiên nhìn tất cả bà con đang đứng chật trên sân, ngoài ngõ. Mọi người nén lại. Họ chờ đợi lời phát biểu của đại diện dân làng. Khi Bùi Danh Tân mắt ướt long lanh giơ hai bàn tay về phía trước thì tất cả những tiếng sụt sùi còn lại tắt ngấm. Im lặng như tờ. Dân làng hiểu cụ Tuần đã trăng trối và lời trăng trối ấy sẽ do những đại diện dân làng truyền đạt:
- Thưa bà con! - Đại tá nói - Hôm nay, một người con ưu tú của làng, một chiến sĩ có cuộc đời lao động và phấn đấu quang vinh, một người cha và một người bạn chí thiết của chúng ta đã trút hơi thở cuối cùng.
Tân im lặng một lát. Anh xúc động nhìn bà con và chợt nhận ra rằng đây là lần đầu tiên anh phát biểu trang nghiêm trước dân làng Thị. Hình ảnh cụ già theo anh những năm tháng chiến đấu xa nên cái chết của cụ phút này là một tổn thương đối với anh, là sự mất mát ruột thịt. Con người luôn luôn sôi nổi trong lao động, hồn nhiên trong cách sống, dũng cảm trong đấu tranh và luôn luôn bao dung tha thứ trong ứng nhân xử thế, con người ấy cần thiết trong mọi hoàn cảnh và đặc biệt là ở những thời điểm gay cấn nhất trong mỗi bước đi của làng. Giữa những tháng ngày bi hùng và khó kiềm chế của cải cách ruộng đất được chứng kiến cảnh dân làng hò reo khi tòa án nhân dân đặc biệt truyền phạt tử hình ông Nguyễn Văn Ngà, cụ đã để rơi mấy giọt nước mắt xót thương người bị nạn và nói: "Chúng ta đi quá và bước vào vết trượt mất rồi!".
Anh xúc động cao giọng:
- Đề nghị đừng khóc. Chúng ta hãy làm cho ước mơ không hề lãng mạn của người già trở thành hiện thực, mà muốn làm điều đó thì không chỉ bằng nước mắt hôm nay. Làng Thị phải ấm no và có bát dành cho lụt lội mất mùa. Làng Thị phải được ngói hóa trong thời gian không lâu. Làng Thị phải có điện thắp sáng trưng khắp các nẻo đường xóm sâu hẻo lánh.
Tân ngừng lời khi khối người trên sân dãn ra cho chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Bùi Văn Hoàng bước tới. Ban điều hành sản xuất đưa chủ tịch vào vĩnh biệt thi thể người già. Chưa liệm. Chưa một ai được mang khăn tang. Khối người tỏa về các xóm. Họ chuẩn bị những gì có thể có để phúng viếng. Nơi đây, tại căn nhà của xóm Cửa Đình, vị đại diện chính quyền đang từ từ kéo cái chăn đắp lên mặt người quá cố.
Ngày xưa có một cây gỗ cứ trôi mãi, trôi mãi từ phía cầu Hàn, qua Ba Tòa, qua Miếu dưới, tới nơi đây thì chẳng hề vướng mắc gì cả, cây gỗ cứ xoay xoay rồi dạt vào bờ. Các cụ trong làng vớt cây gỗ lên thấy rất cứng và tỏa hương thơm. Các cụ mang gỗ ngược Ba Tòa thả xuống xem lần này gỗ trôi như thế nào. Nhưng đúng đến nơi đây gỗ lại xoay tròn rồi dạt vào bờ. Các cụ lại vớt lên và lần này đem gỗ tới tận Cầu Hàn. Gỗ vẫn trôi tới đây thì dừng lại. Cụ già cao tuổi nhất làng khi ấy liền quỳ xuống trước thân gỗ, vái ba vái, lạy ba lạy và gọi là mộc thần. Ngay ngày hôm sau gỗ được gọt đẽo thành tay ngai, những lư hương, những đao kiếm cho một thâm cung và trai làng được huy động san lấp nền đình. Ngôi đình đồ sộ và linh thiêng đã bị lính GM của Pháp đốt cháy trong trận càn Brốtxê ra vùng nam bắc sông Luộc, cũng trong trận càn ấy, cụ Tuần đã bảo vệ vẻ vang những chiến sĩ du kích là con cháu của làng ở một căn hầm bí mật.
