← Quay lại trang sách

Chương 9

Ba tôi hai năm nay yếu nhiều. Bịnh gan của ông tái phát. Trên làn da ông có nhiều đốm như bị ma chó cắn bầm đen. Tôi lo nhiều cho sức khỏe ba tôi, nhưng không biết phải làm gì, chỉ nhắc ba uống thuốc, nghỉ ngơi, bớt làm việc…

Ba lo tôi không chịu đi xa tiếp tục học hành vì không ai hôm sớm bên ông. Sau cùng ba tôi quyết định xin hưu trí, bán nhà về làm quản lý cho bảo sanh viện của cô Hai tôi ở Mỹ Tho, để có chị có em đùm bọc lẫn nhau. Cô Hai tôi mừng lắm, vì đó là sự mong muốn của cô từ lâu. Cô chỉ có ba tôi là em, và tôi là cháu ruột thôi.

Cô Hai rất chu đáo, bảo thợ làm cho ba tôi căn phòng lớn trong nhà cô có lối đi và cửa riêng biệt. Kế phòng của ba là phòng riêng của tôi để tôi thỉnh thoảng về thăm hoặc ở trong dịp nghỉ hè cho được tự nhiên. Người ăn kẻ ở, nhân viên phụ việc của cô không ai ra vào luông tuồng làm phiền đến cha con tôi.

Tôi tưởng bở! Luôn mơ mộng và nghĩ rằng có bằng Tú tài toàn phần thì cửa các trường Đại học đào tạo nghề sẽ rộng mở chào đón tôi như: Trường Sư phạm, Y khoa, Nông nghiệp, Thương mại, Quốc Gia Hành Chánh… Bị trợt vỏ chuối trong những lần thi tuyển, tôi đâm nản không thèm thi nữa. Tôi đành phải nộp đơn vào Văn Khoa học như một số bạn cùng cảnh ngộ: “Trên đường đi chưa đến”, ám chỉ một số sinh viên đi học ở Văn khoa để chờ thời như tôi vì chưa vào được khoa chuyên môn nào hết.

Mỉm cười rồi e thẹn một mình khi tôi nghĩ: “Ta đây! Bây giờ cũng như ai. Sinh viên Văn khoa oai phong lắm chớ bộ!”. Tôi đã hạ quyết tâm, ngay bây giờ phải ôn lại các bài vở cho nhuần nhão để thi vào các ngành chuyên môn vào niên khóa tới.

Khi lên Sài Gòn học Văn khoa, tôi ở trong căn nhà rộng thênh thang của cậu mợ Út bỏ trống. Ngôi nhà lầu hai tầng nhưng khiêm nhường đứng bên cạnh các nhà lầu cao chọc trời cho Mỹ mướn. Khuôn viên nhà cậu mợ tôi nằm trên đường Trần Quý Cáp, song song trước mặt là đường Phan Đình Phùng, sau lưng là đường Hồng Thập Tự. Bên trái là ngã ba cắt bởi đường Cao Thắng. Bên phải đổ ra ngã tư cắt bởi đường Lê Văn Duyệt. Nhà tôi ở nằm gần góc đường Trần Quý Cáp và Lê Văn Duyệt.

Chèn ơi, chỗ tôi cư ngụ có đủ tam tứ tiện. Mỗi chiều thứ bảy làm biếng ăn cơm, Thái Vân rủ tôi ra Chợ Đủi ăn nem nướng, hoặc xẹt lại trước rạp Kim Quang ăn cơm tấm bì, sườn, chả, tôm (cơm Tứ Bửu). Có khi chúng tôi đi xe lam ra chợ Sài Gòn ăn bún, hoặc đi xe đạp qua Trương Minh Giảng ăn phở.

Tôi nài nỉ với Thái Vân mấy lần đến ở chung, chớ một mình ở căn nhà rộng rãi cũng thấy lạnh trong những đêm mưa gió. Nó viện đủ mọi lý do và hẹn lần hẹn lửa cho đến nay vẫn còn ở chung với hai người bạn gái trên căn gác trọ ọp ẹp gần sở làm.

Những ngày cuối tuần Thái Vân đến thăm. Hai đứa đi chợ nấu ăn và có khi nó ngủ lại đêm. Sài Gòn với tôi không có gì hấp dẫn. Đường sá chen chúc, nhà lầu cao ốc đồ sộ. Các khu thương mại ồn ào, dập dìu kẻ qua người lại, đa số là dân tứ xứ, đủ mọi thành phần… Khu giải trí rộng rãi, vườn Tao Đàn, một trong những nơi du khách thăm viếng… Sài Gòn cái gì cũng lớn, cũng đẹp, cũng tiện nghi. Nhưng tôi không thích Sài Gòn! Tôi luôn nhớ về quê ngoại, nhớ Cần Thơ nơi mà tôi mài đũng ghế nhà trường thời trung học. Thành phố Cần Thơ nhỏ, đường không dài, các dãy phố không cao, Cần Thơ không có những cửa hàng lớn ở những khu thương xá như: Passage Eden, Crystal Palace… Cần Thơ chưa có vũ trường như Sàigòn nhưng Cần Thơ có nhiều cảnh đẹp và di tích lịch sử ở ngoại ô và vùng phụ cận. Đó là những gì ở Sàigòn hiếm có.

