← Quay lại trang sách

Những cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội (1954 - 1965)

Nửa đất nước phía Bắc được hoàn toàn giải phóng, câu hỏi được đặt ra ngay lập tức là phải biết đi con đường nào, chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội? Cương lĩnh của Đảng Lao động Việt Nam ghi rõ rằng một khi cách mạng dân tộc dân chủ đã hoàn thành, đất nước sẽ tiến thẳng lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, đốt cháy giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.

Những trở ngại cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ yếu là tình trạng đặc biệt lạc hậu về kinh tế do hàng nhiều thế kỷ phong kiến và thực dân để lại, lại nhiều năm trường bị chiến tranh tàn phá. Năm 1954, công nghiệp hiện đại chỉ chiếm 1,5% của toàn bộ nền sản xuất và ở tất cả các làng bản ở Bắc Việt Nam không hề có một chiếc động cơ. Diện tích đất canh tác cực kỳ hẹp: mỗi người dân chỉ được 1/10ha, lại bị thiên tai lụt bão, hạn hán) là mối đe dọa thường xuyên đè nặng lên nền nông nghiệp. Việc chia cắt Nam - Bắc làm cho nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng. Một năm sau ngày giải phóng, năm 1955 sản xuất hàng năm về điện chẳng hạn chỉ lên đến 53 triệu kwh và phần của công nghiệp hiện đại chỉ chiếm có 3,4% tổng sản phẩm.

Tuy nhiên, Đảng Lao động Việt Nam xác định rằng những điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn chiếm ưu thế: một khối liên minh công nông vững mạnh, sự lãnh đạo vững vàng của một Đảng Mác-xít Lêninnít được toàn dân tín nhiệm, sự viện trợ có hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa.

Trong những điều kiện đó, vấn đề là gấp rút hàn gắn những vết thương chiến tranh, đồng thời hoàn thành cải cách ruộng đất đã được bắt đầu từ năm 1953, để sau đó chuyển sang thực hiện các biến đổi cấu trúc dẫn đến việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1957, cải cách ruộng đất đã hoàn thành, mặc dầu có những sai lầm kiểu tả khuynh, đôi khi rất nghiêm trọng trong quá trình thực hiện - những sai lầm đã được lãnh đạo Đảng công khai thừa nhận và được nhanh chóng sửa chữa - sản xuất, nhìn trên tổng thể, đã đến mức trước chiến tranh. Năm 1959, thời kỳ những biến đổi xã hội chủ nghĩa đã bắt đầu và nhanh chóng đi đến kết quả vào năm 1960 là:

- Hình thành một khu vực kinh tế nhà nước quan trọng - công nghiệp, ngoại thương và nội thương, những cơ sở khai thác nông nghiệp, lâm nghiệp - giữ vai trò chủ đạo đối với nền kình tế quốc dân.

- Chuyển hóa các xí nghiệp tư bản tư nhân trong công nghiệp và thương nghiệp thành xí nghiệp nhà nước hoặc hợp doanh. Tình trạng non yếu cực độ của chủ nghĩa tư bản Việt Nam làm cho việc chuyển hóa được tương đối dễ dàng. Thành lập những hợp tác xã thủ công nghiệp tập hợp đại bộ phận các thợ thủ công.

- Và phần cơ bản nhất là việc thành lập các hợp tác xã nông nghiệp ngay từ cuối năm 1960, đã tập hợp được khoảng 86% các hộ nông dân.

- Cuối năm 1960, miền Bắc Việt Nam đã tự xây dựng được phần chủ yếu những cấu trúc xã hội-kinh tế xã hội chủ nghĩa, ít ra là ở những dạng phác thảo ban đầu. Cùng với việc hoàn thành cải cách ruộng đất và những nỗ lực của nhân dân đang phấn khởi vì đã giành lại được độc lập, nền sản xuất nông nghiệp đã ghi được những tiến bộ đáng hài lòng. Một số nhà máy mới ra đời, được sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, hệ thống đường sắt bị phá hủy trong chiến tranh đã được khôi phục từng phần, nhiều công trình thủy nông đã được xây dựng.