Khi giờ liệm cụ Tuần chưa tới và người ta còn đang tấp nập chuẩn bị mọi thứ thì đại diện ban điều hành sản xuất và chủ tịch Ủy ban nhân dân xã ngồi quanh một cái bàn con. Người ta bàn rất nhiều việc và hiểu rõ rằng chủ tịch Hoàng đang ở trong tình trạng khó xử.
Người ta hiểu rõ vì sao chủ tịch Hoàng luôn luôn lảng tránh những vấn đề nóng bỏng của làng. Anh ngu ngơ quá chăng? Anh không có năng lực trong việc lãnh đạo để lôi kéo dân làng chăng? Anh không muốn một sự rắc rối đến với mình chăng? Hay anh mặc cảm mình còn trẻ tuổi đời, khó hướng dẫn những con người từng trải đang nuôi khát vọng làm giàu đến cháy bỏng và muốn hành động? Những giả thiết ấy có đúng cũng chỉ là một phần bởi cái chính là anh cầu an. Thời bình vẫn có những kẻ cầu an. Họ không muốn mất lòng hoặc va chạm đến ai cả. Họ hoặc lươn lẹo để che chắn hoặc ngu ngơ giả câm giả điếc. Hoàng không muốn chức vụ chủ tịch bị thổi phù chỉ vì cơn lốc của làng. Nhưng anh càng không muốn bị chửi bới để nay mai trở về làm thần dân phải đeo mo mỗi khi vác cuốc ra đồng. Lập trường không rõ ràng ấy làm cho ông chủ tịch chỉ như cái bóng đối với bà con làng Thị.
Nhưng người ta không thể bàn luận việc làng lâu được trước một đám tang. Dân chúng lục tục kéo đến. Họ không bao giờ coi mình là khách tới chia buồn để chỉ sau khi liệm rồi mới được phép tới viếng. Họ thấy đau thương mất mát này là của chính họ. Họ mang đến như một sự đóng góp, người dăm cân gạo, người con gà, người cân miến, người tiền, người gói mì chính, người hai chai rượu. Hai mẹ con Cúc mang tới cờ tang bằng vải một chiều tám mươi xăng-ti-mét và một chiều hai mét. Cờ ấy viết bốn chữ to tướng và viền chung quanh bằng hình ảnh các ông tiên, ông phật. Một hàng chữ nhỏ xíu ở góc dưới chắc chắn là dịch từ những chữ Nho lớn lao kia: "Tiên cảnh nhàn du". Một người khác cũng mang đến lá cờ tang như vậy nhưng lại là hàng chữ "Tây phương cực lạc". Bác Nham, con người tốt nết nhưng tính khí có lúc hơi gàn, lừ lừ từ ngoài tiến vào, tay nâng lá cờ màu vàng trên khung giá bằng tre. Lá cờ tang của bác lộng lẫy. Bốn chữ viết trên cờ được dịch là: "Phúc quả viên thành!".
Mọi người rất ưng ý những chữ trên lá cờ tang của bác Nham. Cụ Tuần đúng là như thế. Bác Nham cũng nhận ra điều đó. Bác cùng đứa con trai treo cờ lên rồi tới chỗ ban điều hành sản xuất, gọi riêng Ưng ra một chỗ thì thào:
- Anh định mai táng cụ ở đâu?
Ưng sững sờ:
- Chú nói sao, Miễu dưới chứ còn ở đâu nữa?
Bác Nham xua tay:
- Không được! Tôi có tuổi nhưng chưa phải lúc nào cũng gàn dở đâu. Hãy nghe thằng già này nói. Từ hơn năm nay làng đề nghị xã cho chuyển nghĩa trang ra vùng chùa Dền hay chùa Mận để xa nguồn nước ăn chảy vào giếng. Anh quên à? Giờ đây không thể mai táng cụ ở Miễu được nữa.