Tôi thương mến Cần Thơ vì Cần Thơ có hai mùa mưa nắng,khí hậu ôn hòa. Cần Thơ có lúa giá vàng, có gạo nàng hương, có gạo nanh chồn hột cơm trong, dẽo trọng trường, trắng hếu hương nghi ngút tỏa theo làn hơi nóng. Tô cơm gạo nanh chồn ăn với nước mắm đồng, uống ly nước trà nóng. Ôi, đậm đà nhớ hoài không quên. Cần Thơ có rau trái xanh tươi mới cắt, mới hái. Cần Thơ có cá tôm nước ngọt từ dưới sông ngòi, đồng ruộng. Nôm, đăng, câu, chài, lưới bắt lên còn nhảy soi sói bày bán ở chợ. Cần Thơ có gà, vịt, chim chóc, rùa, cua đinh, càn đước, ba ba… còn chạy, còn bò, còn lội. Thịt heo, thịt bò tươi rói làm tại chỗ bán trong ngày… Cá đao, cá chim đen, cá chim trắng, cá xạo, cá đối, cá ngừ, tôm thẻ, tôm hùm, sò huyết, mực… từ biển Rạch Giá, Cà Mau bắt lên chở đến nửa đêm để kịp phiên chợ sáng.

Cần Thơ để tôi lưu luyến bởi Cần Thơ êm đêm thấm đậm tình người! Người Cần Thơ thật thà, chân chất, hiền lành, ăn ở có hậu. Đó vốn là bản chất của người dân miền Nam Kỳ Lục Tĩnh. Dân Miền Nam đối xử với nhau có tình, có nghĩa. Cũng là dân làm ăn buôn bán ở chợ búa hàng ngày, họ cũng tranh giành đua chen quyền lợi lỗ lời… Nhưng đa số những người ở miền Hậu Giang trong lòng vẫn còn được cái chất thiên lương.

Giữa năm đó tôi về chịu tang ông ngoại qua đời! Ông hưởng thọ ở tuổi tám mươi. Cái tuổi thọ hiếm có ở trong làng và các làng lân cận. Biết rằng ai cũng một lần vĩnh viễn ra đi, nhưng việc ra đi đột ngột của ông là một đau đớn và một mất mát lớn cho thân tộc. Mấy cậu mợ ở xa đã về cùng ba tôi và tôi. Tôi không phải là cháu đích tôn, nhưng được ông thương yêu chiều chuộng nhứt, có lẽ một phần vì cảnh ngộ cút côi của tôi, vừa lọt lòng thì mất mẹ.

Quan tài của ông ngoại được đặt ở giữa nhà trên. Trên nắp quan tài có ba hàng đèn cầy trắng đốt sáng trưng. Trước quan tài trên chiếc bàn cẩn xa cừ là hình bán thân của ông ngoại chụp vào lúc ông ở khoảng tuổi năm mươi. Có bình bông, lư nhang, dĩa trái cây và mâm cơm chay. Bà ngoại nói cúng chay cho ông ăn khi ra đi vong linh ông sẽ được nhẹ nhàng thanh thản… Giấy tiền vàng bạc được đốt liên tục.

Chiều, ngày hôm sau ông ngoại tôi qua đời, thì con cháu ở xa về đủ. Thầy chùa làm lễ phát tang ngay tối hôm đó. Và trưa hôm sau, đưa linh cữu ông ra phần mộ, ở nghĩa trang gia đình phía côi vườn. Nơi đây, hai kim tĩnh nằm song song đã được xây từ lâu để khi ông bà nằm xuống thì có ngay. Xây hai kim tĩnh nầy là do tiền bạc của mấy cậu và ba tôi chia đều để trả. Coi như đây là sự trả hiếu sau cùng của các con với cha mẹ.

Khi động quan thì có khoảng tám người đàn ông ở rải rác trong làng họp lại mà người ta gọi là nhóm đạo tì, cùng với một người chỉ huy. Chín người nầy đồng phục với nón, áo quần chỉnh tề, gọn gàng trong hai màu đen trắng. Người trưởng nhóm ra hiệu hò hét cúng lạy theo cung cách riêng của họ. Ông thầy chùa tay gõ chuông, miệng đọc kinh đi trước quan tài. Cậu Hai và con trai lớn của cậu, là cháu nội đích tôn mặc áo dài trắng, đầu đội mũ bạc, lưng thắt dây rơm, bưng mâm lư hương và tấm ảnh bán thân của ông ngoại. Tiếp theo là quan tài ngoại được tám người đạo tì kề vai vào đòn khiêng đi. Bà ngoại, con, cháu, rể, dâu, dòng họ, sui gia, chòm xóm theo sau quan tài than khóc ỉ ôi, kể lể thảm thiết.

