Hoạt động văn học và sử học dưới thời Lê
Triều vua Lê Thánh Tông là thời kỳ nền văn học xuất phát từ nguồn cảm hứng Khổng giáo nở rộ. Bản thân nhà vua cũng thích viết và đã tập hợp hai mươi tám quan đại thần là những nhà nho lớn để thành lập một Viện hàn lâm lấy tên là Hội Tao đàn do đích thân nhà vua chủ trì. Hội Tao đàn đã để lại nhiều bài thơ lời lẽ rất trau chuốt ngợi ca chế độ và sự vĩ đại của đất nước. Nhiều văn bản khác của Hội Tao đàn cũng được lưu lại trong Thiên nam dư hạ tập . Vua Lê Thánh Tông cũng đã để lại một tuyển tập thơ Nôm.
Thời kỳ những vua Lê đầu tiên cũng đã để lại nhiều công trình sử học, quan trọng nhất là Đại Việt sử ký toàn thư được Ngô Sĩ Liên bắt đầu viết từ năm 1479, thuật lại lịch sử Việt Nam từ đầu cho đến ngày thành lập triều đại nhà Lê năm 1428. Thời kỳ này đã để lại cho chúng ta Lĩnh nam chích quái của một tác giả vô danh, tuyển tập những truyền thuyết dân gian, một tài liệu cần thiết để am hiểu những tín ngưỡng và tập tục của nước Việt Nam cổ xưa. Đầu thế kỷ thứ XVI, Nguyễn Dữ viết Truyền kỳ mạn lục , kể lại những câu chuyện huyền diệu, trong đó tác giả mượn cớ những truyền thuyết để đưa ra nhiều chỉ trích đối với xã hội và những kẻ cầm quyền đương thời.
Vượt hẳn lên cả thế kỷ XVI, là gương mặt của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585), một nhà nho xuất thân từ cửa Khổng, sau một thời gian ngắn thử ra làm quan với nhà Mạc, đã lui về ở ẩn tại Bạch Vân Am , mở trường dạy nhiều học trò. Ghê tởm trước những tệ đoan ở triều đình và trong giới quan lại ông ngang nhiên nói lên tình yêu của mình đối với thiên nhiên, sự gắn bó với cảnh ''nhàn'', tức là với một cuộc sông ẩn dật không màng đến những lo nghĩ về vật chất hay xã hội, một cách sống lấy nguồn cảm hứng từ quan niệm ''vô - vi'' của đạo Lão. Tuy nhiên là một nhà nho thấm nhuần Khổng giáo, Nguyễn Bỉnh Khiêm không thể không quan tâm sâu sắc đến đời sống chính trị của đất nước. Thời buổi lúc bấy giờ khá rối ren, các vua Lê trị vì, nhưng rồi nhà Mạc chiếm ngôi, rồi họ Trịnh và họ Nguyễn ngoi lên nắm quyền ngay cả sau khi nhà Lê trung hưng, đã tạo nên cả một mớ bòng bong chính trị khiến cho những đầu óc sáng suốt nhất cũng bối rối không thấy được lối ra.
Ẩn sĩ ở Bạch Vân Am trở thành vị quân sư mà mọi người bất cứ thuộc phe nào cũng đều lắng nghe.
Chính vì vậy mà năm 1556, khi tướng Trịnh Kiểm và quan của nhà Lê nhưng muốn chiếm ngôi vua Lê, đã cho người đến hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm. Vị sư phụ quay mặt về phía một người hầu của mình và bảo anh ta: ''Mùa mất vì giống xấu, phải tìm giống lúa cũ''. Và ông cho người đến thắp hương ở một ngôi chùa rồi khuyên nhà sư trụ trì: ''Giữ chùa và cúng Phật thì được ăn oản''. Viên thuộc hạ về bẩm lại với Trịnh Kiểm, ông nghe theo và đành đưa lên ngôi một hậu duệ của nhà Lê.
Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm cách nhau một thế kỷ; Nguyễn Trãi còn có thể phục vụ một cách nhiệt tình nền quân chủ nhưng đến Nguyễn Bỉnh Khiêm thì không thế nữa. Chế độ phong kiến đã trải qua một cuộc khủng hoảng sâu sắc. Theo đạo Nho, kẻ sĩ Nguyễn Trãi đã “xuất” để phụng sự vua, thực hiện vai trò của mình trong xã hội, còn kẻ sĩ thứ hai là Nguyễn Bỉnh Khiêm thì ''xử'' ở lại trong chốn ẩn cư của mình, sống với thiên nhiên và với nhân dân để giữ trọn lương tâm của mình. ''Xuất'' hay ''Xử'', thế lưỡng nan này sẽ tồn tại dai dẳng trong nhiều thế kỷ đối với các nhà nho có phẩm giá trước nền quân chủ phong kiến.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại hơn một nghìn bài thơ bằng chữ Hán và chữ Nôm, tất cả đều thấm đượm màu sắc của minh triết phương Đông, ngợi ca cuộc sống yên bình của người ẩn sĩ, những vẻ đẹp của thiên nhiên hoặc mỉa mai những thăng trầm của cuộc sống. Sau đây là một trong những bài thơ nổi hứng nhất của ông:
“ Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dù ai vui thú nào
Ta dại, ta tắm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chôn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến cội cây, ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao
Hễ kẻ trêu ngươi, kẻ phải lo
Chẳng bằng vô sự ngáy pho pho
Tay kia khéo nắm còn khi mở
Miệng nọ hay cười có lúc ho
Có thuở được thời mèo đuổi chuột
Đến khi thất thế, kiến tha bò
Được thua sau mới ăn năn lại
Vô sự chăng hơn có sự ru?( 6 )