Năm 1960, các chỉ số kinh tế như sau:

- Dân số: gần 16 triệu;

- Diện tích có thể canh tác: 1.877.100ha

(Xem bảng thống kê kèm theo)

* Một diện tích làm hai vụ trong năm thì tính gấp đôi

Mặc dầu đã có những biến đổi sâu sắc trong các quan hệ sản xuất kinh tế Bắc Việt Nam vẫn là một nền kinh tế kém phát triển do tình trạng quá lạc hậu về kỹ thuật và khoa học. Là một nền kinh tế còn lạc hậu với nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo, dựa trên lao động chân tay và thủ công nghiệp là chính, kinh tế của Bắc Việt Nam lúc bấy giờ mang những yếu kém trầm trọng sau đây:

- Sản xuất nông nghiệp - khu vực chính của nền kinh tế quốc dân - vẫn rất bấp bênh, lệ thuộc chặt chẽ vào những điều kiện khí hậu. Cơ sở vật chất và kỹ thuật của nông nghiệp rất yếu kém, cũng như trình độ tổ chức và quản lý các hợp tác xã, các nông trường quốc doanh; vì vậy nông nghiệp không thể làm cơ sở vững chắc cho sự phát triển công nghiệp.

- Nền công nghiệp nặng còn phôi thai, chưa thể trang bị cho các ngành khác nhau của nền kinh tế, đặc biệt là nông nghiệp.

- Hạ tầng cơ sở các đường giao thông liên lạc còn thô sơ. Số công nhân lành nghề, cán bộ kỹ thuật, số nhà khoa học chưa nhiều và chất lượng chưa cao, cán bộ quản lý cũng vậy.

- Năng suất vẫn còn rất kém và mức song còn rất thấp. Đại hội III của Đảng họp vào tháng 9 năm 1960, xác định đường lối tổng quát của sự phát triển kinh tế và đặt những cơ sở của kế hoạch 5 năm lần thứ I (1961 - 1965), xây dựng những cơ sở vật chất và kỹ thuật đầu tiên của chủ nghĩa xã hội. Vấn đề là làm sao cho con đường xã hội chủ nghĩa phải thắng và đặc biệt là cải tạo một nền kinh tế sản xuất tư nhân nhỏ bé lạc hậu thành một nền kinh tế sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Muốn thế, phải đề xướng một cuộc cách mạng trên 3 mặt: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng văn hóa và tư hưởng, cách mạng kỹ thuật và khoa học, trong đó mặt thứ ba là mặt then chốt. Vấn đề là phải động viên triệt để nhân tài và vật lực của cả đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phải tìm cách để có sự viện trợ có hiệu quả nhất của các nước xã hội chủ nghĩa anh em (Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác).

Công nghiệp nặng phải được ưu tiên phát triển một cách hợp lý, bởi vì còn phải có những nỗ lực to lớn để phát triển nông nghiệp, chỗ dựa của phát triển công nghiệp và công nghiệp nhẹ. Cần phải vừa cố gắng đầu tư lớn vừa chú ý cải thiện mức sống của nhân dân đã chịu đựng nhiều gian khổ vì chiến tranh. Cũng không thể coi nhẹ vấn đề quốc phòng, vì miền Bắc cũng bị đe dọa bởi những ý đồ xâm lược của đế quốc Mỹ.

Nhiều chiến dịch lớn đã được phát động để hoàn thiện công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, cải tiến cách tổ chức và quản lý các xí nghiệp, nhất là các hợp tác xã nông nghiệp vừa mới được thành lập. Nền công nghiệp do trung ương quản lý được phát triển nhanh, nhưng công nghiệp địa phương sử dụng kỹ thuật thủ công, bán cơ giới, cũng không bị coi nhẹ, bởi vì cả hai đều chủ yếu phục vụ cho sự phát triển nông nghiệp.

Một số xí nghiệp công nghiệp có tầm cỡ ra đời: Liên hiệp Gang thép Thái Nguyên, hoàn thành Nhà máy Super phốt phát... nhiều trung tâm điện lực mới. Năm 1964, các số liệu là như sau:

- Diện tích được tưới tiêu: 2.368.000ha

- Điện: 595,2 triệu kwh

- Xi măng: 600.500 tấn

- Hàng dệt: 107,2 triệu mét

- Tổng sản lượng lương thực: 5.515.000 tấn

- Than: 3,6 triệu tấn

- Máy công cụ: 769 cái.

- Phần của công nghiệp hiện đại trong giá trị sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp: 36,7%

- Phần của công nghiệp hiện đại trong tổng sản phẩm: 18,4%

Nền kinh tế Bắc Việt Nam chớm bắt đầu ''cất cánh'', dần dần mang diện mạo của một nền kinh tế quốc dân và độc lập. Hẳn rằng trình độ chung vẫn còn rất thấp, về phương diện kỹ thuật cũng như về quản lý, nhưng đã đặt được nhưng cơ sở đảm bảo cho một sự phát triển về sau.

Sự xâm lược của Mỹ đã buộc nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa nền kinh tế quốc dân của mình đi theo một hướng khác.