Ưng lưỡng lự:
- Nhưng xã đã đồng ý đâu?
Bác Nham lúc này tỉnh táo và quyết liệt:
- Tôi hỏi anh nhớ, thế việc lập ban điều hành sản xuất xã đã đồng ý chưa? Huyện đã đồng ý chưa? Đợi các bố ấy đồng ý thì hơn một nghìn cái mồm dân làng Thị cứ việc móc vào câu liêm mà treo ngược lên trời. Ý tôi thế này anh ạ! - Bác Nham ghé sát miệng vào tai Ưng thì thào một thôi dài rồi mới nhấn mạnh - Cứ làm như vậy nhớ!
Ưng ngẩn ngơ:
- Chú liều lĩnh đấy.
Bác Nham ào đi:
- Không hề liều lĩnh. Đất làng Thị chứ không phải đất làng Cao. Cả làng sẽ ủng hộ anh. Cả làng đứng về phía anh. Không một ai dám động chạm đến vong linh một con người vẻ vang như cụ Tuần. Chính nơi ấy cụ đã đổ một phần máu của mình.
Họ cắt ngang câu chuyện vì người đang kéo đến.
Nếu như coi xóm Cửa Đình là cái tai của làng Thị thì cánh đồng Mạn Điền như một vùng lõm nằm sâu vào hậu phương của cánh đồng Kim Trang và làng Cao. Cụ Tuần vẫn kể lại là từ ngày xửa ngày xưa, nghĩa là thuở cụ còn bé tí và các bậc bô lão trong làng nói lại rằng Mạn Điền thực chất là một khu sình lầy hoang hóa. Rắn nhiều vô kể. Chim muông kéo nhau về hàng đàn hàng lũ. Dân làng Cao, làng Thị và Kim Trang đều không ai nghĩ đến vùng ấy sẽ trở thành đất đai canh tác. Một bậc hào mục trong làng Thị tên là Lý Văn Dền đã bỏ tiền bỏ của ra khai thác cánh đồng Mạn Điền. Người con táo bạo ấy của làng Thị cho đào con ngòi thẳng từ cổng Cửa Đình đoạn gần cây đa Cầu Kết ven theo chân làng sát cổng Cầu Sung, qua nổ tát Ao Phe, qua Lò Gạch tới chân chùa Dền khi ấy còn chưa có tên như vậy. Con ngòi làm nhiệm vụ tiêu nước mùa mưa và cung cấp nước mùa khô. Thời đánh Pháp nó là hào vận động chiến đấu nổi tiếng của du kích làng Thị.
Phải mất bao nhiêu năm để có cánh đồng Mạn Điền thì không một ai nhớ nữa, chỉ biết rằng con ngòi kia hình thành và cánh đồng bắt đầu được cày xới thì ông Lý Văn Dền phải bỏ đi biệt tăm vì bị kiện tụng và sạt nghiệp. Hai gia đình có người chết vì rắn cắn quá trình khai phá cánh đồng đã đệ đơn đến tận triều đình. Nhà vua ra trát gọi. Ông hoảng quá bỏ trốn. Nhà vua liền triệu hai người vợ và bảy đứa con ông về kinh trị tội. Cái gia đình ấy không còn dấu tích, nhưng di sản về công sức của họ còn lại là cánh đồng Mạn Điền cùng con ngòi dẫn nước qua nổ tát Ao Phe. Dân làng Thị nhớ ơn lập đền thờ gọi là đền Lý Văn Dền và chục đời sau đền đổ nát người ta rước tượng về xây chùa thì gọi là chùa Dền.