Sau ngày đám tang ông ngoại thì các cậu mợ ở xa trở về nhà mình. Chỉ có gia đình cậu mợ Hai ở gần đây cùng cha con tôi ở nán lại cúng mở cửa mả cho ông ngoại xong mới về.

Tối hôm qua, bà ngoại dặn bác Sáu gái thức sớm, nấu cơm cho cha con tôi ăn dằn bụng trước khi lên đường. Trên mâm cơm có một dĩa hẹ xào tép, một tô thịt kho xà bần, tô canh canh bầu nấu với cá lóc. Đám ma ông ngoại tôi, đãi ăn ba ngày ba đêm liên tục. Mợ Hai đặt ngoài lò thịt nguyên con heo trắng chở về. Các người đàn bà trong xóm xúm xít kho, nấu, xào chiên… Họ kéo cá nuôi bằng tấm cám ở bờ trầu vàng, mua thêm gà vịt để dọn cỗ đãi khách. Có mợ Ba Thơ và hai người đàn bà hàng xóm đi mua thêm những đồ gia vị cần thiết ở chợ Cái Bè. Tôi lấy mà lạ hỏi ngoại:

– Đám ma mà sao đãi ăn như đám cưới vậy ngoại?

Bà ngồi thẩn thờ, trả lời cho suông với tôi:

– Ở đây nhà nào có đám tang cũng vậy hết. Họ đến thăm chia buồn mình thì mình phải đãi họ ăn uống…

Tôi lại thắc mắc:

– Lạ thiệt, nhà người ta có chuyện buồn mà ở lại ăn uống khề khà thì không thuận mắt chút nào hết.

Ba tôi nói:

– Con có biết không? Ở vùng quê, việc đãi ăn uống ở đám ma coi như cái lệ rồi. Người ta đãi thì mình cũng phải đãi, không đãi thì khó coi lắm.

Bà ngoại tôi tiếp lời ba:

– Nếu mình không đãi sau nầy họ bêu rếu mình keo kiết. Có đám ăn uống xong rồi, họ còn đánh lộn nữa.

Tôi bực mình:

– Trời đất! Có chuyện đó nữa sao? Nếu con là bà ngoại thì con không đãi gì hết chỉ mời họ nước trà, bánh ngọt là đủ rồi! Đám ma ông ngoại lại không chấp điếu nữa thì bà ngại chi. Cho họ bỏ thói quen, thuộc loại hủ tục nầy đi.

Bà ngoại sai người làm vườn hái cho tôi một mớ trái cây nào: cam, cốc, ổi, cùng sa-bô-chê già rám da, mấy trái dừa Tam Quan đã gọt sạch vỏ, nãi chuối sáp nấu chín. Mợ Hai đem cho mấy khứa cá lóc muối sả ớt chiên vàng, một mớ tép chấy với khóm đựng trong hai lon Ghi-gô. Lại còn thêm sáu cái bánh ích ngọt nhưn trắng, bánh ích trắng nhưn dừa ngọt, cùng nửa chục xoài cát đen đầu mùa thẳng da mới hái còn dính phấn trên da và mũ trên cuống. Thím Sáu cẩn thận chất hết vào giỏ mây lớn nặng chình chịch. Nhưng còn thừa mấy trái xoài cát ở ngoài không thể nào nhét vào được nữa. Bà ngoại lấy giấy nhật trình gói từng trái lại chất hết vào bao giấy dầu để chung trong xách quần áo của tôi. Ngoại còn nhét tiền cho, tôi không lấy:

– Ngoại cất tiền đi, đám của ông ngoại bà đã tốn nhiều thứ rồi. Vả lại cậu mợ Ba và cậu mợ Út trước khi đi có cho con tiền rồi.

Bà ngoại đưa cha con tôi xuống xuồng, mủi lòng, bệu bạo dặn dò:

– Con cố gắng học hành, giữ gìn sức khỏe. Ông qua đời rồi nhà chỉ có mình bà sẽ vắng vẻ hơn. Thỉnh thoảng có dịp, nhớ về thăm ngoại nghen con.

Tôi cũng ứa lệ gật đầu:

– Dạ, ngoại giữ gìn sức khỏe, có dịp con sẽ về thăm.

Khi bác Sáu đẩy xuồng ra, ba tôi nói:

– Má lên nhà đi, cúng tuần hai mươi mốt ngày của ba, con sẽ đưa cháu về.

