← Quay lại trang sách

BÀI CÁO BÌNH NGÔ

Từng nghe:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt (7) trước lo trừ bạo.

Nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng văn hiến đã lâu.

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một Phương.

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

Song hào kiệt đời nào cũng có.

Vì vậy:

Lâu Cung (8) tham công nên thất bại,

Triệu Tiết (9) thích lớn phải tiêu vong.

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô (10),

Sông Bạch Đằng (11) giết tươi Ô Mã.

Việc xưa xem xét,

Chứng cớ còn ghi.

Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,

Để trong nước lòng dân oán hận.

Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa,

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ(12) xuống dưới hầm tai vạ.

Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,

Gây binh kết oán trải hai mươi năm.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng;

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.

Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.

Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen(13), nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khôn cùng.

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,

Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.

Nặng nề những nỗi phu phen.

Tan tác cả nghề canh cửi.

Độc ác thay, trúc(14) Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi.

Lẽ nào trời đất dung tha,

Ai bảo thân dân chịu được?

Ta đây:

Núi Lam sơn dấy nghĩa,

Chốn hoang dã nương mình.

Ngẫm thù lớn há độc trời chung,

Căm giặc nước thề không cùng sống.

Đau lòng nhức óc, chốc đã mười mấy năm trời,

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao(15) suy xét đã tính,

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế (16) đắn đo càng kỹ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị.

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi (17).

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thù đương mạnh.

Lại ngặt vì:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm.

Nhân tài như lá mùa thu.

Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,

Nơi duy ác(18) hiếm người bàn bạc.

Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông(19),

Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành phía tả (20).

Thế mà:

Trông người người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi,

Tự ta ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.

Phần thì giận hung đồ (21) ngang dọc,

Phân thì lo vận nước(22) khó khăn.

Khi Linh sơn(23) lương hết mấy tuần,

Khi Khôi huyện (24) quân không một đội.

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,

Ta gắng chí khắc phục gian nan.

Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ (25) phấp phới,

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu(26) ngọt ngào.

Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Trọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Trận Bồ Đằng (27) sấm vang chớp giật,

Miền Trà Lân (28) Trúc chẻ tro bay (29).

Sĩ khí đã hăng,

Quân Thanh càng mạnh (30)

Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,

Lý An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân (31).

Thừa thắng ruổi dài, Tây kinh (32) quân ta chiếm lại,

Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô (33) đất cũ thu về.

Ninh Kiều (34) máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm,

Tốt Động (35) thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.

Phúc tâm quân giặc, Trần Hiệp đã phải bêu đầu.

Mọt gian kẻ thù, Lý Lượng cũng đánh bỏ mạng.

Vương Thông gỡ thế nguy, mà đam lửa cháy lại càng cháy,

Mã Anh cứu trận đánh, mà quân ta hăng lại càng hăng (36),

Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lúc kiệt,

Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công(37).

Tưởng chúng biết lẽ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ,

Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan.

Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao kẻ khác,

Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.

Bởi thế:

Thằng nhãi con Tuyên Đức (38), động binh ngừng,

Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng (39), đem dầu chữa cháy.

Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại,

Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.

Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặn mũi tiên phong,

Ta sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.

Ngày mười tám, trận Chi Lăng (40) Liễu Thăng thất thế,

Ngày hai mươi, trận Mã An (41) Liễu Thăng cụt đầu.

Ngày hăm lăm, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn!

Thuận đà, ta đưa lưỡi dao tung phá,

Bí nước, giặc quay mũi giáo đánh nhau.

Lại thêm quân bốn mặt vây thành,

Hẹn đến giữa tháng mười giết giặc.

Sĩ tốt kén người hùng hổ,

Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh.

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,

Voi uống nước, nước sông phải cạn.

Đánh một trận, sạch không kình ngạc,

Đánh hai trận(42) tan tác chim muông.

Nổi gió ta quét sạch lá khô,

Thông tổ kiến phá toang đê vỡ.

Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,

Thượng thư Hoàng phúc trói tay để tự xin hàng.

Lạng Giang (43), Lạng Sơn, thây chất đầy đường,

Xương Giang, Bình Than (44), máu trôi đỏ nước.

Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,

Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.

Bị ta chẹn ở Lê Hoa (45), quân Vân Nam hồ đồ sợ bóng mà vỡ mật

Nghe Thăng thua ở Cần Trạm (46), quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy thoát thân.

