Bước xuất phát mới của phong trào dân tộc và nhân dân
Sự đàn áp đã loại khỏi sân khấu chính trị các đảng và các nhóm dân tộc chủ nghĩa, nhưng chỉ có thể tạm thời ngăn cản hoạt động của Đảng Cộng sản đã bén rễ sâu trong quần chúng nhân dân. Nhiều chiến sĩ của Đảng, đặc biệt ở các làng xã, đã thoát khỏi tay cảnh sát nhờ sự che chở của nhân dân, một số khác tránh ra nước ngoài, lại tìm đường trở về nước và những người bi tù ngắn hạn trở lại hoạt động ngay sau khi được thả. Trong các nhà tù, các lớp đào tạo đính trị và lý luận được mở ra giúp cho các chiến sĩ trở thành những cán bộ được huấn luyện vững chắc. Một ban lãnh đạo được thành lập, đứng đầu là Lê Hồng Phong và ngay từ năm 1932, một cương lĩnh hành động đã vạch ra cho các chiến sĩ một đường lối tổng quát; các tổ chức quần chúng dần dần trở lại hoạt động.
Nhiều cuộc bãi công lại nổ ra ở các đồn điền cao su, các nhà in, các nhà máy xay gạo, đặc biệt ở Sài Gòn; năm 1935, năm khôi phục kinh tế, cũng là năm có nhiều cuộc bãi công lớn ở Sài Gòn. Cũng tại đây, các địa chủ và tư sản Việt Nam phối hợp với một số người Pháp, đã vận động chống lại việc đồng bạc Đông Dương lệ thuộc với đồng franc Pháp và sự thao trong của Ngân hàng Đông Dương. Cả trong tập đoàn thực dân, cũng bắt đầu có sự phân hóa.
Nhiều hình thức hoạt động mới xuất hiện: Nguyên Văn Tạo và Nguyễn An Ninh ra tờ báo trung lập ; năm 1933, trong các cuộc bầu cử thành phố ở Sài Gòn, một ''danh sách công nhân'' do Nguyễn Văn Tạo đứng đầu, đã có nhiều người trúng cử bất chấp chế độ bầu cử hạn chế. Nhiều cuộc mít tinh lớn thường tập hợp hàng nghìn người được tổ chức, các diễn giả lên tiếng bảo vệ lợi ích của những người lao động và đòi thực hiện các quyền tự do dân chủ. Một tờ báo tiếng Pháp, tờ La Lutte (Tranh đấu) ra đời, gây ảnh hưởng lớn trong các giới trí thức Diễn đàn của Hội đồng thành phố trở thành một địa bàn hành động để biến một số yêu sách thành những đòi hỏi của đông đảo nhân dân. Có thể nói đây là lần đầu tiên trong lịch sử phong trào dân tộc đã xuất hiện những hình thức hành động hợp pháp, nhưng tiếng vang của những hành động quần chúng bao giờ cũng giữ vai trò quan trọng nhất.
Năm 1934, một phái đoàn điều tra do nghị sĩ cộng sản Pháp Gabriel Péri đứng đầu, do Tổng Liên đoàn Lao động Pháp, tổ chức Cứu tế Nhân dân Pháp và ủy ban Hành động Pháp đòi ân xá các chính trị phạm, cử ra đã đến Việt Nam. Hoạt động của phái đoàn này có tiếng vang lớn trong dư luận Việt Nam, dư luận cũng đánh giá cao tinh thần đoàn kết chiến đấu của giai cấp công nhân Pháp.
Năm 1935, nhiều cuộc bầu cử thành phố mới diễn ra ở Sài Gòn. Bản danh sách Nguyễn Văn Tạo được 4 trong 6 ghế dành cho người Việt Nam, đối mặt với 12 ghế dành cho người Pháp.
Ở cuộc bầu cử Hội đồng thuộc địa cũng thắng lợi. Đối với Đảng Cộng sản, những thắng lợi bầu cử không hề là mục tiêu chính của cuộc đấu tranh, nhưng tạo cơ hội để phổ biến rộng rãi các khẩu hiệu, thức tỉnh ý thức chính trị của quần chúng, chuẩn bị cho những hoạt động quan trọng hơn.
