← Quay lại trang sách

Chương 9

Tảng sáng, khi một nửa dân làng Thị còn chìm ngập trong giấc ngủ phập phồng và lo âu thì hai chiếc xe Sítđờca màu vàng lao qua cổng Hột đỗ lại ở đoạn giữa làng. Trẻ con ngơ ngác. Những người lớn hiểu ngay có chuyện xảy ra. Họ còn nhận rõ người đi đầu là phó huyện trưởng công an từng có mặt tại cánh đồng Mạn Điền trong vụ tranh chấp lần trước.

Phó huyện trưởng công an hỏi một người đứng tuổi:

- Nhờ bác chỉ giúp nhà ông Bùi Danh Tân.

Cả một đám trẻ con nhanh nhảu:

- Cháu đưa!

- Đi với cháu!

- Nhà bác Tân gần đây thôi.

Thế là bọn trẻ rất nhanh chóng nhập thành đoàn, mỗi bước một đông thêm dẫn đường cho các anh công an huyện. Chúng vẫn nghĩ rằng công an tới là để hỏi vì sao có chuyện ẩu đả đêm qua. Chúng nhất định không chịu giải tán, mặc dầu các anh công an đã khuyên không nên đi theo như thế và các anh chỉ cần một cháu dẫn đường.

Vợ chồng Tân đã dậy. Cũng có thể là anh không ngủ nên khuôn mặt xem ra hốc hác và căng thẳng. Dường như hai vợ chồng có sự tranh cãi thế nào đó nên ánh mắt của hai người đều tối sầm. Chị đang lúi húi trước cửa bếp. Anh đang loay hoay buộc lại cửa liếp đầu hè và dường như mục đích làm việc chỉ nhằm tạo ra một loạt cử động cho các vết đau trên người khỏi tụ máu. Đứa con lớn quét sân. Đứa con nhỏ gọi gà. Cả gia đình đứng lặng tờ khi chiến sĩ công an bước vào.

- Anh là Bùi Danh Tân?

Nghe câu hỏi khô như rang đó, anh hơi ớn ở sống lưng. Cảm giác bâng khuâng pha chút xíu buồn xa vắng lướt nhẹ khắp cơ thể anh. Phía trước cửa bếp, khuôn mặt chị vợ đỏ bừng. Bằng sự nhạy cảm tinh tế của phụ nữ và sự lo toan rất bén ngọt cũng của phụ nữ chị đoán ra ngay những gì sẽ đến với chồng. Chị như chết lặng và hai chân bị chôn xuống đất. Đôi môi chị muốn nói gì mà không sao nói được, cứ rung lên, có lúc bần bật, chị muốn ào ra tiếng kêu, tiếng khóc. Hai tay chỉ giơ lên rồi lại hạ xuống, hạ xuống rồi lại giơ lên, ngượng ngùng như là định vứt bỏ đi đâu mà chưa làm được. Những đứa con nhìn bố mẹ, hồi hộp đợi chờ.

Một giây thoáng qua, Tân định mời khách vào nhà. Nhưng anh nhận ra ngay những người công an này chưa thể là khách. Họ tới có nhiệm vụ của họ. Nhiệm vụ ấy liên quan tới mình. Họ đóng vai trò chủ thể còn mình là đối tượng. Anh đứng im và sẵn sàng đón nhận mọi sự.

Phó huyện trưởng công an đã bước tới giữa sân. Anh đứng lại. Bên anh là hai chiến sĩ nữa. Cũng chỉ một thoáng thôi, hành động của phó huyện trưởng công an có vẻ ngập ngừng. Trước mặt anh là một con người đã lắm phong sương và vượt trùng trùng những đồn bốt giặc ra vùng tự do tham gia kháng chiến từ ngày anh mới ra đời. Giá trị tinh thần con người đang bị cơ quan hành pháp xem xét kia chỉ có thể đạt được bằng sự hy sinh, bằng những tháng năm trường kỳ lận đận. Cuộc đời bốn mươi năm phôi pha để chỉ có được căn nhà xây ba gian hết sức khiêm nhường. Tường vôi trắng, cửa sổ màu xanh. Một gian vươn ra chiếm hết phần hiên mà người ta quen gọi là một thò hai thụt. Sân trạt phẳng phiu. Mảnh vườn con chừng ba chục mét vuông được rào quanh rất kỹ để ngăn cách rau xanh với đàn gà ngổ ngáo. Cái bếp nho nhỏ và mấy cột tre đã bóng lên vì bị bám tựa lâu ngày.

