← Quay lại trang sách

Chương 13

Sau ngày dọn nhà chung sống với người yêu đâu chừng hai tháng, Thái Vân mời tôi đến dùng cơm trưa với chúng nó vào chiều cuối tuần đó. Tôi không muốn đi, bởi tôi nghĩ rằng, nếu ở vào địa vị của người yêu nó, tôi sẽ nhìn tư cách của phái nữ trong gia đình tôi rất thấp! Nghĩ vậy, nhưng rồi tôi cũng muối mặt mà đến. Vì tôi thương nó, sợ nó buỒn. Như vậy tôi có ngu dại lắm không?

Ngôi nhà lợp tôn, nằm khiêm nhường trên khu đất nhỏ, trong con đường hẻm được tráng xi-măng. Tôi gõ cửa, một người thanh niên có vóc vạc thanh cảnh, mặt mày vui vẻ bặt thiệp mở cửa:

– Chào cô, xin lỗi cô có phải là ThỂ Hà em của Thái Vân không?

Tôi mỉm cười e dè chào lại:

– Dạ thưa phải. Thưa anh, Thái Vân có nhà không?

Người đàn ông tránh sang một bên nhường lối cho tôi, nhanh nhẹn nói:

– Thái Vân ra tiệm ở đầu hẻm mua thêm chút gia vị còn thiếu sẽ về ngay. XIn mời cô vào nhà.

Tôi bước vào, nền nhà lót gạch tàu, vách tường cũ, nhưng phòng ở, nhà bếp riêng biệt, sạch sẽ gọn gàng. Thái Vân cũng vừa về tới, tươi cười vồn vả hỏi tôi:

– Mầy đến lâu chưa? Hai người tự giới thiỆu với nhau rồi phải không? Thôi, hai người nói chuyện đi nhen, để tao xuống dọn cơm.

Nó tự nhiên quá, làm tôi mất tự nhiên. Tôi đưa cho nó bọc trái cây vừa mua ở chợ:

– Để tao phụ với mầy, tao không biết mua gì nên mua chút trái cây, còn tươi lắm.

Thái Vân cầm bọc trái cây có: quít, nhãn, chôm chôm tróc vỏ, trách tôi:

– Mầy lại nữa, tao đã dặn đừng mua gì rồi mà. Anh Bá à, tụi em xưng hô mầy tao từ thuở nhỏ quen rồi, em nói anh biết để anh không lấy làm lạ.

Cơm dọn lên bàn tươm tất, đầy đủ những món ăn thường ngày: Cá trê vàng kho tộ, rắc tiêu cà. Canh bí rợ nấu với tôm lột vỏ. Dưa leo, cà chua, cần tàu xào thịt bò. Và thêm món cá nhám nướng vàng phết mỡ hành ăn vói nước mắm tỏi và dưa cải chua. Bữa cơm không có những món sơn hào hải vị, nhưng cơm sốt canh nóng cùng những món ăn đạm đạm bình bình không ngọt không lạt hợp khẩu vị nên bắt miệng vô cùng. Chúng tôi vừa ăn vừa nói chuyện. Bạn trai nó nói khi nào chúng tôi hỏi đến, còn thường thì chỉ nghe chúng tôi nói nhiều hơn. Tỏi hỏi nó những sự việc bình thường như nhà mướn có mắc không? Lối xóm có ồn ào không? Giờ giấc có tiện lợi cho việc làm và chợ búa hàng ngày không? Chuyện gì nó cũng trả lời được lắm, tốt lắm. Ăn xong, người yêu nó nói chuyện chừng nửa giờ thì thay đồ ra đi, trước khi đi anh ta thân mật nói với tôi:

– Mấy khi cô Thể Hà đến chơi, mà tôi không ở nhà được tiếp cô trọn vẹn. Thật thất lễ. Bây giờ tôi phải vào trường, tối lắm mới về. Xin lỗi, cô cứ tự nhiên ở nhà với Thái Vân nhé. Chào cô, hẹn gặp lại. Rỗi rảnh, mời cô đến chơi với Thái Vân. Tôi hay đi sớm về trễ. Có cô, Thái Vân sẽ đỡ buồn.