Tình thế diễn biến nhanh chóng. Các cường quốc phát xít đã củng cố khối liên minh, tạo thành trục Berlin - Rome - Tokyo; trong khi đó, việc xích lại gần nhau giữa Liên Xô với các cường quốc phương Tây dần rõ nét nhằm ngăn chặn nguy cơ phát xít. Ở Trung Quốc, cuộc xâm lược của Nhật Bản chuyển xuống phía nam và chiến tranh áp sát biên giới Đông Dương; Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc dân Đảng đã liên minh với nhau để chống xâm lược Nhật Bản. Phát xít Nhật không chỉ nhằm chinh phục Trung Quốc mà còn muốn mở rộng quyền đô hộ của chúng ra cả vùng Đông Nam Á.
Ở Pháp, đối đầu với họa phát xít, một sự tập hợp rộng lớn diễn ra, đoàn kết trong Mặt trận Bình dân ba Đảng cánh tả lớn - cộng sản, xã hội và cấp tiên. Thắng lợi của ''Mặt trận bình dân'' trong các cuộc bầu cử năm 1936, đưa đến việc thành lập một Chính phủ do Đảng Xã hội đứng đầu, được Đảng Cộng sản ủng hộ - chủ nghĩa phát xít bị đánh bại ở Pháp, giai cấp công nhân Pháp giành được nhiều lợi thế quan trọng về chính trị và xã hội, một đạo luật ân xá đối với tù chính trị ở các thuộc địa được ban bố, một ủy ban điều tra được thành lập để tìm cách xác định những điều kiện cần thiết của việc tiến hành cải cách. Sự thành lập Chính phủ Mặt trận bình dân Pháp hiển nhiên đã tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào dân tộc Việt Nam có những tiến bộ nhanh chóng.
Tuy nhiên, rõ ràng nhân tố quyết định vẫn là hành động của quần chúng Việt Nam đã được khởi động lại và điều kiện mấu chốt của thắng lợi là phải có một đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương - tổ chức chính trị duy nhất có cơ sở trong cả nước và trong mọi tầng lớp xã hội.
Ủy ban Trung ương Đảng họp mùa hè năm 1936, đã đưa ra một loạt nghị quyết quan trọng: trong những điều kiện của tình hình hiện tại, cách mạng Đông Dương phải tự đặt mình trong mặt trận thế giới chống phát xít, đấu tranh cho hòa bình và dân chủ, tạm thời rút lại khẩu hiệu ''Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp'' cũng như khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của địa chủ để chia cho dân cầy'', chủ trương lập một ''Mặt trận nhân dân phản đế'' thật rộng rãi, tập hợp mọi tầng lớp xã hội, mọi chính đảng, mọi đoàn thể tôn giáo và nhóm dân tộc ít người ở Đông Dương để đấu tranh giành các quyền tự do dân chủ sơ đẳng: tự do hội họp, tự do lập hội, tự do dư luận, tự do xuất bản, tự do đi lại, tự do đi ra nước ngoài, ân xá tù chính trị, ngày làm 8 giờ, luật lao động, mở rộng các hội đồng dân biểu về kinh tế và xã hội. Tuy nhiên các khẩu hiệu đó vẫn không phân hóa được hàng ngũ bọn thực dân. Vì vậy cuộc họp toàn thể của ủy ban Trung ương Đảng tháng 3 năm 1938, đã chủ trương thành lập một “Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương” nhằm tập hợp mọi lực lượng dân chủ và tiến bộ làm nòng cốt cho cuộc đấu tranh chống kẻ thù nguy hiểm nhất lúc bấy giờ là phát xít Nhật và bọn thực dân phản động.
Ủy ban Trung ương chủ trương chuyển sang các hình thức hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp với sự tham gia mạnh mẽ của quần chúng để kiên quyết đấu tranh giành các quyền tự do dân chủ, nhưng Đảng vẫn không quên duy trì các cơ sở bí mật và những mục tiêu của mình về cách mạng dân tộc và dân chủ.