Bà ngoại “Ờ!”, nhưng vẫn còn đứng đó ngó theo cho đến khi xuồng tôi rẽ vào rạch Ông Hưng, bà mới lửng thửng vào nhà.

Xuồng bơi vào rạch Ông Hưng. Hai bên bờ rạch, người ta trồng nhiều loại cây ăn trái: xoài, mận da người, dừa ta, dừa xiêm, chuối, đu đủ trái oằn nhánh. Con nước lớn lé đé bờ màu đục đục lờn vờn phù sa, hèn gì cây trái cỏ hoa sum sê xanh mướt. Gần mé sông bên bãi ô rô có bà đang ngồi câu giật. Cá mắc câu tay bà giật lia lịa không ngừng.

Mới mười giờ sáng mà ánh nắng chói chang gay gắt. Lác đác theo rạch có nhà lá, nhà vách ván bổ kho. Bến nước có người ngồi giặt áo, có người gánh nước tưới cây… Có người chào hỏi ba tôi, và gọi ông bằng dượng út. Xuồng tới cầu Ông Hưng bắc qua Quốc Lộ Bốn, thì bác Sáu cho xuồng cặp sát cây cầu nhũi, xách đồ lên cho tôi. Cha con tôi đứng đón xe bên lề đường. Bác Sáu cột xuồng xong cũng chạy lên. Ba tôi bảo:

– Thôi anh Sáu về đi, để cha con tôi tự đón xe được rồi.

Bác Sáu cười hiền:

– Thím có dặn, tôi phải chờ đưa đồ cho cô Ba lên xe xong rồi mới về, bởi hai cái giỏ của cô nặng lắm.

Ba tôi cười không nói gì thêm, dù có nói thì chắc chắn bác cũng không về, khi chúng tôi còn đứng đây đón xe.

Gió từng chập thổi qua đám lác dưới ruộng bên kia đường nằm rạp xuống. Bầy chim áo dà bay lượn bên đám bông cỏ song chằng tìm mồi. Trời cao vòi vọi xanh biếc. Xa xa, gơn một vài cụm mây trắng mỏng như bông gòn. Gió mát thổi qua không ngừng, nhưng tôi vẫn thấy khó chịu vì hơi nóng hừng hực từ mặt đường nhựa bốc lên. Xe dừng lại, ba tôi lên xe về Mỹ Tho. Còn tôi chờ đón chuyến xe khác đi Sài Gòn.

Vầng thái dương chiếu ánh nắng chói chang làm trán tôi lấm tấm mồ hôi. Chiếc áo bà ba thêu rô-đê màu tím than lỏng lẻo bọc thân hình ốm yếu, trông tôi mỏng dánh cao nghệu với chiếc quần sa-teng đen, dài thêu đục lỗ dưới lai. Tôi đội chiếc nón lá bài thơ quai nhung tím. Trên Quốc Lộ xe vẫn chạy vùn vụt, lên xuống ngược chiều. Xe đò chạy các tuyến đường xa Sài Gòn Lục Tỉnh: Sài Gòn Vĩnh Long, Sài Gòn Cần Thơ, Sài Gòn Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá, Cà Mau… Xe lam, xe tàu mo gắn máy chạy đường gần, năm ba phút có một chiếc. Bác Sáu và tôi luôn đưa tay ngoắc đón xe: có chiếc thì đầy người ngồi kẻ đứng, xe chật ních như nêm cối. Có chiếc thì chỉ đến Mỹ Tho, hay Long An…

Sau khi bác Sáu phụ người lơ xe thảy hai giỏ đồ tôi lên mui, tôi cảm ơn chào bác rồi bước lên xe do người lơ như đẩy tôi lên. Xe chạy Mỹ Thuận Sàigòn chỉ cách cầu Ông Hưng nầy mươi mấy cây số thôi nhưng cũng đã chật nứt. Tôi còn đang ngơ ngác tìm chỗ thì bỗng nghe tiếng ơi ới của ai gọi:

– Thể Hà, Thể Hà đến đây ngồi với mình. Còn một chỗ trống.

Tôi hướng mắt về phía tiếng gọi. Thì ra cô bạn cùng khóa Cán Sự Xã Hội, mà tôi và cô cùng trúng tuyển, học chung gần cả năm rồi. Xe chạy vùn vụt, tôi phải vịn và lần mò đi từng bước một để khỏi bị té vào những người ngồi sát hai bên lối đi. Sau khi ngồi xuống ghế vững vàng, tôi cười chào cô ta và hỏi chuyện:

– Cảm ơn Xuân Hà chỉ ghế cho minh. Mình mới lên hoa mắt thấy toàn là đầu người, nên tưởng hết ghế rồi chớ. Chà, nếu hết ghế, đứng suốt từ đây đến Sài Gòn chắc là mỏi chân lắm! Bạn đi đâu về phải không?