Cái thằng cha nói nịnh nghe phát ghét! Cái thứ đểu miệng nay chỉ có Thái Vân mới tin lời thằng chả thôi, chớ ai mà tin? Anh ta đi rồi, Thái Vân vừa dọn dẹp lặt vặt, vừa nói chuyện với tôi. Tôi hỏi:

– Thái Vân, bộ anh ta không biết sự liên hệ của chúng mình hả?

Nhỏ cười với cặp mắt ướt rượt, chứng tỏ nhỏ ta đang đắm chìm trong hạnh phúc của tình yêu:

– Tao chưa nói cho ảnh biết, để ảnh học hành. Sau nầy nói cũng không muộn.

Tôi ở chơi với nó xế chiều, mượn cớ học bài để về nhà sớm Tôi cảm thấy buồn nản cảnh sống hiện tại của nó. Tôi không biết nên vui hay nên buồn cho viễn ảnh tương lai của nó? Người yêu nó không nói chuyên nhiều với tôi. Nhưng trong ánh mắt của anh ta, tôi nhận thấy con người nầy không thật thà như nó tưởng. Lòng tôi nghe buồn rười rượi. Nó đang xây ngôi nhà cao trên cái nền cát lỏng lẻo!

Trong đời tôi ghét đờn ông xạo bốn phần, đờn ông đía tới bảy phần, đờn ông vừa xạo vừa đía chín phần. Còn tên Cao Nhân Như Bá nầy chưa lòi cái tánh xạo đía ra, nhưng tôi có linh cảm nhờ xạo đía, hắn mới chiếm được trái tim của Thái Vân.

Trời ơi, sao mà cái nhìn của tên Cao Nhân Như Bá nầy có vẻ gian hùng như vậy? Thứ đờn ông như vầy, tôi vừa ghét lại vừa sợ. Còn cái tên Đông kia, nếu xét lại cho kỹ thì hắn xạo giả bộ, đía giả vờ, cái nhìn tinh nghịch chớ không có gian tà. Nhưng tôi vẫn ghét đắng, ghét cay, ghét hoài, ghét hủy. Tôi ghét hắn đã qua, tôi ghét hắn hôm nay, tiếp tục ghét hắn ngày mai, ngày mốt, ngày kia, ghét ngút ngàn suốt kiếp. Tôi tự bảo thầm như vậy!

Sáng thứ hai, tôi vào lớp học. Mặt người nào cũng tươi rói bởi vừa qua hai ngày cuối tuần rảnh rang nghỉ ngơi, giải trí, ăn ngủ. Tôi ngồi vào ghế. Còn đâu chừng năm phút nữa lớp học mới bắt đầu. Thường thì Xuân Hà ngồi kế bên tôi, nhưng hôm nay anh chàng Quách Thiện Hồng đã chiếm chỗ của nó trước khi tôi vào. Nhỏ Xuân Hà vào thấy chỗ mình có người, không nói gì, xuống cuối lớp có mấy chiếc ghế trống. Đến giờ cơm, nó rủ tôi xuống câu lạc bộ. Tôi bảo:

– Xuân Hà đi ăn đi. Hôm nay mình có đem đồ ăn trưa theo.

Nó cười cười rồi nài nỉ:

– Đi mà, đồ ăn trưa thì để chiều về ăn. Hôm nay mình có chuyện muốn hỏi Thể Hà.

Tôi cười miễn cưỡng đi theo cô bạn xinh xắn nầy. Xuân Hà tìm cái bàn, chỉ hai chiếc ghế trống ở góc phòng, kế cửa sổ khuất bên trong, một chỗ yên lặng thường cho đôi bạn gái trai tâm sự hay ôn bài. Xuân Hà vui vẻ mau mắn, hỏi tôi:

– Thể Hà ăn gì? Hôm nay mình bao. Mới được ông anh phát lương hôm qua. Nếu hôm nay bồ không nhận lòng tốt của mình thì vài ngày nữa sạch hầu bao, bồ muốn uống ly nước chanh, mình cũng không còn tiền để mà bao đó nghen.

Tôi cũng vui vẻ trả lời cô ta:

– Được, mình không khách sáo đâu. Nhưng tiếc quá, phải chi gặp bữa ăn chiều là bạn mệt rồi, vì bữa ăn trưa mình ăn rất ít. Mình xin ly cà-phê và dĩa bánh mì nướng đủ rồi.

Xuân Hà ngạc nhiên:

– Chỉ vậy thôi sao? Hèn chi bồ mỏng như lá liễu, dẹp như lá lúa, lá sả.