Suối Lãnh Câu (47) máu chảy trôi chày (48), nước sông nghẹn ngào tiếng khóc,

Thành Đan Xá thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.

Cứu binh hai đao tan tành, quay gót chẳng kịp,

Quân giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng.

Thần vũ chẳng giết hại(49), thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.

Mã Kỳ, Phương Chinh, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc,

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.

Họ đã ham sống sợ chết, mà hòa hiếu thực lòng,

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.

Chẳng những mưu kế kỳ diệu,

Cũng là chưa thấy xưa nay.

Xã tắc(50) từ đây đổi mới.

Kiền khôn bĩ mà lại thái(51).

Nhật nguyệt hối mà lại minh(52).

Muôn thuở nền tháu bình vững chắc,

Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.

Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy.

Than ôi!

Một cỗ nhung y (53) chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm,

Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.

Xa gần báo cáo,

Ai nấy đều hay.

(Dựa theo bản dịch của Bùi Kỷ ( 54 )

Chú thích:

(1) Điếu phạt: do câu ''điếu đàn phạt tội'' ở Kinh Thư, nghĩa là: Thương xót nhân dân, đánh kẻ có tội.

(2) Lưu Cung: vua Nam Hán, sai con là Hoằng Thao đem quân xâm lấn nước ta, bị Ngô Quyền đánh bại. Cung sau đổi tên là Nghiễm. Bản Hoàng Việt văn tuyển viết là Nghiễm.

(3) Triệu Tiết: Tướng nhà tống, đem quân sang đánh nước ta đời Lý, bị Lý Thường Kiệt đuổi chạy.

(4), (5) Toa Đô, Ô Mã (tức Ô Mã Nhi): Hai tướng nhà Nguyên sang đánh nước ta đời Trần. Toa Đô thị thua trận ở Tây Kết (Hải Hưng) và bị giết còn Ô Mã Nhi thì bị bắt ở sông Bạch Đằng năm 1288. Nguyên văn ở đây có lẽ nhầm.

Hàm Tử, Bạch Đằng: bến Hàm Tử (Hải Hưng) là nơi Trần Nhật Duật phá quân Toa Đô, Sông Bạch Đằng (Quảng Ninh) là nơi Ô Mã Nhi bị bắt sống.

(6) Con đỏ: Con mới đẻ ra còn đỏ. Ở đây chỉ người dân nói chung.

(7) Chim trả (sả), hươu đen: hai thứ vật quý mà quan lại nhà Minh bắt dân ta cống nộp.

(8) Trúc: xưa chưa có giấy, chép sử trên thẻ trúc, đây nói tội ác nhiều vô cùng, ghi chép không hết.

(9) Lược thao: tam lược lục thao, hai sách dạy binh pháp.

(10) Hưng phế. nói việc các triều đại khi dựng lên, khi bị lật đổ?

(11) Đồ hồi: mưu tính việc khôi phục lại.

(12) Nơi duy ác: mùng màn trong quân đội, nơi tướng chỉ huy ở, bàn bạc việc quân.

(13) Về đông: do chữ “dục đông” trong nguyên văn, lấy lời của Lưu Bang khi bị Hạng Võ phong cho vào Tây Thục, Lưu Bang có ý bực tức nói: ''Dư diệc dục đông nhĩ, an năng uất uất cửu cư thử hổ''? (Ta cũng muốn trở về đông, sao chịu bực tức mà ở mãi chốn này ư?). Nguyễn Trãi mượn lời này để nói Lê Lợi khởi nghĩa ở Tây Đô (Thanh Hóa) muốn tiến ra Đông Đô (Hà Nội).

(14) Phía tả: Tin Lăng Quân nước Ngụy nghe tiếng Hầu Doanh là một người hiền sĩ, đem xe đến đón, mình ngồi phía hữu, để trống phía tả cho Hầu Doanh (bên tả là ngồi trên). Nghĩa bóng là tìm người hiền giúp việc.

(15) Hung đồ: bọn kẻ cướp hung hăng tàn bạo chỉ giặc Minh.

(16) Vận nước: dịch chữ quốc bộ trong nguyên văn.

(17) Linh sơn: núi Chí Linh, thuộc huyện Lang Chánh, thượng du Thanh Hóa.

(18) Khôn huyện: cũng gọi là Khôi sách, một địa điểm gần Nho Quan (Hà Nam Ninh).

