Từ đàn áp đến chiến tranh
Hiệp định đình chiến ở Đông Dương được ký kết, Washington không cam chịu thất bại và họ đã không bỏ phí thời gian. Mục tiêu của họ rất rõ ràng: biến miền Nam Việt Nam thành một thuộc địa kiểu mới của Mỹ, một căn cứ chính trị và chiến lược để thống trị vùng Đông Nam Á. Công việc được tiến hành mau lẹ.
Tháng 9 năm 1954, khối quân sự Đông Nam Á (Mỹ, Anh, Pháp, Úc, Paskitan, Thái Lan, Philippin) ra đời với một nghị định thư nằm trong hiệp ước cho phép can thiệp vào Đông Dương. Vô số phái đoàn kinh tế mỹ và cố vấn Mỹ đủ loại kéo vào trùm lên chính quyền Sài Gòn. Các phái đoàn và cố vấn ấy nắm lấy mọi ngành hoạt động và dự án, từ việc soạn thảo hiến pháp, việc huấn luyện quân đội và cảnh sát, cho đến việc hiệu chỉnh “cuộc cải cách ruộng đất” hoặc chương trình giáo dục của các trường học. Bằng cách nhượng một vài lợi ích kinh tế và văn hóa cho Pháp, người Mỹ nhanh chóng gạt hết mọi ảnh hưởng trực tiếp của Pháp. Các phe đảng ủng hộ Pháp đều bị loại bỏ bằng cách mua chuộc hoặc bằng súng đạn. Đối với những người đang cầm quyền ở Paris, chủ nghĩa chống Cộng được đặt lăn trên việc bảo vệ những quyền lợi của nước Pháp.
Ngày 28 tháng 4 năm 1956, quân đội Pháp vĩnh viễn rút khỏi Việt Nam; Paris chối bỏ trách nhiệm thi hành Hiệp định Giơnevơ, dự kiến trong năm 1956, phải có tổng tuyển cử để tiến tới hòa bình thống nhất đất nước.
Ngược lại, tìm mọi cách chống lại việc tái thống nhất Việt Nam chính là cơ sở của chính sách Mỹ ở Việt Nam. Công khai vi phạm Hiệp định Giơnevơ, Washington dồn dập đưa vũ khí và nhân viên quân sự vào Nam Việt Nam để xây dựng một đội quân bù nhìn lớn, thiết lập những căn cứ hậu cần, hải và không quân, một mạng lưới dày đặc đường giao thông chiến lược.
Người Mỹ còn vi phạm Hiệp định Giơnevơ bằng cách khuyên Ngô Đình Diệm lập lên một nhà nước Nam Việt Nam riêng biệt, có “quốc hội” và "hiến pháp'' riêng. Một trò hề trưng cầu dân ý đã cho phép loại bỏ Bảo Đại và đưa Ngô Đình Diệm lên nắm quyền lực tối cao. Như vậy là ngay từ năm 1954, chính sách thực dân mới của Mỹ đã hiện rõ nét như sau:
- Hất cẳng Pháp, trực tiếp nắm lấy Nam Việt Nam.
- Thiết lập chế độ độc tài bù nhìn, toàn tâm toàn ý trung thành với Mỹ.
- Tiêu diệt phong trào dân tộc và cách mạng ở miền Nam Việt Nam.
- Cuối cùng tiến lên chinh phục lại Bắc Việt Nam
Tiêu diệt phong trào cách mạng và dân tộc là điều kiện không thế thiếu để Mỹ thâu tóm cả đất nước này. Với sự giúp đỡ của các cố vấn Mỹ, chính quyền Diệm ngay từ khi lên nắm quyền đã áp dụng một danh sách đẫm máu đối với toàn dân. Kinh nghiệm đàn áp của các loại chủ nghĩa thực dân cũ và mới, những thủ đoạn của bọn phát xít Đức trước đây, kiểu cách thời trung cổ của bọn phong kiến Việt Nam mà Ngô Đình Diệm là đại diện, tất cả đều đã được vận dụng, hòng khủng bố tinh thần nhân dân, loại trừ những người chống đối.