Chính sách thuộc địa của Mặt trận Bình dân Pháp tạo cơ hội cho Đảng phát động một chiến dịch rộng lớn đòi họp ''Đại hội Đông Dương'', một kiểu ''Đại hội đại biểu của toàn dân'' trong đó các tầng lớp và nhóm xã hội khác nhau sẽ nêu những yêu sách của mình, trong khi các giai cấp cần lao ở thành thị và nông thôn sẽ tiếp tục hành động đòi cải thiện điều kiện sinh hoạt của họ. Nhiều ủy ban hành động được thành lập trong cả nước, tác động đến nhiều bộ phận nhân dân. Trước ảnh hưởng của phong trào nhân dân Đông Dương kết hợp với dư luận tiến bộ Pháp, chỉnh quyền thuộc địa buộc phải trả tự do cho nhiều lính trị phạm; đây là một nguồn bổ sung quý báu cho phong trào. Phong trào khởi phát từ Sài Gòn, nơi đã có một ủy ban lâm thời được bầu lên, rồi lan sang Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Tại đây, dưới sự bảo trợ của ''Mặt trận dân chủ Đông Dương'', được nhiều chiến sĩ xuất sắc chỉ đạo, nhiều cuộc mít tinh lớn đã diễn ra; nhiều nhà yêu nước được bầu vào Hội đồng Thành phố Hà Nội, vào Viện Dân biểu ở Hà Nội và ở Huế.
Những cuộc mít tinh, biểu tình chính trị, bãi công nối tiếp nhau không ngớt. Chính quyền thực dân thi hành một loạt biện pháp để ngăn chặn hoạt động chính trị sôi sục này, cấm chỉ các cuộc hội họp, ra lệnh cho ủy ban toàn quốc lâm thời của Đại hội Đông Dương phải nộp các bản yêu sách của mình rồi giải tán. Ủy ban từ chối, nhà cầm quyền gây áp lực với những người lãnh đạo của Đảng lập hiến, ra lệnh cho họ phải rời bỏ Đại hội và triệu tập một cuộc họp để trình bày những “nguyện vọng của nhân dân”. Chẳng bao lâu nhà cầm quyền ra lệnh bắt những nhân vật chủ yếu khởi xướng của Đại hội và ra lệnh giải tán Đại hội.
Việc giải tán “Đông Dương Đại hội” vẫn không ngăn cản được phong trào tiếp tục, cũng không ngăn nổi quần chúng giành được những thắng lợi quan trọng. Trước hết là việc ân xá chính trị phạm. Khẩu hiệu tung ra nhanh chóng đi vào quần chúng rộng rãi và các nhóm xã hội rất khác nhau cũng như những tờ báo thuộc mọi khuynh hướng đều đấu tranh đòi ân xá. Nhờ vậy hàng ngàn tù nhân được phóng thích và như chúng ta đã thấy, sau khi được trở về, những người này đã góp phần quan trọng vào phong trào. Tuy nhiên vẫn còn hàng nghìn chính trị phạm bị chính quyền thuộc địa tiếp tục giam giữ trong các nhà tù khổ sai.
Một thắng lợi khác là việc ban bố một số đạo luật xã hội. Kể từ tháng 11 năm 1936, ngày làm việc không được quá 10 giờ, rồi 9 giờ kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1937, và 8 giờ kể từ 1-1- 1-1-1938. Cấm sử dụng đàn bà và trẻ con làm đêm. Công nhân được quyền nghỉ một ngày trong một tuần, và được nghỉ phép từ 5 đến 7 ngày mỗi năm mà vẫn được hưởng lương. Lương phải trả bằng tiền, các khoản tiền phạt khấu vào lương đều bị cấm. Nữ công nhân sinh đẻ có quyền nghỉ 8 tuần, chủ không phải trả lương nhưng không được đuổi việc những phụ nữ sinh đẻ như trước đó chúng vẫn làm. Pháp chế xã hội chưa bao gồm tự do nghiệp đoàn, tự đo bãi công, bảo hiểm xã hội, tóm lại là chưa bao gồm những quyền cơ bản của công nhân, nhưng đây là một tiến bộ quan trọng so với tình trạng trước đó. Vả chăng, việc thi hành những đạo luật mới trên đây sau đó vấp phải sự chống đối mạnh mẽ của chính quyền thực dân cũng như của giới chủ, phải có nhiều cuộc đấu tranh lâu dài mới có thể đưa những đạo luật đó vào đời sống thực tế.
Trong không khí chính trị chung, giai cấp công nhân Việt Nam, có được sự cố vũ đã giành được thắng lợi, đã trải qua một thời kỳ sôi sục mãnh liệt. Nửa sau của năm 1936, có đến 361 cuộc bãi công của công nhân Sài Gòn phản đối vụ bắt bớ những người chủ xướng Đại hội Đông Dương. Cuộc bãi công quan trọng nhất là của 25.000 công nhân than ở Quảng Yên. Tăng lương, giảm giờ làm, tự do nghiệp đoàn và tự do dân chủ là những yêu sách chính của công nhân. Năm 1937, được đánh dấu bằng 400 cuộc bãi công. Năm 1938, ban lãnh đạo chính trị của phong trào chủ trương tập trung hành động chống các công ty thuộc địa lớn, còn đối với các tư sản dân tộc nhỏ thì tìm cách dàn xếp có sự nhân nhượng lẫn nhau nhằm mở rộng mặt trận dân chủ.
