← Quay lại trang sách

Chương 3

Mùa hè năm đó gia đình tôi có nhiều việc thay đổi. Ba tôi được về làm y tá trưởng ở bịnh viện lớn Thủ Khoa Nghĩa tại thị xã Cần Thơ. Ba tôi qua Cần Thơ nhận nhiệm sở. Sẵn dịp ba đi tìm nhà để đến khi làm việc thì đưa tôi cùng bà vú cùng đi. Theo lẽ thì bà vú chỉ nuôi tôi đến mười hai tháng hoặc khi tôi dứt sữa thì vú nghỉ việc. Nhưng ba tôi bận đi làm, tôi không được ai giữ. Bên ông bà ngoại, mấy cậu mợ ai cũng giành được nuôi tôi. Cô Hai tôi nằng nặc đòi giữ tôi với lý do hết sức chính đáng. Cô Hai tôi từ nhỏ tới lớn chưa có chồng. Cô có bằng Nữ hộ sinh Quốc Gia. Khi tốt nghiệp ra trường cô làm ở Bảo Sanh viện Từ Dũ được mấy năm thì đổi về làm ở bảo sanh viện Mỹ Tho. Làm ở đây không lâu, cô nghỉ rồi tự ra mở bảo sanh viện tư ở chợ Vòng Nhỏ thuộc thành phố Mỹ Tho. Việc làm ăn của cô rất khá giả. Cô tôi nói:

– Tôi chỉ có ba cháu Thể Hà là em ruột. Tôi lại không có chồng, không con cái. Trong nhà bảo sanh của tôi có nhiều người giúp việc, tôi sẽ chăm sóc kỹ lưỡng và chu đáo cho cháu.

Mợ dược sĩ Tân của tôi cũng muốn nuôi tôi. mợ nói:

– Thưa các anh chị và dượng út, tôi rất muốn giữ cháu Thể Hà. Cháu với con gái tôi tuổi tác gần bằng nhau, rất thương mến nhau. Nếu chúng được sống chung cùng đi học thì rất tốt cho chúng.

Nhưng ba tôi không bằng lòng. Ba tôi bảo với dòng họ hai bên rằng:

– Xin thưa, cùng các anh các chị thương yêu cháu, thông cảm cho hoàn cảnh gà trống nuôi con của tôi nên muốn nuôi dạy cháu Thể Hà trở nên người sau nầy. Cảm ơn lòng tốt của anh chị. Tôi không thể xa cháu được, cháu không xa tôi được. Cha con tôi đùm bọc nương nhau mà sống. Cháu đã không còn mẹ rồi bây giờ không thể xa cha nữa. Mong anh chị đừng buồn. Chừng nào tôi không thể lo cho cháu được thì nhờ dòng họ và anh chị giúp đỡ.

Cho nên mặc dù tôi không còn bú sữa của vú nữa, nhưng vú vẫn ở lại giúp việc cho chúng tôi. Vú đi chợ nấu cơm làm những việc lặt vặt trong nhà. Ba tôi đối với vú như đối với cô Hai tôi. Chuyện gì vui buồn trong sở làm, ba tôi thường mang về kể lể cho tôi và vú nghe trong buổi cơm chiều, hay lúc nào rỗi rảnh. Vú đối với ba tôi kính trọng, luôn giữ gìn lễ phép của kẻ ăn người ở. Với tôi vú thương yêu chiều chuộng như con ruột của bà. Tôi thương yêu vú không khác gì thương yêu ba tôi. Vì từ nhỏ đến giờ ngoài ba, chỉ có vú là người gần gũi tôi nhứt. Mỗi năm vú chỉ đi về nhà chồng cúng giỗ chồng và thăm con có đôi lần. Và mỗi lần đi năm ba ngày rồi trở lại vú mua cho tôi rất nhiều quà bánh. Mỗi lần vú đi như vậy thì tôi khóc, quyến luyến không cho vú đi, hoặc đòi đi theo vú. Tôi muốn theo giữ vú, tôi cứ sợ vú đi rồi không trở lại. Vú thường vỗ về tôi:

– Cô Ba đừng khóc. Vú đi mấy bữa vú sẽ về. Vú sẽ mua nhiều quà bánh cho cô. Mỗi năm chỉ có vài ngày vú được về thăm con trai của vú thôi.