Chùa Dền nổi lên trên mảnh đất chừng ba sào bắc bộ áp với đê chùa Dền và cánh đồng Mạn Điền. Vì đất mới khai phá, rất dễ bị tranh chấp nên dân làng Thị đời này qua đời khác lo đắp đường ngăn địa giới chẳng mấy lâu thành con đê Mạn Điền cao ngang đê Kim Trang để làm thêm nhiệm vụ ngăn nước và giữ nước. Thời kháng chiến chống Pháp đê Mạn Điền trở thành tuyến chiến đấu phía trước cho các đơn vị bộ đội và du kích đánh vào quận lỵ Thọ Chương và là tuyến phòng thủ phía sau cho các lực lượng ta phục kích ở Quán Khoang buộc lòng phải rút về qua đó khi trận đánh kết thúc.
Cánh đồng Mạn Điền từ ngày vào hợp tác xã toàn xã đã được trao cho bà con xóm Cổng Và cày cấy cùng với mười mẫu đồng Mè. Những luống cày thẳng tắp từ bắc đến nam làm cho dưa hấu chính vụ, dưa hấu đông, khoai tây, đỗ, tỏi xuất khẩu đem lại nguồn thu hoạch lớn lao. Bà con xóm Cổng Và nhận ra rằng thì cứ tập trung thâm canh cánh đồng Mạn Điền còn hơn chia sức ra làm thêm mười mẫu đồng Mè. Thế là họ bỏ hoang bất kể dư luận. Bà con làng Thị vừa tức vừa xót xa nhìn cánh đồng Mạn Điền đang đổ của cho người. Họ mong muốn sự thương lượng nhận lại một phần hai cánh đồng Mạn Điền.
Liệm cụ Tuần xong, Ưng thì thào gì đó với Thùy và Thùy gọi Tân ra gọi một gốc cây chuối đầu nhà bàn bạc. Anh vào đề ấp úng như phải tìm câu tìm chữ:
- Thế này này, ngay từ khi chú chưa về bà con đã đề nghị đưa nghĩa trang ra khu vực chùa Dền, chùa Mận hoặc cánh đồng Mạn Điền. Xa làng, xa nguồn nước, hợp vệ sinh. Nhưng xã đã lơ đi.
Tân ngạc nhiên hỏi lại:
- Mạn Điền là đất canh tác?
Thùy giải thích:
- Thì đâu chẳng là đất đai canh tác. Miễu chật lắm rồi không thể mở rộng ra những ruộng ở chung quanh được. Đằng nào chẳng phải có chỗ cho các cụ an giấc ngàn thu. Nếu thực có thiên đường thì cứ xin mời các cụ kéo cả phần hồn lẫn phần xác lên đó hay biết bao nhiêu.
Thấy Tân yên lặng, Nguyễn Văn Thùy thuyết phục:
- Làng ta không thể thiếu cánh đồng Mạn Điền. Tên gọi nói lên sự màu mỡ của đất đai. Thế mà họ khợp lấy vứt lại cho chúng ta miếng xương chó gặm là cánh đồng Mè. Khi trước chú sang thuyết phục bà con xóm Cổng Và chú thấy thế nào?
Tân xác nhận lại:
- Tất nhiên họ không muốn nhường cho ta, mặc dầu họ có bị lên án về cánh đồng Mè. Mồi ngon như thế ai lại nhả.
Thùy chớp lấy thời cơ tấn công:
- Vậy cho nên chúng ta phải đòi. Chúng ta không đòi cả mà chỉ đòi một nửa! Một nửa cánh đồng Mạn Điền cũng đủ cho một nửa dân làng Thị sống.
Bùi Danh Tân lơ mơ hiểu ra chuyện gì rồi, nhưng vẫn chưa tin hẳn nên nói nước đôi:
- Thì chúng ta đang thương lượng mà.
Thùy khẳng định:
- Cùng với thương lượng phải có biện pháp kiên quyết. Nếu không sẽ cứ nhùng nhằng và chẳng đâu vào đâu. Chú có biết vị trí cụ Tuần bị thương trên cánh đồng Mạn Điền không?
Tân ngơ ngác:
- Làm sao tôi biết được. Khi ấy tôi đã vượt ra vùng tự do vào bộ đội. Tất nhiên sau này tôi có nghe nói.