Tôi cười:

– Chỉ vậy thôi! Bồ cũng có khá hơn mình đâu mà chê người ta!

Hai đứa cùng cười khúc khích. Xuân Hà nói:

– Hôm qua mình ghé thăm bác Hai gái, bác có kể cho mình nghe việc Hà đến thăm bả. Trên đời có quá nhiều những chuyện không ngờ phải không Thể Hà? Tội nghiệp anh Nhựt mình lắm, sau ngày ba mình qua đời, ảnh đang học dược năm thứ hai phải bỏ vì công việc làm ăn của gia đình chỉ có một mình ảnh quán xuyến hết, mình có biết chuyện kinh doanh gì đâu. Lúc sanh thời, ba mình kể rằng tánh anh Nhựt rất giống tánh bác Hai trai. Bác Hai trai ngày xưa giỏi lắm, ông vừa đi học vừa làm ăn để nuôi gia đình. Bỗng một hôm bác giao hết sản nghiệp cho ba mình, thoát ly gia đình cùng bác gái đi vào bưng để hoạt động chống thực dân Pháp. Sau đó, bác bị bắt và chết trong tù. Anh Nhựt mình cũng vậy, có dạo theo nhóm sinh viên và cô bạn gái của ảnh bạo động, biểu tình, tuyệt thực… Bồ còn nhớ dạo Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu ở góc đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt không? Tổ chức của họ bị cảnh sát bố ráp, kẻ bị bắt bỏ tù, người bị thương chạy tán loạn. Cô bạn gái của ảnh nhờ ông già gốc bự nên được gia đình đưa ra ngoại quốc ngay trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Còn ảnh chạy xất bất sang bang cả tuần sau mới dám về nhà, lúc đó ông già mình còn sống, ổng chửi ảnh cho một trận tơi tả. Vậy mà ảnh cũng chẳng chừa. Mới năm nào đây, ảnh hoạt động lại, lần đó bị thương ở bụng tưởng chết rồi. Bác gái khóc mờ con mắt, bỏ ăn bỏ ngủ lo cho ảnh. Mình cũng lo sợ ảnh chết. Nhờ ơn Trên phù hộ, ảnh tai qua nạn khỏi. Khi ảnh lành bịnh, bác gái nói nếu ảnh còn hoạt động nữa thì bác sẽ bỏ nhà ra đi. Ảnh kính thương bác gái lắm! Sau lần đó ảnh mới chí thú làm ăn nên ngày nay sản nghiệp càng thêm phát đạt.

Tôi chợt hỏi:

– Cô bạn gái ảnh giờ ra sao, ở đâu?

Xuân Hà vừa ăn vừa trả lời lơ đểnh:

– Nghe nói rời nước đâu chừng hai năm, cô ta đã có chồng người bản xứ ở Pháp thì phải.

– Nghe tin cô bạn gái có chồng, chắc anh của Hà buồn lắm?

Xuân Hà thành thật:

– Đúng rồi, ảnh buồn khổ, say sưa tối ngày. Công ăn việc làm ảnh không ngó ngàng tới, bỏ mặc cho người quản lý muốn làm gì thì làm. Lần đó tưởng đâu sản nghiệp tiêu tan hết rồi. Cũng may, ảnh còn nghe lời bác Hai gái to nhỏ khuyên can nên phấn chấn trở lại. Kể từ đó đến nay, mình chưa thấy ảnh quen với người con gái nào nữa. Và cũng từ đó ảnh trở nên lạnh lùng ít nói…

Tôi buột miệng: “Cho đáng đời”. Xuân Hà tròn mắt hỏi:

– Bồ nói gì?

Tôi nói trớ:

– Xin lỗi, mình đang nghĩ về một chuyện khác.

Trưa thứ bảy đó, Xuân Hà đến chở tôi sang nhà vú làm gỏi cuốn. Tôi diện chiếc áo bà ba tím than, quần sa-teng tây. Tôi đeo bông giọt mưa bằng ngọc trai và vòng ngọc trai nhỏ vừa cổ. Cườm tay đeo chiếc đồng hồ mặt tròn, mạ vàng, dây da nâu. Kỷ niệm nầy do ngoại mua cho năm tôi mới vào đại học. Tóc chẻ giữa, chải về phiá sau, tôi vén gọn kẹp bằng kẹp móc hai bên hai lỗ tai. Còn Xuân Hà mặc áo sơ-mi ngắn tay màu đỏ. Quần tây màu đen. Nhỏ đeo tay bằng bộ vòng sơ-men bảy chiếc. Tóc Xuân Hà lúc nào cũng cắt ngắn, kiểu phân nửa con trai. Nên khuôn mặt vốn đã thông minh sẵn có của nhỏ thêm sáng lạng như gương.