Các công đoàn vẫn bị cấm, nhưng công nhân và viên chức lập những hội ''ái hữu'', những hội thể thao, những câu lạc bộ đọc sách; tờ báo Lao Động là cơ quan ngôn luận của phong trào.
Trong thời kỳ này phải kể đến những hoạt động của một nhóm Trốt-kít, nhất là ở Nam Kỳ, có ảnh hưởng đến các phần tử thiếu kinh nghiệm chính trị trong tầng lớp tiểu tư sản; họ bị lôi cuốn bởi khẩu hiệu tả khuynh hoặc cực đoan của những người Trốt - kít. Tuy nhiên, chủ nghĩa chống cộng của những người lãnh đạo phái Trốt-kít không được các phần tử ở cơ sở tiếp nhận. Đối nghịch với danh sách đoàn kết dân tộc rộng rãi, những người Trốt - kít chống lại việc thành lập các hội ái hữu trong giới công nhân và viên chức, xúc xiểm gây ra những cuộc bãi công khinh suất. Chủ nghĩa Trốt - kít trước hết du nhập một yếu tố chia rẽ vào trong phong trào dân tộc và nhân dân. Nó không thể tồn tại khi thời khắc của những cuộc đụng đầu lớn đã điểm.
Ở các làng xã, hoạt động chính trị cũng phát triển mạnh. Những cuộc mít tinh và biểu tình không đếm xuể. Những khi có cơ hội lớn, nông dân các làng xung quanh thành phố kéo vào tỉnh lỵ đưa yêu sách hoặc ủng hộ những cuộc biểu tình của nhân dân thành phố. Những nông hội bí mật thời kỳ trước đây nhường chỗ cho những hội ái hữu, hội cấy hái, hội làm nhà, hội tang ma, hội đánh cá v.v... lôi cuốn các tầng lớp nông dân rộng rãi vào nhiều hoạt động chính trị và xã hội.
Đảng Cộng sản đưa ra một cương lĩnh hành động cho giai cấp nông dân bao gồm:
- Giảm tô đến mức không được vượt quá 1/3 thu hoạch.
- Miễn tô khi mất mùa.
- Miễn thuế khi mất mùa.
- Chia công điền, công thổ một cách công bằng, cấm bán đấu giá ruộng đất công.
- Tự do khai hoang, đất đã được khai hoang phải chia cho người đã khai khẩn, giao lại cho nông dân những ruộng đất bị địa chủ bỏ hoang.
- Lập các chi điếm Ngân hàng địa ốc ở các làng xã để cho nông dân vay với lãi thấp, cấm cho vay nặng lãi.
- Xóa bỏ thuế thân.
- Ban bố những quyền tự do dân chủ sơ đẳng.
Nhiều đoàn thể và hội ái hữu được thành lập khắp nơi để tập hợp phụ nữ, thanh niên, các nghề nghiệp khác nhau. Hội truyền bá quốc ngữ chủ yếu đấu tranh xóa nạn mù chữ, giữ một vai trò quan trọng trên bình diện văn hóa.
Như vậy, đây quả là một thời kỳ sôi động về chính trị, nhưng là một thời kỳ mà các chính đảng thực sự lại giữ một vai trò kém xa vai trò quan trọng của các tổ chức quần chúng, bởi vì các chính đảng của giai cấp tư sản và tiểu tư sản không có thực lực, còn Đảng Cộng sản thì trên thực tế vẫn hoạt động bí mật, chỉ cử ra công khai một số đảng viên để thúc đẩy các tổ chức quần chúng mà thôi. Lúc bấy giờ, “mặt trận dân chủ” được lập ra để thay thế “mặt trận phản đế”, không phải là một tập hợp nhiều chính đảng như “Mặt trận bình dân” pháp, mà là một sự tập hợp nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, nhiều nhóm chính trị, tôn giáo, văn hóa, nhằm những hành động chung nhất định. Tham gia mặt trận này còn có cả những phân bộ của Đảng Xã hội Pháp ở Hà Nội và Sài Gòn, lúc đó bắt đầu kết nạp cả những đảng viên người Việt.