Thùy nhập đề:
- Vậy thì thế này. Lần ấy bộ đội ta phục kích ở Quán Khoang. Sau trận đánh, các anh rút về qua đê Mạn Điền và tới cánh đồng Mạn Điền. Địch từ quận lỵ Thọ Chương vận động ra Kim Trang và từ Bất Nạo ra đường Hai mươi âm mưu tạo thành hai gọng kìm kẹp lại. Nhưng du kích làng Thị đã có mặt ở đê chùa Dền và du kích làng Cao có mặt ở đê Cổng Và - chùa Mới cùng tạo thành hai mũi yểm hộ. Kẻ thù dùng đại bác. Một anh bộ đội ngã xuống. Một chiến sĩ du kích bị thương. Anh bộ đội ấy ngày nay là bí thư huyện ủy của chúng ta, còn chiến sĩ du kích kia chính là cụ Tuần.
Đại tá im lặng. Nguyễn Văn Thùy nói tiếp:
- Điểm đất ấy là một trong những cái mốc ghi lại cuộc đời sáng láng của cụ, cho nên chúng ta cần đặt làm nơi yên nghỉ cuối cùng của chiến sĩ.
Mặc dầu đã hiểu ra mục đích, Tân vẫn trợn mắt hỏi lại:
- Để làm gì?
Thùy nói rất nhanh:
- Để hôm trước cụ đã là người lính gác của làng thì từ nay và mãi mãi sau cụ sẽ chăm sóc cho cuộc làm ăn sinh sôi nảy nở của làng. Sinh thời, không ai dám động tới cụ thì khi nằm xuống sẽ không một kẻ nào dám xúc phạm tới cụ. Một nửa cánh đồng dành cho làng Cao và một nửa cánh đồng sẽ dành cho làng Thị. Cụ Tuần sẽ là người phân xử công minh việc tranh chấp đất đai canh tác giữa làng ta và làng Cao.
Hai mắt Bùi Danh Tân mở tròn xoe và hàng râu cằm nhướng lên như một chiếc bàn chải:
- Mai táng cụ ở cánh đồng Mạn Điền?
Tiếng trả lời dứt khoát:
- Đúng! Giữa cánh đồng. Điểm phân giới giữa hai làng.
- Về ruộng đất cần đợi ý kiến cấp trên. Còn mai táng cụ ở đó... tôi e... tôi e...
Thùy nói rành rẽ:
- Chú ngại. Chú thận trọng. Tôi biết thế. Nhưng tôi và Ưng đã quyết định. Trong ban điều hành, ý kiến của chúng tôi đa số. Tôi hiểu lý do khiến chú phải cân nhắc. Chúng tôi sẽ chịu trách nhiệm về hành động của mình.
Câu nói ấy làm Tân cảm thấy bị xúc phạm, chẳng lẽ anh không dám chịu trách nhiệm với một việc làm có lợi cho làng? Chẳng lẽ anh không còn xứng đáng để bị gạt ra ngoài một nội dung công việc có lợi cho làng? Hay người ta nghĩ rằng anh có thể lo lắng tới danh vị của mình? Người ta nghĩ rằng anh không có gan hy sinh để hành động?... Anh chưa bao giờ là con người như thế. Suốt bao năm ra đi, anh có thể mắc nhiều sai lầm, nhưng chưa một lần ích kỷ. Vấn đề là ở chỗ hành động đó phải hay trái, đúng lúc hay chưa đúng lúc, cần thiết hay chưa cần thiết và có thể tìm biện pháp nào khác êm đẹp hơn không?
Đám ma ấy là đám ma đông nhất làng Thị. Cờ vàng đi trước. Rồi tới cờ đen. Rồi tới xe linh cữu. Đoàn người đi vĩnh biệt dài dằng dặc từ Lò Gạch tới vị trí cổng Hột ngày xưa. Nơi yên nghỉ của người quá cố được hoàn thành rất nhanh. Khi người dân làng Cao còn đang ngơ ngác trước sự kiện lạ lùng ấy thì ngôi mộ đã hình thành, rộng rãi, khang trang và những hàng cọc tiêu quét vôi làm ranh giới cắm dài về hai phía ngăn cánh đồng Mạn Điền làm hai phần ngang nhau. Thùy còn làm sẵn tấm thẻ nhận ruộng như thời cải cách ruộng đất cắm về phía bên này có hàng chữ lớn nổi lên: Đồng làng Thị!