Chiếc xe Vespa màu xanh nhạt của Xuân Hà nhẹ nhàng lướt êm trên đường phố Sài Gòn hoa lệ. Vào giờ trưa cuối tuần, chợ Sài Gòn dập dìu muôn hồng ngàn tía. Chắc suốt cả đời tôi sẽ không dám lái xe gắn máy trên thành phố nầy. Đường không dài, không rộng nhưng nườm nượp xe cộ đủ loại. Người đi bộ, kẻ bán hàng chen chúc chạy qua chạy lại, chạy dọc, chạy ngang thì biết đường nào mà qua, lối nào mà đi… Xuân Hà chạy quẹo cua, thắng gấp làm phèo phổi tôi teo lại hết. Rồi chiếc Vespa trắng kè sát xe chúng tôi, làm tôi hoảng sợ co quíu chân lại sợ họ đụng. Bên xe kia hai người thanh niên ăn mặc trông cũng lịch sự lắm. Họ nói cười ha hả nhìn chúng tôi. Xuân Hà bảo tôi ngồi cho vững. Nó cho xe dọt nhanh. Trời đất quỷ thần ơi! Tôi hồn phi phách tán, mấy lần thiếu điều rớt xuống lộ, nên ôm ghì xiết nó thật chặt, mắt nhắm nghiền lại, không dám mở ra.

Nó cười ngất:

– Tới nơi rồi, làm ơn buông tôi ra, tôi nghiệp quá đi! Bà ôm siết tôi thiếu điều mình tôi đứt ra làm hai vậy đó! Tôi là con gái nên chẳng có lời chút nào! Phải ngồi sau lưng bọn đàn ông mà bà ôm eo nó kiểu nầy, nó sẽ làm tài xế cho bà cả đời không phàn nàn tiếng nào hết.

Tôi mắc cỡ, bẽn lẽn đánh vào vai Hà:

– Cứ nói tầm xàm bá láp không hà! Bà chạy nhanh quá làm tôi sợ đến nổi lúc đó nếu ai hỏi tên gì, mấy tuổi tôi cũng không còn nhớ. Tôi cứ nhắm khít mắt! Nhắm lại thì không thấy đường, còn mở mắt ra sợ thấy bịnh viện!

Nó cười ha hả, giọng cười dòn như tuôn ánh sáng. Vú mở cửa nhà cười tích toác. Tôi chạy lại ôm vai vú:

– Vú có khỏe không vú? Hôm nay con đến thăm vú đây.

Nhỏ Xuân Hà đi nhanh lại mở tủ lạnh rót hai ly nước lạnh nó vừa đi vừa uống, còn ly kia đưa cho tôi.

– Anh Nhựt đâu rồi bác Hai?

Vú cười trả lời tôi và Xuân Hà:

– Vú khỏe, cô Ba đến thăm vú vui lắm dù có bịnh cũng sẽ khỏi ngay. Đêm nay cô Ba ở lại với vú như lần rồi đã hứa nhen? Sáng sớm thằng Đông đã đi, nói đến văn phòng xem lại chút giấy tờ và chờ gặp mấy ông chủ lớn ở Hậu Giang lên đặt hàng rồi cùng họ đi ăn trưa, chắc tối mới về.

Tôi thầm cảm ơn Trời Phật đừng để tôi gặp mặt người nầy! Trong lòng tôi thấy vui vẻ thoải mái chi lạ. Tôi lấy tay bóp vai vú, nhìn rổ rau sống tươi mươn mướt trên bàn nào là: ngò rí, dấp cá, húng cây, húng lủi, lá quế, rau răm, cải xà-lách, hẹ, giá sống…. Gỏi cuốn mà không có hẹ và giá sống thì mất hương vị của nó ngay. Tôi khen:

– Rổ rau sống ngon mắt quá! Thấy nó nhớ ngay bánh xèo và gỏi cuốn. Cả hai thứ nầy không ai làm ngon bằng vú.

