← Quay lại trang sách

Củng cố lực lượng kháng chiến

Kể từ năm 1948, vì phải lao vào một cuộc chiến tranh lâu dài, người Pháp trước hết tìm cách củng cố “hậu phương” của mình bằng cách ''bình định'' những vùng tạm chiếm để bòn rút càng nhiều càng tốt sức người và sức của nhằm tiếp tục cuộc chiến tranh. Đấy là chính sách "dùng người Việt đánh người Việt" và "lấy chiến tranh nuôi chiên tranh''. Nhiều chiến dịch càn quét lớn được tung ra ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Ở Nam Bộ, Bộ chỉ huy Pháp cho dựng lên cả một mạng lưới dày đặc những tháp canh dọc các đường giao thông lớn, ở Bắc Bộ, người Pháp mở rộng vùng tạm chiếm tại các tỉnh Hà Đông, Hòa Bình, Lào Cai, Sơn La, Cao Bằng; Ở Trung Bộ, chúng mở nhiều cuộc tấn công vào các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Quân số đội viễn chinh lan tới 150.000 người, dù phí lên tới 300 tỷ franc mỗi năm; cuộc chiến tranh Đông Dương bắt đầu trở thành một gánh nặng cho nước Pháp.

Cũng từ đầu năm 1948, phía kháng chiến Việt Nam đã hoạch định đường lối chính trị và quân sự của mình. Chiến tranh du kích vẫn là hình thức hoạt động chủ yếu, trong khi quân chính quy cố gắng chuyển sang vận động chiến. Nhiều đơn vị quân chính quy được phiên chế thành những ''đại đội độc lập'' để đi huấn luyện và yểm trợ cho các lực lượng bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, giúp thành lập những cơ quan chính quyền và những tổ chức nhân dân trong những vùng địch tạm chiếm. Nhiều đơn vị "tuyên truyền vũ trang'' luồn sâu vào các hậu phương địch để phát huy tại chỗ hiệu quả của cuộc kháng chiến nhân dân. Chiến tranh du kích được mở rộng khắp nơi không ngăn cản việc tung ra những trận đánh lớn khi cần: Trận La Ngà ngày 2 tháng 3, trận Tầm Vu ngày 19 tháng 4, trận Sóc Xoài ngày 3 tháng 8, trận Mộc Hóa ngày 16 tháng 9 ở Nam Bộ; trận Bình Trị Thiên ở Trung Bộ và trận Nghĩa Lộ trên đường số 4 ở Bắc Bộ.

Năm 1949, các xưởng quân giới chế tạo thành công hàng loạt súng đại bác không giật, súng cối rộng nòng; các chiến dịch mở ra với quy mô ngày càng lớn. Cuối năm 1949 đến đầu năm 1950, để đối phó với tình thế mới do thắng lợi của cách mạng Trung Quốc tạo ra, Bộ chỉ huy Pháp tìm cách đẩy mạnh tăng viện cho Bắc Bộ, củng cố và mở rộng chiếm đóng trên châu thổ sông Hồng, phát triển quân đội tay sai, đẩy mạnh càn quét với những binh đoàn cơ động. Nhiều chiến dịch quan trọng diễn ra, đặc biệt quanh vùng châu thổ, các đồn bốt dọc biên giới Việt Trung được tăng cường. Quân đội tay sai tăng lên 122.000 người.

Nhưng các lực lượng kháng chiến đã đánh trả mạnh mẽ. Chiến tranh du kích diễn ra quyết liệt, nhiều làng kháng chiến mọc lên, các kho tang và đường giao thông của địch liên tiếp bị đánh phá. Trong 2 năm 1949 - 1950, quân Pháp bị mất hơn 200 đồn bốt, 10.000 tên bị giết.

Như vậy là từ năm 1948 đến năm 1950, đã hình thành một thế cân bằng, cả hai bên chẳng bên nào làm thương tổn được vị thế của bên kia, mỗi bên tìm cách củng cố hậu phương, tăng cường lực lượng của mình, chuẩn bị cho một giai đoạn mới.

Đối với kháng chiến Việt Nam, việc xây dựng kinh tế là một vấn đề quan trọng hàng đầu. Kẻ thù chiếm giữ các trung tâm công nghiệp, một phần của các vùng đồng bằng phì nhiêu và đông dân, những con đường buôn bán với nước ngoài. Vấn đề là phải bảo đảm cho các lực lượng vũ trang có đủ lương thực và khí giới, các cơ quan hành chính hoạt động tốt, đảm bảo lương thực và những nhu cầu cơ bản cho nhân dân. Một cuộc chiến tranh kinh tế thực sự diễn ra giữa hai địch thủ. Người Pháp tìm cách gieo rắc sự hủy diệt, đặc biệt tạo ra những khu trắng, trong đó tất cả đều bị phá hủy sạch sành sanh, bao quanh những vùng bị chúng chiếm đóng. Chúng cũng phong tỏa các đường chuyên chở lúa gạo, thuốc men, vật dụng có ích tới các vùng tự do, nhưng lại tuồn vào đấy những hàng xa xỉ. Chúng muốn bắt các vùng này phải tiêu tiền do Ngân hàng Đông Dương phát hành, hòng loại bỏ đồng tiền quốc gia của Việt Nam.