Nhưng nhiệm vụ đòi hỏi phải xếp tình cảm sang một bên. Phó huyện trưởng công an bước tới nửa bước và đưa ra trước mặt chủ nhà chứng minh thư của mình. Anh nhìn quanh thấy trên sân đã chật ních người lớn và trẻ con. Anh muốn tìm người làm chứng thì lập tức một người đàn bà nông dân xông tới. Bà Lai. Bà khuỳnh hai tay ra xem vẻ cóc sợ gì cả và nói oang oang:

- Các anh định bắt người phải không? Này, đúng là cần phải bắt những kẻ có tội như đã để hoang ruộng đất, đã ăn chặn của xã viên, đã chẳng biết làm việc gì trên xã mà cứ giữ ghế làm việc. Ở đây không có ai như thế để các anh bắt đâu!

Phó huyện trưởng công an căng giọng:

- Bà tên gì?

Người đàn bà bỗng dưng trở nên đáo để:

- Tên là gì thì anh hỏi làm gì? Định bắt tôi chắc. Này nói cho mà biết, gái già này chẳng có gì phải lo lắng cả, bắt tôi thì phải bỏ cơm gạo ra nuôi tôi.

Đúng phút ấy, có một cô gái làng tên là Cúc lao đến kéo bà ra, vừa kéo và van nài: "Con lạy u, việc gì liên quan đến u mà cứ nhảy xổ vào. Các anh ấy làm việc gì thì đó là nhiệm vụ của các anh ấy". - Người ta nghe rõ tiếng bà quát lại: "Câm mồm! Đồ trứng khôn hơn vịt. Thế hôm trước họp làng mày quang quác lên bảo người ta khốn nạn thì sao?" - và tiếng cô gái nằn nì: "Con xin u, hôm đấy khác hôm nay khác”.

Phó huyện trưởng công an quay lại phía dân làng và lên tiếng dõng dạc:

- Thưa bà con! Xin bà con chứng kiến cho buổi làm việc hôm nay. Chúng tôi thi hành lệnh tạm giữ đối với công dân Bùi Danh Tân.

Phút ấy, nếu không phải chính Bùi Danh Tân nhảy lên cho cao, phát biểu để mọi người cùng nghe rõ thì rất có thể xô xát đã xảy ra. Nhiều người đã ở tư thế sẵn sàng hành động ngăn chặn việc làm của các chiến sĩ công an. Dường như cuộc ẩu đả đêm qua còn để lại dư âm sôi sục và dư âm ấy kích động họ. Họ không thể nào chịu đựng được khi cái lệnh tạm giữ, tạm giam, bắt bớ đến vào lúc này và nhất là lại áp dụng đối với con người họ nhất mực quý mến. Nhưng Bùi Danh Tân đã giải thích cho họ rằng tạm giữ không phải là bị bắt, rằng các đồng chí công an thừa hành pháp luật nhà nước mà mỗi công dân có nghĩa vụ phải tôn trọng, rằng không để xảy ra một hành động thiếu tự chủ nào.

Nói xong những lời ấy, Tân chóng mặt. Nhưng anh gắng gượng. Một đêm không ngủ và thần kinh căng thẳng cùng với những sây sát trên người làm lúc này ai nhìn cũng ngạc nhiên thấy anh già đi tới dăm, bảy tuổi. Anh xin phép ba mươi phút chuẩn bị. Nhưng rồi anh cứ đứng đó. Ngoài kia người ta dãn cho Nguyễn Văn Thùy và Ưng bước vào. Ưng đội khăn tang, hốc mắt sâu và hoe hoe đỏ. Sự việc xảy ra đêm qua đã để lại cho mỗi người bài học riêng của mình. Các anh tỏ ra hết sức kìm chế và mềm mỏng. Thùy tới trước phó huyện trưởng công an đặt vấn đề:

- Tại sao không bắt tôi?

Phó huyện trưởng công an hỏi lại:

- Anh là Nguyễn Văn Thùy?

Tiếng trả lời rắn rỏi:

- Vâng! Chính tôi.

Anh công an thoáng nhăn mặt rồi gắng gượng mỉm cười như với riêng mình:

- Chúng tôi chấp hành lệnh của viện kiểm sát. Lệnh này chỉ đòi hỏi tạm giữ công dân Bùi Danh Tân.

Khi người công dân - người chủ gia đình ấy bước khỏi cổng thì chị vợ, dường như vẫn chết lặng ở cửa bếp từ lúc đầu bất ngờ choàng tỉnh lao theo. Chị ôm lấy chồng. Chị lôi kéo chồng. Chị lăn lộn gào thét ngày càng to: "Ối làng trên xóm dưới ơi! Bốn mươi năm ra đi làm gì mà khổ thế này hả anh ơi. Anh ơi là anh ơi...". Cơn nấc chẹn lại làm cho tiếng kêu của chị liền sau đó chỉ còn như tiếng kêu nghẹn tắc của ai đó bị bóp cổ. Xóm làng xúm lại khiêng chị vào nhà. Chị còn quằn quại trên giường suốt mấy tiếng đồng hồ cho đến khi mệt quá thiếp đi và không hề biết rằng bao nhiêu bà con đang thay nhau đuổi muỗi, đánh muỗi hoặc phe phẩy chiếc quạt để bộc lộ tình cảm nhiều hơn chứ thời tiết đâu có nóng, bên giấc ngủ đầy giận hờn của chị.