Vú cười vổ vổ bàn tay tôi:

– Lần nầy vú đãi cô Ba gỏi cuốn, tuần sau bánh xèo. Nhớ chiều thứ sáu đến với vú.

Tôi cũng muốn đến thăm vú thường xuyên, nhưng tôi không ưa con trai vú nên cười chớ không trả lời. Xuân Hà cũng sà vào lòng vú nũng nịu:

– Có nhỏ Thể Hà bác quên cháu rồi. Cháu không chịu đâu.

Vú vuốt tóc nó, âu yếm nói:

– Bác thương Xuân Hà cũng như Thể Hà. Ờ, còn cậu Hưng bạn trai của cháu đâu? Sao lâu nay bác không gặp cậu ta?

– Thưa bác, sau bữa tiệc tiếp tân, ảnh về Vĩnh Long thăm gia đình. Tuần tới, ảnh trở lên và nhận việc làm ở Bộ Kinh Tế. Khi công việc ảnh ổn định, chúng cháu sẽ đến thăm bác.

Vú nhớ ra chuyện gì rồi nói:

– Xuân Hà, chở bác ra chợ mua thịt, tôm và bún. Bác định mua hôm qua, nhưng hôm qua mua về thì phải luộc để cách đêm ăn không ngon.

– Vậy thì hai bác cháu mình đi.

– Ờ, để bác lên lầu mặc thêm cái áo đã.

Tôi cùng đi với họ ra sân nơi Xuân Hà đậu xe. Khi hai người sắp rời nhà, tôi hỏi vú:

– Vú có gì chưa làm xong, nói con biết để ở nhà con làm.

– Vậy cô Ba lấy trái đu đủ mỏ vịt ở ngăn dưới, trong tủ lạnh chẻ làm đôi bào xuôi, để đó chút nữa về vú làm dưa. Tuần rồi thằng Đông ở đâu đem về mấy con khô mực ngon quá, chiều nay vú sẽ nướng đãi hai cô khách quý.

Tôi dạ, rồi đóng cửa lại đi vào nhà mở tủ lạnh lôi ra trái đu đủ vỏ còn tươi xanh có vài điểm vàng bằng lóng tay. Hèn gì vú gọi là đu đủ mõ vịt. Tôi lấy dao chẻ đôi trái đu đủ, lấy muỗng cào hột và cho hột rơi vào thùng rác, rồi rửa sạch mủ tươm ra, lật úp trong rổ cho ráo nước. Mắt tôi nhìn ra cửa sổ, và miệng tôi lẩm bẩm hát nho nhỏ bài “Trường Làng Tôi” theo tiếng ca ngọt ngào của cô ca sĩ thời đại, phát ra từ chiếc radio. Bài hát mà năm đệ lục giáo sư nhạc dạy cho cả lớp. Lời đơn sơ mộc mạc, nhưng rất dễ thương, mỗi lần nghe đến thì những kỷ niệm dưới mái trường xưa hiện ra trong trí của tôi. Cái thuở học trò sao mà vui quá đi thôi! Tôi mỉm cười một mình, đọc nho nhỏ hai câu thơ mà khi xưa nhỏ Thái Vân nghe hay học lóm ở đâu: “Hỡi ai níu hộ thời gian lại. Cho kẻ đầu xanh mãi vẫn xanh”. Tôi ngồi xuống đứng lên lục lạo tìm kiếm cái bàn cào để cào đu đủ. Tìm hoài không thấy, tôi tức mình hồi nãy quên hỏi vú để nó ở đâu?

– Có phải cô tìm cái nầy không?

Hắn cầm cái bàn cào đưa trước mặt tôi. Tôi vừa giật mình vừa ngạc nhiên, định cự nự lại hắn, nhưng tôi cố dịu giọng:

– Dạ phải, ông vào đây bằng cách nào, sao tôi không nghe thấy?

Hắn ta nhìn tôi, tay lắc lắc xâu chìa khóa:

– Tôi tự mở cửa bằng cái chìa khóa nầy mà vào nhà. Cô không hay vì cô đang thả hồn theo bản nhạc “Trường Làng Tôi”. Sao cô gọi tôi bằng ông hoài vậy, bộ tôi già lắm sao? Cô đến lâu chưa? Má tôi và Xuân Hà đâu?