Xuân Hà cười núng đồng tiền trên má thật dễ thương:

– Mình đi thăm gia đình người bạn ở Vĩnh Long. Còn Thể Hà, sao lại đón xe ở giữa đường vậy?

Tôi buồn buồn nói:

– Mình về dự đám tang ông ngoại. Quê ngoại mình ở đó.

Xuân Hà vội nghiêm giọng:

– Thành thật chia buồn cùng Thể Hà. Sao ông cụ qua đời vậy? Có bịnh hoạn chi không?

Tôi trả lời:

– Ông ngoại mình không bịnh gì đáng kể cả. Có lẽ chết vì tuổi già!

Hai đứa nói chuyện nầy chuyện kia nhưng không chuyện nào dính vào chuyện nào cả. Xuân Hà hỏi tôi:

– Thể Hà sống với ba má và anh chị ở Sài Gòn hả?

– Mình ở nhà của cậu mợ đường Trần Quý Cáp. Ông già ở Mỹ Tho. Má mình thì qua đời khi mình còn nhỏ.

Xuân Hà mặt trở buồn:

– Vậy bồ là con một à? Mình cũng gần giống như Thể Hà. Ba má mình qua đời hết rồi, nhưng mình còn có một người anh. Anh mình thương mình lắm nên mình cũng đỡ cảm thấy côi cút. Thể Hà ở chung với cậu mợ hả?

Tôi mỉm cười:

– Cậu mợ mình lập nghiệp ở Nha Trang. Ông bả bỏ nhà trống, mình ở nhờ nhà khỏi phải trả tiền để đi học.

Xuân Hà cười vui vẻ thành thật rủ rê:

– Ở một mình chắc buồn lắm? Hôm nào Thể Hà đến nhà mình chơi. Ba mình chết để lại cơ sở làm ăn. Bây giờ ông anh quản lý kinh doanh. Mình đang ở đường Pasteur với gia đình người quản gia. Vợ chồng họ theo ba mình mấy chục năm rồi! Ông anh mình có nhà ở Trần Hưng Đạo gần chỗ làm ăn của ảnh. Nhưng ngày nào ảnh cũng ghé qua thăm và có khi ở Iại đêm.

Khóa học chúng tôi có hai mươi bảy người, dương thịnh âm suy nên chỉ có năm nữ. Buổi học đầu, các giảng viên và các bạn đồng khóa chú ý đến chúng tôi ngay. Và cũng buổi học đầu tiên, tôi quen với cô. Bởi cô có khuôn mặt điềm đạm sáng sủa, mày thanh mắt to. Đặc biệt nhứt là miệng cô cười đôi mắt cũng cười. Theo số thứ tự trong lớp, tên họ tôi Huỳnh Thị Thể Hà trước, rồi kế đến tên họ cô là Vũ Thị Xuân Hà. Vả lại hai ghế chúng tôi ngồi sát bên. Bọn con trai xì xò với nhau: “Hai con bé nầy cái tên dễ thương như người”. Tôi nghe được mỉm cười e thẹn không nói. Xuân Hà liếc xéo con mắt có đuôi, nụ cười đời nửa miệng, kênh mặt. Ý cô ta muốn nói với mọi người trên thế gian nầy biết rằng: “Đó là lẽ đương nhiên, sự thật thì đúng như vậy mà lị!”.

Tôi thì sung sướng hãnh diện âm thầm, ngấm ngầm chấp nhận chớ không có thái độ lộ liễu như cô. Nhưng xét cho cùng thì Xuân Hà có cử chỉ đó cũng rất xứng đáng. Xuân Hà đã đẹp thì chớ mà còn sang trọng với cử chỉ khoan thai đài các nữa. Mỗi ngày cô diện một bộ đồ đúng thời trang bằng loại hàng đắt tiền chỉ con nhà giàu mới mua sắm nỗi. Cô ta lái chiếc Honda dame màu xanh nhạt đi học, đi chơi hàng ngày. Khi trời mưa thì có xe hơi nhà và tài xế đưa đón. Nhiều hôm mưa tầm tã, cô kèo nèo để tài xế cô đưa tôi cùng về. Nhưng tôi nhứt định từ chối. Chơi với cô thì chơi, thân thiện với cô thì thân thiện nhưng tôi luôn giữ kẻ. Bởi tôi là đứa từ nhỏ phải tự chăm sóc lấy mình, ít khi ỷ lại hoặc nhờ vào người khác. Tôi biết đôi lúc như vậy là khắc khe, là cố chấp, là bất công với chính mình. Nhưng tôi không bỏ được. Tôi không muốn người chung quanh nghĩ mình lợi dụng bạn bè, hoặc “thấy người sang bắt quàng làm họ… ” thì khó nghe quá! Mắc cỡ chết đi được!