Vú mơ màng nhìn trời xa xôi:

– Cô Ba biết không? Vú có đứa con trai lớn hơn cô Ba bốn tuổi, nó tên Đông, thằng nhỏ đó khôi ngô dễ nhìn, càng lớn càng giống ba nó từ sắc diện cho đến tánh tình. Bên chồng vú không thương vú nhưng thằng Đông con vú có phước, may mắn được bà nội và chú thím thương yêu như con ruột của mình. Chú thím ấy chỉ có đứa con gái bằng tuổi cô Ba. Khi sanh con nhỏ thím ấy phải mổ. Từ đó thím ấy không sanh đẻ được nữa.

Tồi vọt miệng hỏi vú:

– Anh Đông gì đó có thương vú không? Có coi vú là má không?

Vú cười vuốt tóc tôi hỏi:

– Sao cô Ba hỏi vậy?

Tôi ngã vào lòng vú, nói:

– Vú biết bà Trurng úy Tâm mà? Bả có nuôi đứa cháu gái con của người chị ruột… Nó tên là Mỹ Hạnh. Ba má Mỹ Hạnh còn sống nhăn mà nó có thương yêu họ đâu. Nó nói với con, nó có nhiều anh chị em sống ở dưới quê. Mấy đứa đó hay giành đồ chơi, ăn hiếp nó… Nó chê ở dưới quê sình bùn, khổ nghèo. Mâm cơm không có thức ăn ngon, áo quần không đẹp, cách sống không sạch sẽ… Còn ở đây thành thị, cái gì cũng tốt, cũng đẹp. Nó được đi xem hát tuồng với dì nó, hoặc đi xem chiếu bóng với bạn bè. Nói tóm lại nó rất ghét gặp lại ba má và anh chị em nó đó, vú à.

Vú chép miệng, rồi nói:

– Vậy hả? Thằng Đông của vú thì khác. Nó thương vú lắm, nó muốn ở gần vú. Nhưng cô ba nghĩ xem, vú không có nhà cửa. Nếu nó theo vú thì sẽ khổ, tương lai nó không biết sẽ đi về đâu! Vì hoàn cảnh vú như vầy thì làm sao vú nuôi nó học thành tài được. Cũng may mắn, gia đình bên nội nó không ưa vú, nhưng họ lại thương thằng cháu đích tôn nầy vô cùng. Mỗi lần gặp lại vú nó vui mừng và buồn vì sống xa vú. Nó nói: “Sau nầy khi khôn lớn con có công ăn việc làm, con sẽ rước má về sống với con. Má con mình hẩm hút với nhau không phải xa cách nữa”. Nghe nó nói vú chảy nước mắt, nhưng không dám để nó nhìn thấy sợ nó thêm buồn mà xao lãng việc học hành. Vú mừng lắm, nó đã đậu bằng Tiểu học rồi, hè nầy sẽ thi vào đệ thất trường Trương Vĩnh Ký.

Nghe thương vú phải thương nhớ con, tôi nói:

– Thì vú cứ đem con vú về ở đây đi học với con. Nhà mình ít người mà. Để con nói với ba vú đem con vú về đây ở nhen.

Vú mỉm cười hiền lành trìu mến nhìn tôi:

– Cảm ơn cô Ba có lòng tốt. Mặc dù vú nhớ con, nhưng nó ở với bà nội và chú thím nó hạnh phúc lắm. Miễn sao nó có lòng thương tưởng đến người mẹ nầy thì vú mãn nguyện lắm rồi. Nhớ nó thì cũng nhớ thiệt, nhưng gần cô Ba đôi lúc vú quên nó mất tiêu.