Tôi từ tốn trả lời:

– Dạ, vú cùng Xuân Hà đi chợ mua thêm chút đồ chi đó.

Hắn đến tủ lạnh rót ly nước uống và hỏi:

– Thể Hà ghét tôi lắm phải không? Đêm đó vì cùng đường tôi mới chạy đại, không ngờ lại vô nhầm nhà cô. Chuyện bất đắc dĩ, chớ tôi không muốn gây họa cho cô đâu. Mỗi lần thấy vết thẹo bị thương đêm đó, thì tôi áy náy vô cùng và nhớ đến cô. Nhớ ơn cô đã cứu tôi. Hôm ở bến xe, sở dĩ tôi bảo cô đừng cho Xuân Hà biết, vì sợ nó vô tình nhắc đến trước mặt má tôi, sợ gợi buồn lòng bà, chớ tôi không có ý quên ơn đâu. Thật tình, nhiều lần tôi có ý định ghé qua cảm ơn cô, nhưng ngại gặp người nhà của cô, tôi không biết sẽ ăn nói sao với họ. Thành thật xin lỗi cô, và mong cô bỏ qua những chuyện đã bạc bẽo của tôi. Tôi cũng mong cô, đừng vì không ưa tôi mà khống đến đây thăm má tôi thường xuyên. Tôi biết bà thương yêu cô lắm. Cô là đứa con thứ hai của bà đó! Cô có biết không? Lúc mới về đây ở, đêm nào bà cũng khóc, bảo là rất nhớ cô. Nếu cô vẫn còn ghét tôi thì mỗi lần cô đến, tôi sẽ đi chỗ khác cho cô được tự nhiên, thoải mái.

Tôi không biết mình đã dạn dĩ hồi nào, hay ai đã khai khẩu mà trả lời với hắn:

– Đây là nhà của anh. Tôi không có quyền đòi hỏi anh phải đi mỗi lần tôi đến. Nhưng tánh anh xấu quá đi! Anh hay chọc ghẹo tôi, ăn hiếp tôi và còn hù tôi sợ nữa!

Hắn cười nửa miệng, mắt sáng ngời cảm động, nhìn tôi:

– Cô không nghe má tôi nói tôi như khúc gỗ sao? Tánh tôi xấu hay tánh cô xấu?

Tôi mở to mắt nhìn hắn, nhanh miệng:

– Dĩ nhiên là tánh anh xấu rồi, chớ tôi làm gì mang tiếng dữ đó?

Anh ta cười cười, gật gù:

– Ờ, ờ… Thì tánh tôi xấu!

Xuân Hà đập cửa rầm rầm và và la lối ồn ào bên ngoài:

– Thể Hà, Thể Hà mở cửa, mở cửa mau lên! Người ta nói nắng Sàigòn đep! Đep cái con khỉ khô. Trời nắng nóng phát điên thì có…

Tôi ngồi cào đu đủ. Anh ta ra mở cửa:

– Bộ sợ đen hay sao mà cả ông Trời mi cũng dám càm ràm vậy?

Tiếng Xuân Hà rổn rảng:

– Bác nói tối anh mới về mà. Bộ nghe mùi gỏi cuốn hả?

Tiếng vú dịu dàng, huỡn đãi:

– Ủa! Sao con về sớm vậy? Mấy người khách đâu?

Hắn vui vẻ trả lời:

– Dạ mấy người khách không đến được hôm nay, họ hẹn tuần tới.

– Vậy con ở nhà ăn trưa nghen. Có bận đi đâu nữa không?

Xuân Hà nhanh chân đi trước, hắn xách đồ dùm vú theo sau và trả lời lớn tiếng như cố tình cho tôi nghe:

– Dạ không bận chi, nhưng con sợ không biết hai cô cho con ăn ké hôm nay không? Rủi một trong hai có người không thích con thì phiền lắm! Thôi để con đi cho khỏi chướng mắt.

Vú cười, mắng yêu:

– Cái thằng ông ầm nầy, hôm nay ăn nói vẽ vời chẳng khác đàn bà!

Xuân Hà muốn trêu chọc tôi:

– Hai cô nào? Chỉ có em, và Thể Hà mà thôi. Em hả? Thì welcome anh rồi. Còn Thể Hà thì em không biết. Cô ta khó tánh lắm, đâu anh hỏi cổ xem.