Một bộ máy đàn áp trùm lên cả nước, từ thủ đô đến các làng xóm xa xôi hẻo lánh nhất. Tàn sát hàng loạt, tra tấn, tù đày bỏ tù hàng loạt, càn quét những vùng rộng lớn, chưa bao giờ dân chúng Nam Việt Nam phải chịu đựng một thời kỳ đen tối như vậy. Chỉ có mấy năm gọi là ''hòa bình'' - từ năm 1955 đến năm 1959, mà số người chết ở Nam Việt Nam nhiều hơn những năm chiến tranh.
Đối phó với danh sách khủng bố của MỸ-Diệm, mấy năm đầu sau đình chiến, để tránh vi phạm những hiệp định đã ký kết, dân chúng Nam Việt Nam đành phải chống lại bằng những biện pháp chính trị: biểu tình, mít tinh, kiến nghị... Đặc biệt nông dân đã tự vệ quyết liệt để khỏi bị địa chủ và cường hào cướp mất ruộng đất. Từ năm 1945 đến năm 1954, trong nhiều vùng, nông dân đã được chính quyền cách mạng cấp ruộng đất và đã được sống dưới một chế độ dân chủ. Trong những năm đó bọn địa chủ phong kiến đã trốn vào các thành phố để sống dưới sự bảo vệ của đội quân viễn chinh Pháp. Với chính quyền Diệm, chúng quay trở về làng xã giành lại ruộng đất của mình và tái lập quyền kiểm soát hành chính và chính trị.
Mỹ Diệm đã dựng lên một bộ máy đàn áp gồm các lực lượng vũ trang, một đội cảnh sát có mặt ở khắp mọi nơi. Ngoài các đơn vị Chính quy, quân đội, ở cấp tỉnh có những đơn vị bảo an và ở cấp xã là những đội dân vệ. Nhiều tổ chức mật vụ hình hành. Bất cứ ai đã từng ít nhiều tham gia kháng chiến chống Pháp đều bị buộc tội là “cộng sản” hoặc ''đồng lõa với cộng sản''; bố mẹ các cán bộ và chiến sĩ đã tập kết ra Bắc là đối tượng của một cuộc săn lùng ráo riết. Bất cứ ai bị buộc tội là “cộng sản” đều có thể bị tống vào nhà lao, nhà tù khổ sai, bị giam giữ trong một thời gian vô hạn và thường bị tra tấn đến chết. Những chiếc ''chuồng cọp'' đã có ngay từ những ngày đầu của chế độ này.
Sau tháng 7 năm 1956, khi đã từ chối tổ chức cuộc tổng tuyển cử như Hiệp định Giơnevơ quy định, chính quyền Sài Gòn lại càng lao vào đàn áp. Sự chống đối của nhân dân cứ mạnh dần lên, các biện pháp đàn áp càng tàn bạo và đẫm máu hơn. Nhiều đợt càn huy động đến hàng 10.000 và 15.000 quân, chà xát những vùng rộng lớn; dân chúng bị tập trung trọn cả từng làng, từng xã, nói là để xây dựng những ''đô thị nông nghiệp'' hoặc những ''khu di dân nông nghiệp". (''Đô thị nông nghiệp'' cho các vùng nông thôn, ''khu di dân nông nghiệp'' cho các vùng núi.)
Tất cả các giai cấp và tầng lớp xã hội, ngoại trừ một nhóm nhỏ tập hợp xung quanh gia đình họ Ngô và những phần tử lưu manh sẵn sàng làm bất cứ việc gì để có được vài đồng đô la, đều là đối tượng đàn áp: nông dân, công nhân, trí thức, tư sản yêu nước, hoặc bất kỳ ai có nguyện vọng đơn giản muốn lập quan hệ bình thường với miền Bắc, các dân tộc thiểu số, các giáo phái không phải là Công giáo... Có cả những bộ trưởng đã phải lưu vong để thoát khỏi tay cảnh sát. Được người Mỹ ban phước lành và làm cố vấn, Diệm và các anh em của ông ta - kể cả em dâu - cai quản tất cả, nắm trong tay quyền sinh quyền sát đối với mọi người. Đã một thời, Washington tưởng rằng việc Mỹ nắm lấy miền Nam Việt Nam là chuyện đã rồi và phong cho Diệm là ''Churchill'' của châu Á.