Bùi Danh Tân ngồi lên xe Sítđờca do chiến sĩ công an lái, trong lòng cứ day dứt đau đớn. Anh tin là họ lầm. Anh cho rằng họ đã đánh giá quá cao về anh, để nhấn mạnh tới chức vụ của anh trong quân đội và lồng nó vào các sự kiện đang xảy ra ở làng. Anh không e ngại gì cả. Anh không buồn bực nặng nề mà chỉ bâng khuâng lòng dạ, chẳng lẽ sau mấy chục năm ra đi vẻ vang giờ đây lại trở thành con người phải xem xét tư cách công dân? Anh không mảy may công thần địa vị hay quá hợm hĩnh về chức vụ của mình mà chỉ chạnh lòng buồn phiền về những gì đáng tiếc xảy ra liên quan tới mình. Các cụ nói chí lý. Quan nhất thời - dân vạn đại. Làm quan được nhưng cũng phải làm dân được mới là người hoàn chỉnh. Xe lao qua cổng Hột của một thời thả diều chạy nhảy ngày xưa, anh cứ man mác ngắm nhìn cánh đồng tít tắp chạy qua Quán Dòng, Bờ Vô, tới chùa Mận, chùa Hàn. Một con cò, có lẽ đi ăn đêm về muộn chớp cánh trắng yếu ớt tít tận phía Ba Tòa. Chợt anh nghĩ tới vợ, người bạn đời tần tảo suốt bao nhiêu năm hy sinh cả tuổi thanh xuân cho anh ra đi. Tiếng kêu gào của chị dội lại làm anh rùng mình. Anh nhắm mắt, nhưng chỉ hơi cúi xuống một tí để không bị hiểu lầm rằng anh đang suy sụp. Chiến sĩ công an ngồi sau người lái hỏi anh bị đau ở các vết sây sát phải không? Anh biết mình được hỏi bằng giọng tôn trọng và thông cảm nhưng đã không trả lời. Hình ảnh người vợ lúc này đang choáng ngập tâm hồn anh. Nỗi day dứt sâu xa chính là sự tự giận hờn về thái độ chưa đầy đủ đối với vợ. Anh dẫu sao cũng chẳng tiếc phận nhưng vợ anh đã đau đớn biết nhường nào. Chị đã bao nhiêu năm mòn mỏi trông chờ, hàng chục năm phấp phỏng lo âu, hàng chục năm mơ tưởng hình bóng chồng ở những nơi xa xăm tận cùng đất nước, để giờ đây... Anh hất đầu nhìn thẳng để khỏi đắm chìm trong sự yếu đuối mủi lòng.

Hai chiếc Sítđờca nối nhau chạy vòng chuôm chùa Mới rồi băng băng lăn bánh trên đê chùa Mới hướng về Cổng Và. Nhưng xe không tới giếng làng Cao để rẽ ra đường Hai mươi xuống Trạm Bóng về huyện mà lại rẽ qua nơi có hai con chó đá vừa bị ném xuống ao để vào trong xóm. Bùi Danh Tân nhận ra cái nhà thờ cặp kè bị phá tan tành và ông Hinh, trưởng tộc của một dòng họ làm nghề cặp kè đang cùng mấy người đằng nội thu dọn cây que vung vãi. Họ cùng đứng lên nhìn. Thấy xe từ từ đỗ lại và thấy có Tân ngồi trên đó hai tay đặt theo đầu gối phía trước như bị còng số tám khóa lại, hai mắt ông trưởng họ mấp máy vui mừng. Niềm hân hoan đến đột ngột và dâng lên rất mau khiến ông không kìm chế nổi hoặc giả vậy chẳng cần kìm chế bao giờ, nên ông đã bước tới một bước nhoẻn miệng cười. Cái cười ấy gượng gạo đến thảm thương và ông nói:

- Chào các đồng chí!... Các đồng chí bắt thằng này là phải lắm. Hắn dẫn đầu làng Thị sang phá tanh bành xóm lối làng tôi đêm qua. Giam hắn cho kỹ vào!

Phó huyện trưởng công an bước xuống xe và tỏ ra không để ý tới những lời ông vừa nói. Anh lên tiếng:

- Xin cho tôi hỏi ông Vũ Đình Hinh?

Ông trưởng dòng họ xóm Cổng Và ngơ ngác:

- Các đồng chí hỏi anh Hinh nào ạ? Làng này những ba Hinh. Riêng xóm Cổng Và đã có hai Hinh.