(19) Ngọn cờ: do chữ ''yết can vi kỳ'' trong Hán thư (truyện Trần Thắng, Hạng Tịch): Lấy cần trúc làm cờ. ý nói khởi binh vội vàng chưa kịp may sắm cờ xí, phải dùng tạm cần Trúc làm cờ.

(20) Chén rượu: nguyên văn ''đầu giao hưởng sĩ''. Xưa có viên tướng giỏi, được người ta biếu một bình rượu, bèn dốc xuống dòng sông, để ba quân cùng múc nước uống, tỏ ý chia bùi sẻ ngọt.

(21) Bồ Đằng: tên một ngọn núi, cũng gọi là Bồ Liệp hay Bồ Cứ, thuộc Quỳ Châu (Nghệ Tĩnh) (đừng nhầm lẫn với Bồ Đề ở bờ sông Nhị Hà).

(22) Trà Lân: cũng gọi là Trà Long, thuộc phủ Tương Dương (Nghệ Tĩnh).

(23) Trúc chẻ, tro bay: ý nói quân giặc tan rã nhanh chóng như chẻ trúc như tro bay vung.

(24) Sĩ khí, quân thanh: chí khí và thanh thế của binh sĩ.

(25) Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An, Phương Chính: các tướng nhà Minh.

(26) Tày kinh: tức thành Tày Nhai (Thanh Hóa) do nhà Hồ đắp.

(27) Đông Đô: tức Thăng Long (Hà Nội).

(28) Ninh Kiều: tên đất thuộc huyện Chương Mỹ (Hà - Sơn - Bình).

(29) Tốt Động: cũng có sách ghi là Tụy Động, một xã ở huyện Mỹ Lương (nay là Chương Mỹ, Hà - Sơn - Bình).

(30) Trần Hiệp, Lý Lượng, Vương Thông, Mã Anh: tướng giặc Minh.

(31) Mưu phạt tâm công: đánh bằng mưu trí và đánh vào lòng người.

(32) Tuyên Đức: niên hiệu vua Tuyên Tông nhà Minh.

(33) Thạnh, Thăng: Mộc Thạnh, Liễu Thăng, tướng nhà Minh

(34) Chi Lăng: địa điểm gần Lạng Sơn.

(35) Mã An: ở xã Mai Sơn, thuộc Lạng sơn.

(36) Đánh một trận... đánh hai trận: Nguyên văn là “nhất cổ, tái cổ” tức là hồi trống thứ nhất, hồi trống thứ hai khi ra trận.

(37) Lạng Giang: tên đất, nay thuộc Hà Bắc.

(38) Xương Giang. Xương Giang là tên chữ Hán của sông Thương. Thành Xương Giang ở trên sông Thương thuộc xã Thọ Xương, tức vùng thị xã Phủ Lạng Thương (Hà Bắc).

Bình Than: bến sông thuộc Hải Hưng.

(39) Lê Hoa: có lẽ thuộc vùng giáp giới Lào Cai ngày nay (xưa thuộc Tuyên Quang) hoặc là ở sông Mông Tự (Vân Nam).

(40) Cần Trạm: thuộc vùng Kép (Hà Bắc).

(41) Lãnh Câu và Đan Xá: (câu dưới): Ở gần ải Lê Hoa.

(42) Máu chảy trôi chày: do chữ ''huyết lưu phiên chử'' ở Kinh Thư. ý nói giặc bị chết nhiều.

(43) Thần vũ chẳng giết: do chữ ''thần vũ bất sát'' ở Kinh dịch. ý nói việc uy vũ thiêng liêng không có giết hại.

(44) Xã tắc: nghĩa đen: nơi tế thần Đất gọi là xã, và nơi tế thần Lúa gọi là tắc. Nghĩa bóng: chỉ quốc gia.

(45) Bĩ mà lại thái: qua cơn khốn cùng, trở lại thái bình.

(46) Hối mà lại minh: tối rồi lại sáng.

(47) Nhung y: áo giáp mặc khi ra trận, đây chỉ việc đánh giặc. Thiên Vũ thành trong Kinh Thư có câu: ''Nhân nhung y, thiên hạ đại định'' Một cỗ nhung y mà thiên hạ được bình định).

(48) Bản này do Bùi Văn Nguyên dịch lại, dựa theo bản của cụ Bùi Kỷ, có tranh thủ ý kiến của cụ Bùi Kỷ lúc sinh thời và một số các cụ thâm nho khác. (Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ X, thế kỷ XVII, Nhà xuất bản Văn học 1976).