Tôi mắc cỡ, làm bộ không nghe, đem quăng vỏ đu đủ vô thùng rác. Hắn vừa bước lên thang lầu vừa hát một điệu nhạc rền ri ngang như cua bò: “Đường vào tình yêu có trăm thằng ngu, có vạn thằng khờ. Đường vào tình yêu có trăm thằng điên, có vạn thằng khùng. Đường vào tình yêu có trăm thằng đui có vạn thằng mù… “

Xuân Hà nhăn mật, bảo vú:

– Bác ơi, anh Hai con lóng rày thay đổi nhiều quá! Ảnh hết lầm lì, mà còn có vẻ yêu đời một cách bồng bột.

Vú cười, cảm động:

– Ờ, bác cũng nhận thấy như vậy.

Tôi quay chỗ khác trề môi: Ông yêu đời thì mặc kệ ông chớ. Ông phách lối, nói xàm với con nhỏ nầy thì nó phang lại ngay. Ở đời mà, có ai chịu nhịn thua ai đâu. Con nhỏ nầy nổi tiếng cứng đầu, ông mà chọc tức nó, thì liệu hồn. Nếu cự không lại, nó cũng sẽ xóc miểng sành rủa ông, trù ẻo ông… Nhưng mà tôi sẽ trù ẻo, rủa sả những gì? Bình sanh tôi không dám nói lời nặng nề chanh chua với bất cứ ai, thì huống chi trù rủa hắn. Thôi, tôi trù cho hắn bị: kiến cắn, rệp hút máu, chuột gậm ngón chân, mèo cào, chó rược… Hoặc ác độc không kém, tôi rủa cho hắn nhức đầu, đau bụng, ho hen, nhảy mũi, át xì đế mủi đỏ như trái cà chua. Tôi mỉm cười thỏa mản. Như vậy cũng cho hắn đau đớn rồi.

Chúng tôi ăn xong, ngồi tán dóc một hồi thì Xuân Hà xin phép về, để giúp bác quản gia điền đơn cho con thi vào Trường Kỹ Nghệ. Và nhỏ sẽ ghé qua chợ mua chút ít quà tặng mà người yêu nó nhờ mua dùm. Còn tôi ở lại ngủ đêm với vú. Hắn cũng xách xe đi mất sau khi Xuân Hà ra về.

Phố xá lên đèn. Tôi với vú ngồi ở bàn ăn nói chuyện khào, nhắc những chuyện ngày xưa trước khi đi tắm. Khi tắm xong tôi cảm thấy tâm hồn thơ thới vô cùng. Tôi vừa chải tóc vừa hát nho nhỏ. Tay bợ mái tóc dài quấn đôi vòng đặt lưng chừng trên tóc phía sau ót, dùng cây kẹp ba lá kẹp lại, chầm chậm bước xuống lầu thì vú đi tắm. Tôi mở truyền hình xem bà Thái Thanh đang õng ẹo ca bài “Dòng Sông Xanh”! Giọng hát của bà cao chín tầng mây. Nhưng bọn học viên trong khóa học của tôi nhứt là nam phái chê rằng “Bà hát hay thiệt, nhưng già rồi mà bả còn ẹo muốn sập sân khấu. Phải chi bả bớt ẹo một chút thì thiện cảm của thính giả đối với bả sẽ càng nhiều hơn…”. Tôi cười chớ không phê bình, còn Xuân Hà có ý binh bà ta: “Các anh đàn ông con trai mà nhiều chuyện quá đi! Miễn ca sĩ hát hay là được rồi còn bày đặt khen chê tác phong nữa.Tội nghiệp mấy người ca sĩ, tài tử. Mang kiếp tằm, làm dâu trăm họ…”.

Tiếng mở khóa cửa trước lách tách, tôi biết hắn về tới, nhưng làm bộ như không nghe thấy gì. Tôi tỉnh queo, mắt dán vào máy truyền hình. Miệng hắn huýt sáo theo điệu nhạc bài bà Thái Thanh đang hát. Hắn để lên bàn ăn lỉnh kỉnh nào chè, nào bánh ngọt, nào trái cây, lên tiếng:

– May quá tôi về kịp cô chưa đi ngủ. Má tôi khi ăn những món tôi mua về thường hay nhắc đến cô. Nghe riết tôi quen đi. Hôm nay mua những món nầy cho má tôi và cô, cô xem coi có phải những món cô thích không?