Phía kháng chiến Việt Nam lại tìm cách phong tỏa các thành phố, đẩy lùi ảnh hưởng kinh tế của Pháp. Buổi đầu, sự phong tỏa rất chặt, nhưng dần dần người ta nhận thấy có lợi hơn và nên kiểm soát việc buôn bán giữa các vùng tự do và vùng bị chiếm một cách nào đó để cho một vài loại hàng có thể lưu thông đến vùng này hay vùng khác tùy theo nhu cầu của nhân dân và bộ đội.

Tuy nhiên, chủ yếu vẫn là đẩy mạnh sản xuất ở các vùng tự do. Nhiều nguyên tắc và chỉ thị đã được đề ra trong công tác kinh tế.

- Phát triển trước hết sản xuất nông nghiệp, khuyên khích thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp.

- Dựa vào sức của bản thân mình là chính.

- Phi tập trung hóa, đảm bảo tự cấp tự túc ở từng vùng, hạn chế đến mức tối đa việc trao đổi và chuyên chở hàng hóa, dành cho từng vùng một quyền tự chủ rộng rãi.

- Động viên các tài nguyên, nhân lực và năng lực theo khẩu hiệu: "Tất cả cho tiền tuyến".

- Phát động một phong trào thi đua yêu nước rộng lớn để kích thích tinh thần chủ động sáng tạo, chủ nghĩa anh hùng trong lao động của quảng đại quần chúng, đồng thời ban bố dần từng bước những cải cách dân chủ nhằm cải thiện điều kiện của quần chúng lao động.

- Thành lập những cơ quan kinh tế nhà nước - phác thảo những ngành kinh tế của khu vực Nhà nước sau này.

Chính sách kinh tế đó đã đưa lại những kết quả đáng kể trong nhiều lĩnh vực. Trước hết, mặc dầu bị địch phá hoại liên tục, lại thiếu nhân lực, các vùng tự do trước đây thường bị nạn đói nay đã tránh được. Việc tiếp tế cho dân, cho các lực lượng vũ trang và các cơ quan chính quyền được đảm bảo. Các xưởng quân giới đóng trong rừng với những phương tiện thô sơ đã sản xuất được nhiều loại vũ khí khác nhau. Ngành thủ công nghệ đã có thể sản xuất được nhiều mặt hàng: vải vóc, giấy, thuốc men và cả một vài sản phẩm công nghiệp như quặng hoặc a-xít sun-fua-ric, những động cơ nhỏ, ê- te... Tuy nhiên, khó khăn vẫn rất nhiều, đặc biệt thu nhập cho ngân sách chỉ đảm bảo khoảng 20% chi tiêu của Nhà nước trong những năm 1948 - 1950. Cần phải nghĩ tới việc in tiền giấy để bù vào chỗ thiếu hụt.

Phải ghi nhận rằng, nhân dân các vùng tạm chiếm đã góp phần đáng kể cho kháng chiến về gạo, hàng hóa và tiền. Cuộc chiến tranh kinh tế, cũng như chiến tranh du kích, diễn ra ngay trong vùng hậu phương của địch.

Tại các vùng tự do, cũng đã có một nỗ lực lất lớn trong lĩnh vực giáo dục. Cuộc đấu tranh chống nạn mù chữ khởi đầu từ năm 1945, vẫn tiếp tục với một quy mô như vậy, luôn luôn vẫn là một phong trào quần chúng, mỗi năm lôi cuốn hàng triệu con người. Nhiều lớp đào tạo cấp tốc được mở ở các công xưởng và các cơ quan. Kể từ năm 1948, nhiều lớp nghiệp vụ thường xuyên được mở. Ngay từ năm 1950, 1.802 học viên học xong các lớp đào tạo đã được sử dụng ở nhiều xí nghiệp và cơ quan Nhà nước. Nhiều trường cao đẳng (y, sư phạm, công chính) được thành lập. Khóa đầu tiên ra trường năm 1953 có đến 1.200 người tốt nghiệp. Ngành giáo dục phổ thông cũng phát triển mặc đầu thiếu giấy, thiếu sách. Việc đào tạo cán bộ các dân tộc thiểu số được đặc biệt chú ý. Nhiều chiến sĩ chấp nhận hy sinh tính mạng nếu cần, tình nguyện đi vào các vùng địch chiếm để dạy cho dân đọc và viết.

Sau nhiều năm nỗ lực, kháng chiến Việt Nam tiến vào năm 1950, với những lực lượng vũ trang tương đối mạnh, có hậu phương vững chắc, một chính quyền gắn bó chặt chẽ với nhân dân và được nhân dân hoàn toàn tin tưởng. Cuộc kháng chiến của Việt Nam sẵn sàng để thực hiện những bước tiến mới trong tất cả các lĩnh vực.