Tôi và Xuân Hà có nhiều điểm giống nhau. Giống ớ vóc dáng mảnh khảnh, cao ráo, nước da trắng, hay ăn quà vặt, thích xem phim, ưa dạo phố. Khi vớ đến cuốn sách hay thì cả hai đọc không ngừng nghỉ quên cả ăn uống.

Chúng tôi không giống nhau ở chỗ: tôi trắng xanh, còn cô trắng hồng. Ra khỏi nhà là tôi luôn mặc áo dài. Còn cô chỉ diện đồ tây. Tóc tôi dài, tóc cô cắt ngắn như con trai. Tánh tình cô cởi mở phóng khoáng với các bạn trai cùng khóa tự nhiên như với bạn học gái. Còn tôi thì cười nhiều hơn nói, cẩn thận, rụt rè. Cô ta tháo vát, lanh lợi, dễ dàng thích ứng với mọi hoàn cảnh.

Cả hai thích nghe nhạc. Dù cả hai ghét loại nhạc điếc tai, điếc đít, nhưng tôi thích nhạc tình cảm rất Việt Nam, qua các giọng ca: Thanh Vũ, Duy Khánh, Anh Khoa, Nhật Trường, Hoàng Oanh, Sơn Ca, Xuân Sơn, Khánh Ly. Còn Xuân Hà thích nhạc thính phòng của Mỹ, qua những giọng hát mơ màng, uể oải, man mác nghe buồn ngủ muốn chết.

Xuân Hà có mắt, mũi, miệng… đẹp bình thường. Nhưng nhìn chung thì mặn mà duyên dáng, mặt mày cô sáng sủa, thông minh có duyên ngầm. Cô có cử chỉ, dáng điệu cao sang, thanh thoát. Cô không điệu đà, không uốn éo, không sửa dáng đi cho uyển chuyển, không sửa giọng khi nói chuyện. Dáng cô đi đứng chẫm rãi, thong dong, cô không nắn nót nụ cười. Cho nên cô có vẻ đẹp tự nhiên.

Đứng gần cô, tôi cảm thấy mình quê mùa, kiểu quê mùa của cô gái ngoại ô tỉnh lẻ. Tôi không dám thảo luận chuyện đời, chuyện thời cuộc. Tôi không dám cười thành tiếng, tôi gò giọng nói tuy không mềm như nhung, không mướt như lụa, không nhẹ như bông, không ngọt như mật, nhưng bớt phần uốn éo kéo dài lê thê, bớt nhão nhẹt. Tôi biết mình là đứa con gái từ bé được ba tôi, ngoại tôi, cô Hai tôi, vú tôi cưng chiều. Tôi sợ Xuân Hà biết tôi là con cưng, con nuông chiều. Tôi sợ cô ta biết tôi ít có bạn bè, chưa tiếp xúc với giới thượng lưu. Eo ơi! Tôi sợ đủ thứ. Cho nên khi có dịp đi đâu chung với cô ta, tôi luôn chọn màu áo nhu nhã, tôi trang điểm phơn phớt. Thái Vân biết tẩy của tôi trề môi, nói: “Đồ khùng! Mầy tưởng nó công nương con của hoàng thân quốc thích, hay là tôn nữ quận chúa chăng? Mầy quên rằng mầy nhõng nhẽo một cách rất dễ thương đầy thương yêu trìu mến với người mầy thương. Mầy hồn nhiên gây vui vẻ và thiện cảm với mọi người, bộ mầy không biết hay sao? Mầy bắt chước liệu có giống in như nó không? Mầy sống bằng cuộc đời Thể Hà, hay bằng cuộc đời của Xuân Hà?”.

Còn tôi? Nghĩ đến thêm thẹn với chính mình! Tôi mỉm cười nhiều hơn nói. Lại ít khi trò chuyện với những người con trai bên ngoài cũng như các bạn thanh niên cùng khóa ngoài những chuyện học hành bắt buộc phải tiếp xúc. Tôi không cởi mở, không phóng khoáng, cười đó, khóc đó một cách dễ dàng như cô.

Tôi e ấp, kín đáo, suy tư nhiều hơn hành động. Mặc dù bây giờ xa nhà và sống ở Sàigòn hoa lệ. Cái gì cũng có thể xảy ra. Người dân thành thị bạo dạn quá, thực tế quá, đôi lúc hóa vô tình… Người thành phố mà sống trong bổn phận và trách nhiệm của họ, họ không làm gì liên lụy, làm phiền đến người khác thì quá tốt rồi.

Chúng ta không thể đòi hỏi ở họ nhiều hơn. Đôi lúc hai nhà ở khít vách mà chẳng ai biết ai vì nhà ai nấy ở, cơm ai nấy ăn, chuyện ai nấy lo… Tuy ở cùng xóm, nhưng họ không thân thiện như người dân miền quê có nghĩa có tình.