Phó huyện trưởng công an dõng dạc:

- Nhưng Vũ Đình Hinh, năm mươi tám tuổi thì chắc chắn chỉ có một. Chúng tôi muốn gặp người đó.

Người này định giở trò láu cá vì làng Cao chỉ có một Hinh mà thôi. Khi thấy hỏi tới tên mình ông ta định đánh bài lảng nhưng chẳng thoát, làm cho khuôn mặt dầm mưa dãi nắng kia hồng lên. Lơ mơ cảm nhận một điều gì không may sẽ đến với mình làm ông phập phồng lo lắng. Ông đứng im có tới một phút đồng hồ rồi mới lắp bắp:

- Vâng!... Vâng... Lẽ tất nhiên... chỉ có một!

Bỗng như chợt nhận ra mình phải cứng cỏi, phải mạnh bạo, phải tỏ rõ chân lý thuộc về mình, giọng ông pha chút gì như là thách thức:

- Thì chính là tôi!

Phó huyện trưởng công an đề nghị bằng giọng không thể cưỡng lại:

- Ông dẫn chúng tôi về nhà, có việc!

Khi tất cả đã ở trong nhà, phó huyện trưởng công an mở ra một tờ giấy đánh máy có dấu đỏ chót và tuyên bố:

- Công dân Vũ Đình Hinh... Căn cứ luật... Căn cứ hành vi của công dân Vũ Đình Hinh trong sự kiện va chạm giữa nhân dân làng Thị và nhân dân xóm Cổng Và làng Cao ngày... Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân ra lệnh tạm giữ...

Tiếng kêu bật lên:

- Ôi! Bắt giữ tôi sao? Tôi có tội gì? Cái tay sĩ quan về nghỉ hưu kia kìa - Ông ta chỉ vào Bùi Danh Tân - Hắn mới là đầu trò mọi sự lộn xộn. Mấy người đang phải nằm bệnh xá xã là tội của hắn. Hôm trước hắn sang đây vờ vĩnh thương lượng nhưng chính là để thăm dò đường đi lối lại bố trí trận tiến công. Hắn quen chỉ huy rồi mà lại! Hắn về hưu không ra lệnh lính tráng được thì điều hành mấy bà mặc váy làng Thị.

Người ta giục ông chuẩn bị tư trang và nhắc chỉ có hai mươi phút. Người ta cũng giải thích chưa ai kết luận ông có tội và việc đó phải là nhiệm vụ của tòa án sau quá trình xem xét. Cơ quan thi hành pháp luật chỉ gọi ông tới tiện cho việc điều tra, xác minh mà thôi. Nhưng ông phải có mặt. Luật định như vậy!

Mồm ông Hinh méo xệch. Dường như ông ta định chửi nhưng chợt nhận ra rằng chửi thì thật là nguy hiểm nên đã ngậm được cái mồm kia lại. Nhưng một lần nữa, môi trên cứ cong lên, rung rung, muốn nói và tiếng nói không chịu phát ra cho, thành thử cứ như lẩm bẩm một điều gì đó. Khi được mời lên thùng xe Sítđờca ngồi, ông có vẻ khoái. Cái đầu và khuôn mặt ông trở nên ngạo nghễ như là muốn tuyên bố với dân làng: Ta lên huyện đây! Ta sợ đếch gì! Phó huyện trưởng công an còn phải mang xe đến tận nhà mời rước ta đi. Các người cứ nghĩ mà xem, đâu có phải chuyện đùa, chuyện giỡn!

Hai chiếc Sítđờca phóng vút qua cổng Đá để tới đường Hai mươi. Đây cũng là địa danh nuôi bao kỷ niệm của một thời thơ ấu. Cái cổng này nếu không bị bom đạn đập phá tan tành thì chắc chắn ngày nay sẽ không thiếu gì các đoàn nghiên cứu văn hóa trong nước và ngoài nước kéo đến. Gọi cổng Đá bởi chính nó làm toàn bằng đá. Cột đá, đàn đá, bậc lên gác bằng đá. Tường đá. Chỉ có mái là lợp ngói ta mà thôi. Thuở ấu thơ, mỗi lần được sang chơi làng Cao cùng chúng bạn không thể nào không lượn quanh bờ giếng xây thành rất đẹp, không thể nào không xúm lại ôm cột đình làng Cao bằng lim nhẵn bóng xem được mấy vòng tay người, không thể nào không trèo lên từng bậc gác bằng đá của cổng Đá, sờ nắn những hoa văn mà chẳng biết là hoa văn, những chim, cò, ngỗng, hạc tạc bên thành tường, cốt để cho vui. Và các cụ mới thật tài tình, chợ nổi tiếng tục gọi là chợ Rồng cũng chính nơi đây, trước cửa đình, bên bờ giếng và phía trong cầu Đá. Người xưa chưa có lý luận khúc chiết mà ta gọi là kiến trúc thượng tầng, nhưng đã bố trí một quần thể văn hóa chỉ của riêng một làng ngày nay chúng ta ngưỡng mộ. Chiến tranh kẻ thù gây ra chẳng những làm bao người chết mà còn tàn phá bao di sản vô cùng quý giá.