Không hiểu biết những khả năng của nhân dân Việt Nam đến như thế kể cũng lạ! Kể từ năm 1860, dân chúng Nam Việt Nam đã không ngừng tiến hành một cuộc đấu tranh quyết liệt, về chính trị và quân sự, chống chủ nghĩa thực dân Pháp; từ năm 1945 đến năm 1954, cuộc đấu tranh dân tộc dân chủ đó đạt đến một trình độ rất cao và tất cả các tầng lớp nhân dân đều đã tham gia. Cần nhắc lại rằng, từ tháng 3 năm 1950, trong lúc cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp đang diễn ra hết sức quyết liệt hàng trăm nghìn người đã biểu tình chống sự can thiệp của Mỹ. Làm sao có thể che đậy cũng một sự can thiệp ấy khi giờ đây nó càng được cụ thể hóa và trắng trợn hơn. Chính sách phản dân tộc của gia đình Ngô Đình Diệm nhằm chia cắt vĩnh viễn đất nước và việc đàn áp đẫm máu chống lại đa số nhân dân đã gây nên sự chống đối ngày càng dữ đội.
Năm 1959, thậm chí việc đàn áp ấy còn tự khoác cho mình một thứ vỏ bọc pháp lý. Tháng 5, "quốc hội'' Sài Gòn thông qua đạo luật 10/59 cho phép các tòa án quân sự có quyền xét xử và hình quyết tại chỗ ngay lập tức những người bị cảnh sát bắt hoặc bị bắt trong các cuộc càn quét. Nguy cơ bị tiêu diệt đè nặng lên phong trào yêu nước và toàn thể dân chúng. Cuộc đấu tranh chính trị dần dần chuyển sang đấu tranh vũ trang tự vệ. Những trận giao chiến đầu tiên với quân đội và cảnh sát Diệm đã xảy ra ở những làng xã hẻo lánh và vùng rừng núi. Tháng Giêng năm 1960, ở tỉnh Bên Tre trong vùng châu thổ sông Mê Kông các lực lượng quần chúng lật đổ chính quyền Diệm ở nhiều địa phương, thiết lập chính quyền nhân dân tự quản phong trào “đồng khởi” ấy nhanh chóng lan rộng ra nhiều tỉnh và nhanh chóng làm lung lay tận gốc cơ sở chính quyền Diệm ở các vùng nông thôn.
Khủng hoảng của chính quyền Diệm lan đến các thành phố và cả một bộ phận quân đội Sài Gòn. Ngày 11 tháng 11 năm 1960, một số sĩ quan và một vài đơn vị lính Sài Gòn mạo hiểm làm đảo chính. Họ thất bại nhưng rõ ràng là chế độ Diệm đã bị suy yếu tận gốc.
Đối đầu với chế độ thực dân mới do Mỹ dựng lên là một phong trào dân tộc và nhân dân rộng lớn tập hợp tất cả các giai cấp xã hội, các dân tộc, các khuynh hướng tôn giáo khác nhau, các nhóm chính trị, cùng với mọi tầng lớp nhân dân đã dày dặn kinh nghiệm lâu dài đấu tranh chính trị có vũ trang. Ngày 20 tháng 12 năm 1960, tất cả các tố chức, các nhóm xã hội đối lập và lực lượng kháng chiến chống chế độ Mỹ-Diệm tập hợp lại trong mặt trận Dân tộc giải phóng với cương lĩnh lật đổ chính quyền Diệm, loại bỏ mọi sự can thiệp của nước ngoài, thành lập một Chính phủ liên hiệp dân tộc, thiết lập một chế độ dân chủ, một chính sách đối ngoại hòa bình và trung lập, từng bước tiến lên tái thống nhất đất nước bằng con đường hòa bình.
Đầu năm 1961, Quân đội Giải phóng Nhân dân ra đời.