Tôi nghĩ rằng dù cho mười năm sau nữa tôi cũng không thể nào lanh lợi, bặt thiệp, khôn ngoan bằng Xuân Hà. Mẫu người của cô rất thích hợp với trào lưu tiến hóa. Có lẽ cô sinh ra và lớn lên trong một gia đình dồi dào tiền tài danh vọng. Nên niềm hạnh phúc hiện trên mặt, và trong lời ăn tiếng nói giọng cười phơi phới hào sảng của cô. Cô đến đâu như mang niềm vui đến đó cho mọi người quanh cô. Tôi cũng muốn mình như cô, nhưng tôi không làm được. Tôi âm thầm cười vì cảm thấy sự suy nghĩ vơ vẩn của mình. Mỗi người có mỗi hoàn cảnh và mỗi cá tánh khác nhau chớ, nếu tánh tình mình như cô ấy thì đâu phải là Thể Hà nữa phải không? Con dịch tể Thái Vân coi vậy mà thạo đời hơn tôi.

Bỗng Xuân Hà khều tôi, hỏi:

– Đến ngã ba Trung Lương rồi, bồ muốn mua chuối ép, mận hồng đào hay mua chi không?

Tôi vội trả lời:

– Thật lẹ quá! Con người như chim bay, chúng mình vừa mới ờ trên kia bây giờ đến đây rồi. Cảm ơn Hà, hai giỏ xách mình đủ nặng, mình không xách được nỗi nữa đâu.

Xe ngừng hẳn cho hành khách xuống, lên. Hai bên lộ hướng về Bắc Mỹ Thuận và hướng lên Sàigòn ờ ngã ba Trung Lương có nhiều trại, nhiều lều dựng lên để bày bán trái cây, bán các món ăn sổi cho người qua đường ăn no bụng hoặc mang theo: bánh mì thịt, bánh bao, xói mặn, bánh ích, bánh tét… với những món ngọt khác có Cốm, kẹo chuối, mứt dừa, bánh tráng ngọt, bánh phồng khoai, bánh tổ, chuối xiêm ép phơi khô vàng tươi còn tươm mật được bọc giấy kiếng trong vắt. Nhiều loại trái cây mới hái da còn phấn trắng, cuống còn đọng mủ, lá xanh mượt: mận hồng đào, xoài, ổi, xơ-ri, long nhãn Vĩnh Kim, cam, quít đường… đã đựng sẵn trong giỏ có tay xách. Chỉ cần trả xong giá cả, người mua xách giỏ ngay, không phải mất thì giờ sang sớt qua túi, qua rổ, hay qua thùng khác.

Những quán ăn cho khách qua đường dừng chân nghỉ xả hơi có phòng vệ sinh và nơi rửa tay rửa mặt rất thoải mái. Những người chủ quán ở đây thường dùng căn trước nhà họ để buôn bán, còn căn sau cho gia đình ở.

Nhớ lúc mới dời nhà về ở Mỹ Tho, hôm nào chiều đẹp trời, cha con tôi thường đạp xe ra đây ăn cơm. Tôi thích ngồi bên cửa sổ ngắm hoàng hôn xuống trên ruộng đồng bao la. Gió chiều hây hẩy, tàu lá chuối xiêm trồng dọc theo bờ đi rẽ sang bờ mẫu xuyên qua các cánh đồng các rẫy dưa, cà, rau cải để vào thôn xóm. Nông dân canh tác, biến ruộng thành những đám rẫy chen chúc để có lợi tức thêm cho gia đình sau mùa lúa đã gặt trong khi phải chờ đến mùa tới không phí bỏ đất trống.

Trời chiều, ráng đỏ ở chân trời xa hướng tây. Những tia nắng dìu dịu trải dài trên ruộng đất, cỏ cây. Bầu trời cao thăm thẳm xanh ngắt không gợn một áng mây. Dưới những cánh đồng lác đác người nông phu, kẻ thì tưới rau cải, kẻ đắp bờ, lên liếp, bắt sâu, vô phân, nhổ cỏ… Có những kẻ gánh những thúng cà chín đỏ, đội những thúng khoai tim tím, bưng những rổ cải xanh tươi, non nhẫn, vác trên vai quày chuối chín bói hườm hườm nửa vàng nửa tái tái, nửa xanh xám bạc bạc… Đó là những huê lợi của mình thu hoạch trên mảnh đất nhà. Lòng họ vui tươi thanh thản trên đường trở về với những câu chào hỏi, những mẫu chuyện vui ngày ngày xảy ra trong thôn xóm. Vang vang những tiếng hát hò của các anh chàng thanh niên cảm khái tình quê dưới bóng chiều, cùng tiếng mục đồng chạy giỡn ơi ới gọi nhau…Họ lác đác đi trên bờ mẫu, trên ruộng đồng để trở về sum họp trong bữa cơm chiều hạnh phúc bên cha mẹ, vợ con không bợn âu lo sau ngày nắng mưa cày sâu cuốc bẫm… Trong mắt trong lòng cha con tôi, đây là một bức tranh thiên nhiên sống động.