Tôi sung sướng nũng nịu:

– Không được, vú thương con hai phần, thương con vú một phần thì được rồi, đừng quên mất tiêu nhen! Con không ganh tị với con vú đâu. Nhưng con vú đến đây ở nhà mình, chớ vú không được đến nhà anh ấy ở mà bỏ con. Nhớ nhen vú, năm nào đó vú đã hứa và ngoéo ngón tay với con rồi nên vú không được quên nghen.

o O o

Sau hè năm nay tôi sẽ vào lớp bốn. Vú dắt tôi về thăm ngoại trước khi theo ba qua Cần Thơ. Ông bà ngoại mừng lắm. Bà nói cười tíu ta tíu tít như lâu lắm rồi không gặp cô cháu ngoại độc nhứt nầy vậy. Cứ mỗi nửa tháng, ngoại đều đi chợ quận và ghé thăm tôi. Bà luôn luôn xách cho bánh, trái, đôi khi còn tôm cá tươi ngon mới mua được của người thợ chài, hoặc người giăng câu. Từ nhà ngoại đến nhà chúng tôi chừng mười lăm phút xe lam. Bởi đường dài chưa được mười cây số. Vậy mà vừa thấy tôi thì ngoại trầm trồ:

– Thể Hà của ngoại nay đã cao lớn ngó thấy. Tóc cháu đen dài óng mượt như tóc má cháu thuở xưa.

Ông ngoại tôi ngồi uống trà gần đó, gật gù nhìn tôi hài lòng:

– Người phụ nữ đẹp phần lớn nhờ mái tóc. Ông cha ta nói “Cái răng cái tóc là gốc con người”. Mái tóc cháu đen huyền, nặng mà bồng rất đặc biệt. Nhiều người muốn cũng không dễ có. Cháu nhớ giữ gìn đừng cắt uốn quăn uổng lắm nghen cháu. Đời cháu về sau nên người là ít nhiều nhờ vào mái tóc nầy.

Tôi chẩu mỏ:

– Ba nói con giống mẹ cũng đẹp lắm mà ông ngoại?

Ông ngoại tôi đang cười vui rạng rỡ với bà ngoại, bỗng nét mặt ông chợt buồn héo hắt. Ông bà lại nhớ mẹ tôi! Nhớ đến đứa con gái yêu quý đã qua đời của mình lúc hãy còn son trẻ. Tôi không biết làm gì, nói gì để không khí bớt đè nặng mọi người. Bà ngoại tôi đổi giọng quay sang bà vú:

– Vú hãy đem đồ đạc vào buồng cất đi. Vẫn cái buồng của vợ chồng thằng Nhàn. Vú quét lau bụi bặm và lấy chiếc chiếu bông trên kệ ra trải. Lâu quá, tôi không vào buồng đó. Vì mỗi lần vào tôi nhớ đến mẹ cháu nên không vui.

Nhà ngoại tôi xây cất trên khoảng vườn rộng lớn hơn một mẫu đất hương hỏa của ông cha để lại. Trước nhà là bờ sông Mỹ Đức Đông, một nhánh nhỏ của dòng Tiền Giang. Hông nhà cạnh vàm rạch Ông Hưng. Rạch Ông Hưng là con rạch nhân tạo, được Tổ Tiên chúng tôi đào từ hồi nào không ai biết rõ ràng. Nhưng con rạch nầy dài lắm nó băng qua các làng lân cận khác như làng Mỹ Thiện, Hoà Khánh, xẻo Muồng, Ngã Sáu, Kinh Điều rồi đi vào Đồng Tháp Mười và các tỉnh vùng Hậu Giang… Nơi đây là một trong những làng trù phú nhứt của quận Cái Bè trước kia, giờ đã thuộc về quận Sùng Hiếu.