Cả cánh đồng Mạn Điền vừa gặt xong lúa sớm. Những đường cây nham nhở cùng dấu tích của cuộc tranh chấp lần trước đã bị xóa sạch. Nhiều gia đình đã làm đất chuẩn bị trồng cây vụ đông. Tối hôm ấy, Nguyễn Văn Thùy và Bùi Danh Tân trao đổi với nhau về một bức thư dài sẽ viết gửi bà con xóm Cổng Và, làng Cao như một bản tuyên ngôn ra ở riêng. Thư phải nói rõ nhân dân làng Thị không có ý định chia rẽ, nhân dân làng Thị không muốn tranh chấp, nhưng đề nghị bà con xóm Cổng Và vui lòng nhường lại cho một phần hai cánh đồng Mạn Điền để làng Thị trồng lúa cao sản và trồng cây vụ đông. Riêng mười mẫu đồng Mè thư phải nói rõ vẫn thuộc quyền canh tác của làng Cao, nhưng qua thời vụ ít ngày vẫn chưa thấy có biểu hiện gì là làng Cao sẽ canh tác thì bà con làng Thị xuất phát từ quan niệm không để đất đai hoang hóa sẽ cày cấy trên cánh đồng ấy. Đoạn cuối bức thư cần phải nhấn mạnh như một lời tuyên bố.
"... Việc tiếp tục hợp tác xã toàn xã đến nay không phát huy được hiệu suất đất đai và sức lao động của bà con xã viên. Việc bỏ hoang ruộng đất và ao hồ phải được coi là tội lỗi. Việc chậm trễ quyết toán các khoản kinh phí xây dựng và chưa công khai kinh tế cửa hàng hợp tác xã mua bán cũng như các khoản thuộc quỹ tín dụng là không thể chấp nhận được. Trong khi chờ đợi quyết định của trên, chúng tôi xin phép được làm ăn riêng và hứa sẽ giải quyết sòng phẳng mọi khoản còn tồn tại".
Bàn bạc xong, Thùy kéo hai thanh niên nữa ra cánh đồng Mạn Điền. Đêm mờ xanh. Những vì sao xa tắp nhấp nháy. Bỗng Thùy nhớ tới bao nhiêu chuyện về ma thiêng quỷ dữ trên cánh đồng Mạn Điền từ thủa ấu thơ. Chính anh đã một lần guồng nước đêm trên nổ Ao Phe thấy hai ông Động Đống, chân nhỏ như xe điếu, hai mắt như hai bóng đèn đỏ rực, đi như bay, xuất hiện ở Miếu Rồng, ngang qua Lò Gạch, nổ tát chùa Dền và lịm tắt ở cánh đồng Mạn Điền. Sau này khoa học giải thích đó là sự bốc cháy tự nhiên của phốt pho nhưng anh chẳng được học nhiều, chẳng có thời gian tìm hiểu sự ấy đúng hay sai.