Chợt Xuân Hà hỏi tôi:

– Thể Hà uống nước mía không? Nước mía ở đây ngon hơn nước mía ở góc Chợ Bến Thành nhiều. Uống nghen?

Tôi vội trả lời:

– Cảm ơn, Xuân Hà uống đi, mình vừa ăn uống xong trước khi rời nhà. Uống nữa sợ mắc tiểu phiền lắm.

Xe rời Ngã Ba Trung lương. Xuân Hà uống xong bọc nước mía, quăng bịch không xuống mặt đường, khép mắt khít như cố tìm giấc ngủ. Tôi suy nghĩ lung tung đủ mọi chuyện đã xảy ra trong lúc tôi còn bé thơ cho đến bây giờ. Dòng đời cứ êm ả trôi. Nhưng trong tíc tắc của kim đồng hồ có biết bao nhiêu chuyện, biết bao nhiêu sự việc xảy ra biết bao nhiêu thay đổi trên thế gian nầy. Tôi chép miệng thở dài!

Bỗng dưng tôi nhớ đến bà vú, vội mở bóp tìm ra mảnh giấy nhỏ mà hôm qua ở dưới nhà ngoại, ba đưa cho tôi bảo đó là giấy ghi địa chỉ của vú mà tháng trước cô tôi đi Sài Gòn bất ngờ gặp bà ở chợ Bến Thành. Bà vú biết tôi đang ở Sài Gòn học thì mừng lắm, nên dặn dò cô nhớ trao địa chỉ cho tôi để có dịp tôi đến thăm bà. Bà còn cho biết hiện giờ đang sống với người con trai. Bà cũng xin cô Hai cho địa chỉ của tôi, nhưng cô tôi bảo với bà để tôi đến thăm bà thì tiện hơn.

Bà vú đâu phải là một người nghèo cần phải đi ở mướn. Theo tôi được biết, ba má anh chị em bà ở làng Mỹ Lương, cũng con của gia đình gốc gác phong lưu dư dả và có tiếng tăm trong làng. Bà lại được ra tỉnh thành học. Đó là một việc hết sức hiếm hoi cho người phụ nữ thời bấy giờ. Người phụ nữ thời đó hầu hết được cha mẹ giáo huấn thành người đàn bà công dung ngôn hạnh để thờ chồng nuôi con… ít ai được đi hoc xa, như cô Hai, như vú. Đến đời má tôi thì tiến bộ, con gái được cha mẹ cho đi ra tỉnh thành học nhiều hơn… Bà vú học nửa chừng lại bỏ học theo đuổi lý tưởng cách mạng kháng Pháp của chồng, rồi lâm vào hoàn cảnh góa bụa. Tự ái với gia đình mình, với gia đình chồng, bà không muốn mọi người nhìn bà với cặp mắt khinh thường, ăn bám nên phải đi ở vú nuôi tôi mười mấy năm trời.

Tôi nghĩ tại sao bà không trở thành mẹ tôi? Bà có vóc dáng dễ nhìn. Không cao, không lùn. Nước da bà trắng. Cử chỉ nhẹ nhàng và phong cách điềm đạm. Nhất là chiếc cổ trắng ngần lòa xòa những lọn tóc mỏng quăn tự nhiên. Bà góa chồng, còn trẻ sống mười mấy năm với chúng tôi. Ba tôi là người đàn ông góa vợ. Hoàn cảnh hai người rất tương xứng để kết thành chồng vợ. Nhưng bà nhất quyết ở vậy thờ chồng. Ẩn nhẫn chờ ngày đoàn tụ với con nên không bước thêm bước nữa. Cô tôi thán phục lòng kiên trinh rất hiếm quý của vú. Tôi cũng tôn sùng kính phục vú ở nhiều khía cạnh khác. Nhưng nếu ai hỏi tôi về tiết hạnh khả phong của vú thì tôi sẽ không biết trả lời sao! Tôi không biết thật sự, vì tôi chưa yêu thương một người khác phái nào, thì làm sao tôi hiểu được tình sâu nghĩa nặng của vợ chồng ra sao mà có ý kiến.

Nhưng tôi chắc chắn rằng khi xưa ba tôi để ý và rất có cảm tình với vú. Người ta nói: “Thần Nữ hữu tâm. Tương Vương vô mộng“. Với trường hợp giữa ba tôi và vú thì phải lái lại rằng: “Tương Vương hữu tâm, Thần nữ vô mộng!”. Cho nên dù ba tôi có ý chi đi nữa cũng đành chịu!