Nhà ngoại cất theo kiểu xưa. Ba gian hai chái. Nền đúc, lót gạch tàu. Mặc dù gạch không được lau chùi hàng ngày nhưng quét nhà bằng chổi bông cỏ nên rất sạch sẽ lộ màu ruột đu đủ xiêm lúc nào cũng sạch bóng. Ba giàn cửa lá sách bằng gõ. Cửa chánh và hai cửa phụ trái và phải ở hai bên. Mỗi cửa cách nhau chỉ mỗi cây cột. Bên ngoài nhìn vào ngoại cho kê ba bộ ván cẩm lai song song với nhau. Trên đầu mỗi bộ ván là bàn ngang, cao và dài chừng phân nửa bộ ván. Thường ngày cúng giỗ hay ngày Tết, ngày đám tiệc lớn mới có khách khứa đông ngôi đầy cả ba bộ ván, và cửa được mở toang ra hết. Còn bình thường, ngoại mở bộ cửa bên cánh trái, để tiếp đôi người khách hoặc ông bà ngồi chuyện vãn với con cháu trong nhà. Nhứt là mỗi khi gà gáy canh năm thì ông bà ngoại thức dậy uống trà, ăn trầu nói chuyện trong gia đình về các con, hoặc kể cho nhau nghe những chuyện vui buồn xảy ra hàng ngày mà ông bà biết hoặc nghe được. Sau bộ ván gõ ở giữa là lối đi ngang rộng cách chỗ thờ chánh được bao bọc bằng ba tấm vách gỗ thành hình chữ U. Nơi để thờ là chiếc tủ thờ bằng gỗ trắc lớn, chiếc tủ được cẩn xa cừ nhiều hình tỉ mỉ tinh xảo rất đẹp. Ánh xa cừ sáng ngời dưới ngọn đèn Huê Kỳ. Hai ngọn hồng lạp lớn, cắm trên hai chưn đèn của bộ lư đồng, lúc nào cũng được chùi lau và đánh bóng. Sau hai chưn đèn là hai chò cây ba chưn bằng gõ nặng chắc để giữ vững hai dĩa quả tử lớn bằng cái sịa. Kế hai dĩa trái cây là hai bình bông bằng sứ mà ông ngoại tôi đã đặt mua từ nhà làm đồ sành đồ sứ nổi tiếng mãi tận Lái Thiêu thuộc tỉnh Bình Dương. Bên trong chiếc tủ thờ nầy là chiếc bàn chân quì thấp, rộng chiều ngang cặp sát hai lối đi nhỏ hai bên hông, chỉ rộng đủ cho một người đi lại để mang lễ vật cúng và khi nhà có đám tiệc, hay cúng giỗ. Bàn được đặt sát vách, trên vách có tấm liễn lớn viết chi chít những chữ Nho. Dưới tấm liễn có ba cái chén kiểu, úp trên ba cái dĩa và ba đôi đũa dựng đứng xiêng trên vách cạnh bên chén dĩa. Một bình trà và ba cái tách có vẽ hình Bát Tiên màu xanh. Mỗi khi châm nước nóng vào thì men nó trong ngần và ửng hồng.

Sau bộ ván gõ bên trái và bên phải cũng có tủ và bàn thờ nhưng không lớn bằng nơi thờ phượng ở giữa. Cúng trà và đốt nhang ngày hai lần sáng sớm và chiều tối. Bên trái, sau tấm vách là buồng gói kiên cố. Trong buồng tối thui như mực tàu, vào đó mà không có đèn sẽ không sao thấy đường mà đi. Buồng nầy nghe nói ngày xưa của má và bà ngoại tôi. Khi mấy cậu tôi lập gia đình vào ngày cưới rước dâu về cũng ở phòng đó. Và ngoại làm cho má tôi căn phòng sát vách nhưng lối đi cặp sau vách bàn thờ chánh, nối liền ra phía nhà ngang và đi xuống nhà ăn giáp liền với nhà bếp. Cửa buồng ra vào bằng lối nầy. Chái bên hông là một căn nhà gỗ cũng lợp ngói vách ván bổ kho như nhà lớn. Đó là chỗ dùng để chẩn mạch, hốt thuốc cho bịnh nhân lui tới, và là chỗ ở cho kẻ ăn người làm trong nhà. Cạnh nhà chẩn mạch hốt thuốc của ông ngoại là con rạch đào, từ sông vào dài chừng vài ba chục thước, ngang chừng bốn thước để xuồng ghe bịnh nhân dễ ra vô, với cây cầu nhủi làm bằng xi- măng rất kiên cố, hai người đi vẫn còn rộng. Rạch nầy được ăn thông với ao nuôi cá. Bên dưới bờ cảng là ống bọng được lót vĩ sắt, cá vào thì được mà không thể ra. Trên ao cá là sàn lãn cũng xây bằng xi măng nửa trên mặt đất, nửa gie ra ngoài rạch. Cạnh sàn lãn là hai hàng lu mái đầm chứa nước được lóng phèn trong vắt. Vườn sau nhà ngoại trồng nhiều cây ăn trái, mận, cam, quít đường, nhãn, chuối cau, chuối già, chuối xiêm… Liếp trầu vàng gần hầm nuôi cá. Chủ yếu ông bà ngoại tôi trồng cây trái để có ăn, không phải mua chớ không phải để bán. Nhưng khi được mùa, bà cũng bán khá nhiều chớ ăn làm sao cho hết? Ngoại tôi cũng có nhiều ruộng của ông bà cố để lại. Nhưng khi cậu Hai có gia đình, ông bà ngoại cho ra riêng đã chia một phần cho cậu mợ. Còn lại thì sang nhượng cho người khác vì không ai canh tác.