Thời gian vút đi như một cánh chim không mỏi. Xe qua ngã tư Trạm Bóng và hướng tới cầu Tràng Thưa thì Bùi Danh Tân bỗng thấy mệt mỏi rã rời không muốn nghĩ gì nữa. Anh hơi ngả về phía sau và chợp đi như giấc ngủ của người vô tư nhất. Nhưng có lẽ với anh là do mệt mỏi và căng thẳng. Đêm qua anh đâu có ngủ tí nào. Vết dao bập vào phần mềm ở vai đau nhói. Thần kinh căng thẳng với biết bao cảm xúc đột ngột. Quá nửa đêm trở về thì vợ anh đau khổ la rầy. Do không kiềm chế được anh đã có vài câu gay gắt với chị. Giờ đây lòng những giận mình. Bao nhiêu năm đi xa, anh gian khổ hy sinh thì người vợ ở nhà cũng gian khổ hy sinh. Khát vọng vợ chồng sum họp thiêu cháy ruột gan chị. Chị có quyền sống như mọi người mà nước nhà thống nhất vẫn cọc cạch gánh nặng gia đình. Vẫn một mình chịu đựng bao nỗi lo toan.

Đến phố huyện lúc nào Tân không hay biết. Xe đỗ trước một dãy nhà cấp bốn phía sau trụ sở. Mọi người bước xuống. Khi ông Hinh nhổ toẹt một bãi nước bọt to tướng và ngơ ngác nhìn quanh thì huyện trưởng công an đến bên anh:

- Anh nghỉ trong này! - Đại diện công an nói và chỉ một phòng nhỏ đang mở cửa.

Tân hỏi lại:

- Mình tôi sao?

Phó huyện trưởng công an trả lời:

- Mình anh. Tất nhiên nếu người thân tới thăm chúng tôi vẫn có thể xem xét và bố trí nghỉ cùng anh. Anh chỉ mới phải chấp hành lệnh tạm giữ. Ra khỏi khu vực này chưa được phép đâu anh ạ.

Rồi như chợt nhớ ra điều gì phó huyện trưởng công an vội vã:

- Xin lỗi! Các chỗ sây sát của anh thế nào? Nếu anh thấy cần thiết phải đến bệnh viện thì... Bằng không, cơ quan có nhân viên y tế lát nữa sẽ tới thăm bệnh cho anh. Anh có yêu cầu gì cứ cho biết.

Bùi Danh Tân nói ngay:

- Đề nghị thứ nhất: các anh mau chóng điều tra xác minh sự việc, nếu có tội tôi sẵn sàng chịu trách nhiệm trước pháp luật. Đề nghị thứ hai và nếu không phải quá đáng thì cho tôi được đọc báo.

Phó huyện trưởng công an ghi nhận những đề nghị ấy và trở về phòng làm việc của mình.

Suốt những năm tháng đi xa, Tân nhiều lần nghĩ tới làng quê nhưng chưa lần nào anh lại nghĩ về nơi chôn nhau cắt rốn bằng thứ tình cảm lộn xộn như thế này. Lúc giận lúc hờn. Lúc dạt dào thương nhớ. Lúc day day tủi phận. Việc bị cơ quan thi hành pháp luật gọi tới, anh cứ thấy lòng tự trọng của mình bị va chạm. Anh phỏng đoán người ta nghi ngờ anh đầu têu mọi chuyện xích mích. Thực thì đêm qua anh đã dẫn đầu. Nhưng ai biết rằng anh tiến lên phía trước để ngăn chặn mọi sự bùng nổ.

Căn phòng hẹp, chừng chín mét vuông. Nó là phần nửa của một gian ngăn đôi có lẽ dành cho hộ độc thân hoặc những cặp vợ chồng mới cưới. Một chiếc giường cá nhân. Một chiếc bàn nhỏ và hai cái ghế. Một cái tủ đầu giường đã long cả cánh. Một bóng đèn điện tít trên trần. Dường như căn phòng vắng chủ đã lâu nên có mùi mốc. Tân dọn phòng, mượn một cái chổi lông để quét chiếu và bàn ghế. Anh đặt bó quần áo xuống và dùng luôn nó làm gối. Đan hai bàn tay kê thêm ở sau gáy anh im lặng nhìn lên trần nhà đã rạn.