Tôi hơi ngạc nhiên bởi con người nầy bình thường lầm lì ít nói, hay chọc quê đối phương mà cũng tế nhị như vậy sao? Rồi tôi giận mình sao lại nghĩ có lợi cho hắn vậy? Tôi tức tối mới phải chớ, con người nầy đáng ghét, đáng bị chọi cà thúi, trứng ung, đáng bị xài xể là giả nhân giả nghĩa, là sao quả tạ… Ồ, mà sao tình cảm tôi kỳ vậy cà? Bình thường nghe ai giận hờn cải lẫy với ai thì tôi luôn khuyên can nào là “dĩ hòa vi quí” nào là “thiện ý của đời người là tha thứ…”. Nhưng tôi sẽ không bao giờ dễ dàng tha thứ và bỏ cuộc ghét hắn đâu! Tại sao vậy? Không phải hắn đã giải bày rõ ràng mọi sự rồi sao? Tôi không làm sao biết được!

Vú tắm xong đi xuống lầu. Hắn lại lấy mấy cái tách uống trà, mấy cái dĩa bàn trên kệ tủ đem đến trước mặt tôi:

– Cô hãy sắp bánh trái ra dĩa đi. còn chè thì đựng trong ly giấy rồi. Tôi đi nấu nước châm trà. Nhà nầy có nhiều thứ trà lắm: Trà Ô Long, trà lài, trà cúc, trà mai quế hoa, Quan Âm Kỳ Chưởng, Đức Thái, Thái Nguyên… Má tôi thích trà Quan Âm Kỳ Chưởng, nhỏ Xuân Hà thích trà Đức Thái… Còn cô, cô thích loại trà nào?

Tôi liếc xéo tên ba xạo và ương gàn nầy. Mặt không đổi sắc tôi tĩnh bơ:

– Trà nào tôi cũng thích. Tôi chỉ ghét thứ Bao Xạ Hồng Trà thôi. Trà nầy pha ra, nước đỏ như trà trong các tiệm hủ tíu, mì dành đãi không cho khách.

Hắn lấy làm lạ, trố mắt nhìn tôi. Vú vừa đi xuống lầu, nghe tôi nói ngạc nhiên, thiệt tình hỏi:

– Trà gì lạ vậy, hả cô tiểu thơ của vú?

Tôi cười chúm chím:

– Bao Xạ là Ba Xạo đó vú.

Cả ba cùng cười. Tôi cười mỉm nhìn bâng quơ, vú cười lớn còn hắn cười muốn tróc nóc nhà. Hắn ngưng bặt tiếng cười nhìn tôi thật sâu, cặp mắt long lanh ngời sáng. Tôi hơi ngượng và ngần ngừ, vì ngoài cà-phê, tôi chỉ thích uống nước lạnh. Còn trà thì tôi mù tịt, trà gì với tôi cũng thế, miễn uống vào miệng nghe ấm ấm thơm thơm là được rồi. Nhưng nếu nói thế thì hắn sẽ cười thầm hoặc chọc quê tôi là người không biết thưởng thức trà. Tôi dễ dàng chịu thua vậy sao? Còn lâu, tôi phải tỏ ra ta đây cũng lịch lãm về trà chẳng thua kém ai. Làm mặt nghiêm, tôi nói:

– Cảm ơn, xin anh cho tôi tách trà Ô Long.

Hắn miệng cười mỉm chi:

– Loại trà nào tôi uống cũng được không kén, nhưng nếu cho chọn tôi vẫn thích trà Ô Long hơn.

Dễ giận thiệt! Tôi lại thua hắn nữa rồi.

Thế là đêm nay vú, hắn và tôi có buổi trà đàm. Hắn nói chuyện chân thật, lâu lâu cũng xen vào một vài câu tếu tếu làm vú cười đến chảy nước mắt. Còn tôi thì hình như quên mất trước đây không lâu đã coi hắn như là kẻ thù bất cộng đái thiên, không đội trời chung với mình. Tôi cũng nói cười cởi mở, lâu lâu hỏi lại hắn: “Thật sao? Vậy hả? Có đúng không? Sao tôi không nghe câu chuyện khó tin đó? Ai nói vậy? Sao anh biết? Tôi nghi ngờ quá! Nghi anh đía; anh xạo để gạt tôi, chọc quê tôi…”.