Hông trái nhà ngoại cũng có con rạch do người đào thông đến cuối cuộc đất giáp ranh với ruộng lúa ngoài đồng của người ta. Con rạch nầy là ranh chia giữa đất vườn ngoại với vườn đất bác Năm Ghè. Ông nội của bác Năm Ghè là người Tàu lai theo cha ông về đây cưới vợ và lập nghiệp mấy đời rồi. Bác Năm Ghè không còn chút gì giống người Tàu, vì bác lai từ đời ông cố sang đời ông nội, đời cha, rồi bây giờ đến đời bác.

Người Tàu thường không ăn mắm, nhưng bác Năm Ghè ăn đủ loại mắm: Mắm thái trộn với thịt ba chỉ luộc và đu đủ bào để ăn với bún và rau ghém. Mắm cá sặc kho người ta còn gọi là mắm và rau. Cách làm hơi cầu kỳ một chút. Mắm sặc để nước vào nấu cho sôi, cho thịt mắm hòa tan trong nước. Người ta chắt vào rổ dầy lấy nước bỏ xương, rồi đem kho với cà tím, thịt ba rọi xắt mỏng, cá lóc non cắt thành khứa dài, hoặc nấu với cá rô don, hay cá bông lau, tôm… sả ớt bằm nhỏ khử mở trước khi để vào nồi mắm kho. Nêm nếm cho vừa ăn. Mùi mắm kho theo gió bay khắp xóm. Mắm kho ăn kèm với bông súng, chuối cây xắt ghém, rau dừa, rau nhút, cần nước, rau đắng đất, rau đắng biển, đọt xoài, rau mác (loại mọc trên đất sình, chớ không phải thứ rau mác trôi sông), đọt chiết, hẹ nước (loại cỏ dài cả sải tay mọc dưới đáy mương, đáy đìa). Còn ăn cặp với các loại rau sống: Húng cây, húng nhủi, dấp cá, tía tô, kinh giới, lá huế, ngò tây không thể thiếu.

Con mắm cá lóc rửa sạch, cắt khúc chưng với thịt heo bằm ướp đường tiêu cà bể hai bể ba. Thịt bằm ngoại đem lót một lớp dưới đáy tô, để con mắm nằm lên, dở bụng con mắm ra để thịt bầm vào bụng mắm đậy lại, rồi phủ thêm lớp thịt bên trên mình mắm. Rắc thêm tiêu, gừng xắt chỉ, ớt hiểm chín đỏ xắt lát mỏng rải trên mặt (tùy ý thích của mỗi người). Đem chưng cách thủy. Cơm gạo nàng hương trắng bông còn nghi ngút khói, ăn với mắm chưng thịt kèm theo dưa leo, chuối chát, đậu bắp luộc. Ôi bụng đã no cành rồi mà miệng vẫn còn muốn ăn nữa!

Người nông phu làm ruộng ngoài đồng họ thường ăn đệm buổi trưa bằng mắm sống vói khoai lang nấu. Còn có món mắm đem bằm chung với thịt heo, trộn thêm hột vịt ướp với đường tiêu chưng cách thủy. Mắm nục, mắm nêm pha với giấm đường, ớt, khóm bằm làm nước chấm ăn với thịt bò nhúng giấm, thịt bò nướng… Mắm ruốc xào thịt heo và sả ớt. Mắm ruốc ăn với me non, xoài tượng sống… Bác Năm Ghè thích ăn tất cả các loại mắm. Bác ăn nước mắm chớ không ăn nước tương như mấy người Tàu chính cống. Bác cũng chẳng biết ất giáp chi về chữ Tàu hay nói tiếng Tàu như những người Khách Trú khác. Ấy vậy mà trong làng ai ai cũng gọi bác là chú Tàu Ghè, hoặc ông Tàu Ghè.