Làng Thị nhỏ bé đã theo anh đi suốt các nẻo đường. Từ cây đa bờ giếng, từ khóm tre ngọn trúc, từ cụ Tuần dũng cảm và bác Nham gai góc, với anh luôn luôn là xương là thịt của mình. Mấy chục năm qua làng Thị bao lần sôi lên trong giông bão. Cũng có lúc lắng xuống, có lúc véo von tiếng ve kêu và tiếng sáo diều du dương trầm bổng nhưng đó dường như chỉ là giả vờ giả cách. Súng đạn lại khua lên. Bão lại cuộn tung. Lốc lại xoáy tít làm cho đời sống của làng luôn luôn biến động. Chỉ lớp trung niên như anh và những người có mặt trên đời trước đó mới hiểu thế nào là cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. Bắt đầu từ cuối năm 1951 chuyển sang đầu năm 1952 làng phá tề, xã phá tề và trở thành bìa giáp ranh của vùng căn cứ du kích. Bốt Đò Thưa bỏ chạy. Bốt Ba Đông và bốt Bượi Dăm rút lui. Nhưng còn đó những bốt Triệu, quận lỵ Thọ Chương, bốt Đò Neo, bốt Thông, bốt Lòn... dày đặc hệ thống theo các trục đường giao thông. Giặc đưa từng GM cơ động mở trận càn Lạc Đà, trận càn Con Cắt, trận càn Brốtxê chà đi xát lại vùng căn cứ du kích Tứ Kỳ, Gia Lộc, Ninh Giang, Quỳnh Côi. Đống Năm nằm ở hai bờ nam bắc sông Luộc. Đêm bộ đội ta san bằng bốt Triệu, giặc ném bom napan vào làng Thị làm chết sáu người. Đêm bộ đội ta tập kích quận lỵ Thọ Chương, giặc ném bom tạ vào làng Hậu Bổng. Trai làng vào bộ đội, vào du kích và một số không nhỏ chạy dài mỗi khi giặc càn tới. Bà già trẻ con nhiều khi không dám ở làng mà làm lều tranh trên các đống của cánh đồng Bượi Dăm để tránh máy bay và để đề phòng giặc đánh úp. Một lần bà con đang làm đồng thì lính quận lỵ Thọ Chương phối hợp với lính căn cứ Đò Neo từ làng tề Kim Trang xông ra. Có người chạy về làng để vượt qua sông Cửa Đình sang Bượi Dăm. Có người qua Miễu để lội tràn trên cánh đồng triều trũng. Có người ngược Ba Tòa để rồi từ đồng Gôi chạy xuống. Giặc bắn dữ. Những quả đạn moócchiê reo ong óc từ trên trời rơi xuống và nổ choang choang. Mới mười sáu tuổi tròn nhưng Bùi Danh Tân đã to xác phổng phao chạy tắt qua Quán Dòng về làng tìm mẹ. Mẹ anh đã được xóm giềng đưa qua sông nên anh chạy lao tới Cửa Đình. Một em bé gái dóng trâu đứng khóc rẫy vì con vật to xác chắc cho rằng mọi sự đang là trò vui đã dứt đứt thừng nghênh ngang bơi xuôi dòng nước. Tân không kịp nghĩ, giật khúc thừng trong tay em bé sáu tuổi ấy và nhảy xuống sông. Đạn địch chi chát. Anh mặc kệ. Anh tóm lấy con trâu luồn thừng vào mũi nó, giật mấy cái thực đau để cảnh cáo, rồi nhảy lên mình trâu buộc nó bơi theo ý muốn. Người con gái bé tí đó hôm nay là vợ anh.

Tiếng ông Hinh bên kia tường vang lên với một người nào đó cắt ngang luồng suy tư hờn giận của anh:

- Thằng già này bị tội gì mà công an gọi nào? Thử hỏi tôi mắc tội gì? Nửa đêm hắn dẫn đầu đoàn người trùng trùng điệp điệp kéo tới phá phách từ cổng ngõ tới cả điện thờ dòng họ nhà tôi. Hắn đáng chết. Vết dao chém trên vai còn là quá nhẹ. Hắn có kêu đau cũng chỉ là vờ vịt. Tôi không tin hắn là sĩ quan quân đội.

Người kia giải thích thế nào nghe không rõ, nhưng ông già cặp kè vẫn cứ gầm lên:

- Tôi cóc sợ! Việc gì tôi phải sợ! Tôi có phải người gây nên tội đâu mà sợ. Giá như còn cái cặp kè bây giờ nhất định tôi sẽ cặp vào mũi hắn lôi dài ra cho mà xem.