Tổ của Thùy dừng lại. Lạ quá! Có người. Có ai đâu? Tim họ thắt lại. Cả ba nằm nín thở trên đê chùa Dền nhìn ra. Đúng rồi. Hai năm rõ mười. Chúng đang phá phần mộ cụ Tuần. Lập tức một người được phái về làng báo tin. Lập tức gần như cả làng Thị kéo đến. Những kẻ đào mả chỉ san bằng phần trên căn mộ và bỏ về chùa Mới thì dân làng Thị ào ào đuổi theo sát nút. Rõ ràng những kẻ làm vụng trộm bị bất ngờ. Họ vứt cuốc chạy. Hai cái bóng chẳng mấy lát biến hút vào cổng và lẩn vào trong xóm. Nhưng đội quân truy kích hùng hậu đã không bỏ mất mục tiêu. Giữa đêm sâu thẳm, ai đó hét lên và cuộc ẩu chiến hỗn loạn diễn ra tại xóm Cổng Và. Thoạt đầu là hai ông chó đá ngồi gác cổng xóm Và bị quăng tùm xuống ao. Tiếp đến là cái đền thờ cặp kè tan thành mây khói. Có người gào thét. Có tiếng khóc của trẻ con. Có tiếng kêu loạn xạ của phụ nữ. Có tiếng đấm đá túi bụi. Đại tá Bùi Danh Tân tả xung hữu đột ngăn chặn những hành động gây tai hại lớn có thể xảy ra. Anh cố gắng giằng lấy một khẩu súng trong tay anh du kích người làng Cao. Nhưng anh đã bị đạp một phát ngã lăn kềnh. Khẩu súng kia không bắn được vì người điều khiển nó luống cuống chẳng nạp nổi đạn vào nòng. Chớp mắt, Tân trông thấy một thanh niên làng Thị vung dao định bổ xuống đầu một phụ nữ xóm Cổng Và. Anh dùng toàn lực bật tới chặn bàn tay cuồng nhiệt kia. Sức mạnh của cánh tay trẻ trung bị kìm lại bất ngờ vẫn còn đà lớn. Con dao rơi xuống vai anh và lưỡi sắc vẫn bén vào làm máu chảy ra ướt đầm tay áo.
Đại tá nhảy lên đống gạch gào thét:
- Giải tán! Giải tán ngay!
Dường như không được hưởng ứng, anh lao xuống, giật lấy bó đuốc trong tay bác Nham đang định châm vào mái nhà một nông dân xóm Cổng Và, rồi cầm đuốc nhảy lên đống gạch kêu gọi giải tán. Hành động ấy cùng với bó đuốc mới thật là tai hại, một cây sào vụt với vào áo anh, và người ta lầm tưởng anh cầm đuốc đốt nhà nên đã cử hai người lực lưỡng xông vào tóm lấy anh, giằng bó đuốc đập đi. Anh bị đánh, bị đá, nhưng chỉ một mực gào thét: Giải tán! Giải tán ngay! Khi thoát được khỏi hai người đàn ông làng Cao, anh gọi:
- Bà con làng Thị, về ngay!
Tới lúc này, dường như người dân làng Thị cũng giảm bớt sự cuồng quẫn. Họ thấy những người đại diện cho mình rút khỏi xóm Cổng Và thì vội lui theo. Những người dân làng Cao phản kích không kém phần quyết liệt. Họ dùng đòn gánh, gậy, tay thước, y như thời loài người chưa tìm ra sắt, đuổi đánh dân làng Thị. Nguyễn Văn Thùy và Bùi Danh Tân rút sau cùng vừa bảo vệ bà con làng Thị vừa chống đỡ tự vệ khuyên giải bà con làng Cao. Điều rất tự nhiên và kỳ lạ là, đến giữa đoạn đê chùa Mới, nơi phân nửa cánh đồng Mạn Điền, những người dân làng Cao hăng hái nhất dừng lại. Tân và Thùy cũng dừng lại. Họ vừa thở vừa lè lưỡi liếm vành môi khô cứng.
Phía bên kia chửi sang:
- Mẹ mày!
Hai người im lặng. Bên kia tiếp tục chửi:
- Chúng bay là đồ tử tôn tuyệt mặt.
Tân nhận ra tiếng ông Hinh. Cũng lúc này anh mới thấy đau đớn trên khắp cơ thể. Đôi chân run run muốn khuỵu xuống nhưng anh gắng gượng. Nhận thức về máu mình và máu bà con chảy, làm anh xót lòng. Anh cố nói sang:
- Ông Hinh đấy ư? Tôi đây mà. Chúng ta phạm sai lầm rồi. Anh em đánh lẫn nhau, ông ơi!
Ông Hình chửi tiếp:
- Mày bị thương hả? Mẹ mày! Sao không chết luôn cho xong.
Tân không nghe được gì nữa. Anh thấy đất đai xoay tròn và từ từ ngã xuống trên đôi tay người bạn của mình.