Dưới bến sông nhà bác có cây trứng cá tơ, thân lớn hơn cườm chân. Lá to, dầy và xanh biếc, khi cầm lấy thì nó mướt như rờ vào nhung, nhưng sau đó cảm thấy rít tay. Cây trứng cá nầy không sai trái nhưng trái to gấp đôi trái trứng cá thường. Trứng cá trổ bông mỏng mảnh từng chùm. Bông trứng cá màư trắng đục như bạch vân, như the trắng. Trái trứng cá non, xanh cẩm thạch, trái già ngã màu gạch tôm hay màu đỏ. Trái chín mọng to gần bằng trái chùm ruột. Càng chín màu trứng cá càng đỏ thẵm không thể so sánh với một màu đỏ nào. Mùi trứng cá thơm dễ chịu, không nồng nàn như mùi nhãn, không hắc như mùi sầu riêng. Ở dưới đất nhìn lên thấy trái trứng cá tròn vo, ở giữa có chấm đen trông thật hấp dẫn. Cây trứng cá nầy lại nằm chắn ngang ở ngoài đường đi gần cây cầu từ đất ngoại tôi bắc ngang qua con rạch nối liên đường lộ đất nhà bác Năm Ghè. Những trái trứng cá chín mọng rất khêu gợi những người qua đường thì làm sao không lôi cuốn lũ trẻ nhỏ trong xóm thường rủ rê đến đó hái.

Ở thôn quê trứng cá không ai bán bao giờ. Thân cây cũng chẳng làm gỗ được và cũng không làm củi tốt, cũng không ai trồng. Thường thì chim ăn trứng cá, ị bậy nên nó tự mọc lên, sống theo mưa nắng của đất trời. Không ai nhớ hoặc rảnh rang đâu mà tưới hoặc chăm sóc cho nó. Bác Năm Ghè sợ trẻ nhỏ leo trèo hái trứng cá nếu rủi ro ngã té thì bác sẽ mang họa nên bác thường hay la ó không cho chúng hái. Chúng ghét lắm và thù thâm, nghĩ rằng bác Tàu già keo kiệt có trứng cá chín để rụng đầy đất mà không cho hái. Cho nên chúng thường gọi lén bác là “chú chệt Ghè”.

Nhà trước của bác Năm Ghè dùng để bán hàng xén cho dân trong xóm, trong làng. Bác bán hằm bà lằng xắn cấu, không có nhiều như hàng hóa bán ở các cửa hàng ở chợ, hay ít thứ mà nhiều như ở các vựa. Gần như thứ gì bác cũng có bán, nhưng mỗi thứ chỉ một ít thôi. Bác bán: dầu hôi, nước mắm, nước tương, tương hột, chao, rượu trắng, thuốc rê, giấy quyến để vấn thuốc hút, thuốc xỉa, đường tán, đường hũ, đậu đen, đậu xanh, đậu nành, khô cá đuối, khô các khoai, khô mực. Những món nầy thường bán cho mấy ông bợm nhậu mua về làm mồi nhâm nhi với vài chung rượu đế với bạn bè. Nhang, đèn, giấy tiền vàng bạc. Cốm chuồi, kẹo đậu phọng, bánh Tây. Còn kẹo gừng và bòn bon là loại kẹo bọc giấy kiếng trong đủ màu: xanh, đỏ, tím, vàng… đựng trong thùng kiếng luôn gợi thèm cho trẻ con lửng thửng theo sau mẹ đến mua chút ít đồ cân thiết về dùng ngay.