Tân phì cười. Ông ta luyến tiếc cái nghề một thời oanh liệt chăng? Nhưng cái cười ấy tắt ngay, bởi vì ai kia như là vợ anh đang đứng trước cửa phòng thường trực của huyện công an. Rồi một người chỉ. Rõ ràng chị nhìn theo hướng chỉ và nhận ra anh. Chị tất tưởi đi tới tay cắp cái thúng úp chiếc nón lá ở bên trên. Tự nhiên anh thấy nôn nao một nỗi niềm xót xa. Người đàn bà của một thời hồn nhiên tươi trẻ và xinh xắn kia đã đánh đu cuộc đời mình vào với cuộc đời long đong vất vả của anh. Sự hy sinh của chị cho người ra đi thanh thản kém gì sự hy sinh của chiến sĩ trên chiến trường. Anh thấy rõ ràng mình chưa làm được gì góp phần cho chị đỡ nhọc nhằn. Chị đằng đẵng tháng năm một mình thân cò lặn lội.

Cửa buồng mở. Chị nhào tới vứt cái thúng đánh uỵch và lao vào anh. Thoạt đầu chị mở cúc áo để xem vết thương trên vai anh và thấy vừa thay băng thì yên tâm cài khuy áo của anh lại. Nước mắt chị giàn ra. Dường như tiếng khóc lúc này làm chị vơi nhẹ bao nặng nề lo toan cho nên chị cứ khóc hoài làm ướt nhòe trên ngực áo anh. Người ta nói rằng hạnh phúc khi được khóc chồng có thể là trong trường hợp này chăng?

Anh khẽ lay vai chị và nhắc:

- Lỡ có người, nhà ơi!

Nhưng giọng chị vừa thổn thức vừa quyết liệt:

- Mặc. Em không sợ. Ai vào đây thì vào. Chẳng lẽ đau thương quá phải khóc mà cũng không được hay sao? Giá cụ Tuần còn sống sẽ không bao giờ diễn ra cảnh này. Cụ sẽ nói với bí thư huyện ủy.

Tân ngăn vợ:

- Đừng bao giờ nghĩ thế. Cụ còn sống là đáng mừng. Nhưng không khi nào anh muốn cụ phải bận tâm can thiệp vào những hành vi mà anh phải chịu trách nhiệm.

Chị vợ sôi nổi ôm ghì lấy anh:

- Anh ương bướng lắm. Em sẽ gặp bí thư huyện ủy và lãnh đạo công an huyện. Anh không có tội gì cả. Và em cũng muốn anh không phải làm gì cả. Bằng ấy năm ra đi chưa đủ sao.

Bùi Danh Tân biết nỗi niềm khát khao của vợ. Anh im lặng. Anh vuốt vuốt mái tóc còn rất xanh và mềm mại của chị như một ngày cách đây mười tám năm trong lần về phép. Dường như cả hai vợ chồng bỗng thoáng sống lại phút giây tươi đẹp của thuở ban đầu phải lòng nhau ấy bên bờ giếng dưới gốc đa làng. Ngày ấy anh đã hôn trộm chị. Và chị đã đáp lại cử chỉ yêu thương vội vàng ấy bằng một cái béo tai.

Anh khuyên vợ:

- Em không cần phải gặp ai cả. Tự anh sẽ bào chữa cho anh. Chúng ta không cầu xin. Chúng ta không muốn ai tỏ lòng thương hại.

Chị sôi nổi:

- Nhưng anh phải thương em. Bao năm em mong đợi. Bao năm em phấp phỏng lo âu. Những năm đánh Mỹ nghe tin chiến thắng trên chiến trường vừa mừng vừa sợ. Nơi chân trời góc biển nào liệu anh còn đứng đó hay đã ngã xuống để lại cho một mình em với những năm tháng kinh hoàng.

Tình cảm càng ngày càng sục sôi khiến chị vừa khóc vừa nói và cứ day day tấm thân to lớn của chồng:

- Anh đi đi! Anh đi nữa đi! Để một mình em chết dấp trong cái xó xỉnh của làng Thị hẻo lánh ấy. Chỉ có thế mà ngày trở về anh cũng không tới nhà vội còn rẽ ngang rẽ tắt để em đi tìm. Người ta cười em. Nhưng em cóc sợ. Tìm chồng và bắt chồng về có tội đâu mà sợ.

Anh im lặng. Chị tiếp tục tâm tình:

- Thống nhất đất nước được tin anh còn sống em cứ đứng và khóc một mình. Đêm ấy em dựa mãi cổng nhìn về chân trời đăm đăm xa cách nghìn trùng. Đến khi anh về phép, em những tưởng anh được ở nhà. Anh lại tới biên giới Tây Nam và sang biên giới Campuchia - Thái Lan để cho em những tháng năm bồn chồn, phấp phỏng. Vợ chồng lấy nhau ngần ấy năm mà chưa bao giờ sống với nhau được tròn một tháng. Hai mặt con mà anh chưa biết bụng vợ chửa thế nào. Những khi cái thai đập mạnh em muốn có bàn tay anh để mình cầm đặt lên đó. Rồi hai lần sinh đẻ anh cũng chả được một lần nghe con cất tiếng khóc khai báo hộ khẩu. Giờ đây anh về hẳn... để rồi... anh đi đi! Anh đi đi! Đi nữa đi!

Bùi Danh Tân cũng khóc tự lúc nào. Nước mắt rơi ra mà anh không hề hay biết. Tiếng khóc của vợ làm anh tràn ngập tình yêu khôn xiết và vợi nhẹ đi tất cả những tủi hờn. Công lao của chị đối với cái gia đình nhỏ nhắn của anh là dòng nước mát, trong như suối, ngọt như đường, chảy mãi không biết đâu là cùng. Tiếng khóc của chị, lạ thay, chẳng làm anh buồn mà sung sướng, yêu thương. Rồi hai vợ chồng cứ ngồi với nhau như thế, im lặng, bồi hồi. Không biết bao nhiêu phút đã trôi qua, chị vừa lau nước mắt vừa nói:

- Anh vừa bị gọi đi được một lát thì thằng La phóng xe máy về làng. Nó đến những nhà ai không biết nhưng mãi sau mới đến nhà mình. Nó đưa cho em gói lớn chẳng biết trong đó có cái gì, bảo là quà nhờ chuyển cho anh. Em nhất định không nhận. Nó bảo dường như trên tỉnh người ta không đồng ý cho dãn đội hình hợp tác xã toàn xã. Nó khoe khoang phải mất bao công sức mới lập được quy mô sản xuất, khó khăn thì khắc phục chứ sao lại xóa bỏ. Nó nói nhiều và em

nhớ ít.

Tân thoáng thấy sự tới thăm của La rõ ràng không thường cũng như thái độ vồn vã với anh hôm đầu gặp lại. Thằng này chứng nào tật ấy. Có khác chăng là giờ đây biểu hiện tinh khôn hơn, ma quái hơn, tham vọng lớn lao hơn và chắc chắn là sẵn sàng dã tâm hơn. Anh có phần lo lắng hỏi:

- Em nhớ lại xem, La còn nói gì nữa không?

Chị ngồi xa anh ra. Những giọt lệ được lau khô nhưng hai hốc mắt đỏ hoe. Tiếng nói của chị tỉnh táo dần trở lại:

- Nó bảo em can ngăn anh không nên tham gia những việc của làng. Anh có quyền nghỉ ngơi kia mà! - Như chợt nhớ ra điều gì chị tiếp - Nó chuẩn bị đi thì chủ tịch Hoàng tới.

Tân hỏi lại ngay:

- Hoàng tới à? Nói những gì?

Chị thong thả:

- Anh ta nói chả đâu vào đâu, nên em chẳng buồn nhớ. Nào là đáng tiếc đã xảy ra tranh chấp. Nào là anh ta cũng sẽ bị liên đới trách nhiệm. Nào là bà con mình không nên nôn nóng...

Tân bực dọc:

- Sao lại liên đới trách nhiệm? Nó là chủ tịch mà định lảng tránh việc này đâu có được. Giữa thôn và xã đang có ý kiến bất đồng về tổ chức đội hình sản xuất. Nó ở làng thì tỏ vẻ là đứa con của làng, lên xã thì quay sang khẳng định mình là người của xã. Lẽ ra nó cần đứng vững trên cơ sở của cái phải chứ không là người của riêng ai.

Im lặng một lát anh thêm:

- Cán bộ quản lý nhà nước ở địa phương tất nhiên phải chịu trách nhiệm trước mọi sự biến trên địa bàn của mình.

Gian bên kia ông Hinh lại gào lên:

- Thế này là giam hẳn hoi rồi chứ gọi tạm giữ sao được nữa. Không cho ra phố nghĩa là thế nào? Tôi muốn đi ăn. Tôi muốn uống. Tôi muốn hít thở không khí ngoài trời một chút cho sảng khoái. Ai cướp mất quyền tự do của tôi?

Tân nói với vợ:

- Ông ta cứ luôn luôn gầm lên như thế đấy em ạ. Để làm gì nhỉ? Nếu chỉ là để cho sướng miệng thì cũng đáng buồn cho cái miệng ấy thật.

Câu nói bóng nói gió đã không được hưởng ứng lắm có lẽ bởi chị chưa hiểu hết ý nghĩa châm chọc của nó. Chị hỏi sang chuyện khác:

- Anh Thùy và anh Ưng đến nhà. Họ khổ sở và lo lắng cho anh. Anh Thùy tỏ ra rất áy náy việc anh bị công an gọi và muốn được thay thế anh. Sao thế hả anh?

Tân im lặng. Chị nói như nói một mình:

- Hai người trong ban điều hành sản xuất ấy đến gửi quà cho anh và nói rằng họ sẽ lên huyện giải trình.

Bùi Danh Tân im lặng. Hai người không nói gì nữa mà cứ lặng lẽ ngồi bên nhau cho thời gian âu yếm trôi qua.