Con bác Năm Ghè có anh Phón. Anh mới cưới vợ năm rồi. Vợ anh là chị ba Khỏe con ông Hai Súng ở xóm trong. Anh Phón và bác Năm Ghè trai đi bán xuồng hàng từ lờ mờ sáng đến tối hù mới về. Ghe bán hàng dọc theo các làng xã lân cận trong cầu lộ và theo các con kinh, nơi dân làng trồng toàn rẫy và ruộng lúa. Chị Xừ Chín hai mươi tuổi vẫn còn cắt tóc bum bê. Sau đó có người làm mai mối chị được gả cho con chú Chanh chủ tiệm tương ở Cái Bè giàu có lắm. Anh Cẩu, chị Hía, con Cẩm Lình và mấy đứa nhỏ lít chít nữa tôi không nhớ tên. Bác Năm Ghè gái thì ốm teo, trắng xanh lúc nào trên đầu cũng đội cái khăn choàng hầu sọc vằn. Bác gái là người chi thu tiền bạc trong gia đình và năm nào cũng nghe bác đẻ con. Mọi việc trong nhà từ cơm nước, giặc giũ đến chăn đám em út đều do chi Xừ Chín cả. Khi chị Xừ Chín đi lấy chồng thì bác cưới vợ cho anh Phón. Bây giờ mọi việc lớn nhỏ trong nhà đều do cô dâu cả là chị Phón quán xuyến hết.

Nhớ năm xưa, lúc còn nhỏ về thăm ngoại, tôi thường ra bờ rạch bên nầy, nói chuyện hoặc giỡn đùa với Cẩm Lình con bác Năm, nó thường từ bờ rạch bên kia chạy sang đây. Hôm nào giận nhau thì nó ngồi bên kia, tôi ngồi bên nầy bờ rạch nhìn qua. Có hôm thì giành chơi, cãi lộn rồi chửi lộn với nhau. Thật ra tôi và nó không đứa nào biết chửi là gì, cứ bắt chước người lớn nói lái. Cẩm Lình chửi tôi:

– Ê, Thể Hà thấy ghét! Mầy mà tao ta… tao ta mầy mà…

Tôi không biết nó nói gì cũng bắt chước nó nhái lại:

– Cẩm Lình tao ta mầy mà…mầy mà tao ta…tao ta…

Hai đứa la rảng cả họng như mấy con vịt tàu ở dưới nước. Chừng ấy mấy chữ đó thôi, hai đứa cứ nhái đi nhái lại om sòm. Một hồi vào nhà tôi thỏ thẻ cho vú nghe. Vú cười bảo rằng:

– Mai mốt Cẩm Lình có chửi lộn với cô Ba, cô Ba cứ nói thế này: “Chị em tao như bông hoa nở, chị em mầy mắc cở lêu lêu” Hoặc “Chị em tao như bông hoa lài chị em mầy khóc hoài hu hu. Chị em tao như bông hoa lý, chị em mầy xấu xí khó ưa…”.

Tôi khoái chí trong bụng, hôm sau ra bờ rạch rủ cẩm Lình chửi lộn. Tôi dùng đúng mấy câu vú dạy. Trong lòng chưa hết hả hê mình được hơn thì bên con Cẩm Lình có anh Cẩu, chị Hía và mấy em nó nhào vô ăn có, chửi tôi túi bụi ở bên kia bờ rạch: “Chị em tao như bông hoa bụp, chị em mầy như cục cứt khô. Chị em tao như bông hoa lài, chị em mầy tao xài tao chơi. Chị em tao như bông hoa nở, chị em mầy như cục mỡ heo. Chị em tao như tiên giáng trần, chị em mầy ngồi gần hôi tanh…”

Bị bọn nó hùa nhau chửi tôi vừa sợ lại vừa tức chạy vào ôm vú khóc òa tức tửi nói với vú: “Con Cẩm Lình xấu quá! Nó rủ anh chị em nó chửi con, con không thèm chơi vói nó nữa đâu…”.

Thế rồi dòng đời cứ lặng lẽ trôi. Tôi theo ba tôi nơi nầy nơi nọ vì công ăn việc làm của ông. Cuối năm Đệ tứ về thăm ngoại tôi mới hay Cẩm Lình lấy chồng người Tàu lai buôn bán ở thành phố Vĩnh Long. Nơi chúng tôi năm xưa thường chạy giỡn, nhảy dây, đánh đủa… giờ đây nơi đó được ngoại cho trồng những bụi chuối già xanh lá chen lẪn những cây cam mật sai quằn trái.