← Quay lại trang sách

“Chiến tranh đặc biệt”

Tổng thống Kennedy vừa mới lên nắm quyền ở Washington đã phải đứng trước một sự lựa chọn: hoặc bỏ chế độ Diệm, từ bỏ âm mưu nắm lấy Nam Việt Nam hoặc tiến hành chiến tranh chống nhân dân Việt Nam. Kennedy chọn con đường thứ hai. Với Kennedy, chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ hướng về Thế giới thứ ba - khu vực được xem là lò lửa cách mạng, cần phải kiên quyết đập tắt ngay. Êkíp Kennedy-Taylor-Mactamara đã dựng lên cả một bộ máy chính trị và quân sự, và cả một “học thuyết” hòng chinh phục Thế giới thứ ba, nghiền nát hoặc làm chệch mục tiêu của các phong trào dân tộc ở châu Á và châu Mỹ La tinh. Đặc biệt, các phương pháp và vũ khí ''chống nổi loạn'' để đối phó với chiến tranh du kích và các hình thức đấu tranh vũ trang khác của các dân tộc thuộc địa đã được Washington đặc biệt chú ý.

Thế là chiến lược "Chiến tranh đặc biệt'' ra đời. Với sự can thiệp trực tiếp của quân đội Mỹ, kiểu viễn chinh thực dân cũ ngày càng khó thực hiện ở thời đại chúng ta. Vậy là Washington tìm cách tiến hành chiến tranh qua tay người khác. Sức mạnh và tài chính của Mỹ đủ sức trả lương cho cả một bộ máy chính quyền và quân đội bù nhìn đông đảo, trang bị cho quân đội đánh thuế những vũ khí hiện đại nhất, chỉ cần trùm lên đội quân ấy bằng những ''cố vấn'' Mỹ được đào tạo đặc biệt cho loại chiến tranh ấy - loại chiến tranh trong đó những thủ đoạn chính trị - quân sự được nghiên cứu tỉ mỉ, dựa trên công nghệ chiến tranh tối hiện đại, sẽ cho phép đánh bại chiến tranh cách mạng của các dân tộc thuộc địa.

Vậy là Washington chọn Nam Việt Nam làm nơi thí điểm chiến lược mới của ''Chiến tranh đặc biệt''. Mọi việc chuẩn bị hoàn tất vào đầu năm 1962; tháng 2 năm ấy, một bộ chỉ huy hành quân của Mỹ đến đóng ở Sài Gòn với một đoàn “cố vấn” chỉ huy các đội quân bù nhìn; số cố vấn tăng lên nhanh chóng, năm 1964 đã có 25.000 người.

Tất cả các loại ngụy quân - chính quy, khu vực và địa phương, đều được tăng cường, năm 1964, tổng quân số lên đến nửa triệu. Một lực lượng không quân gồm 500 máy bay, một binh đoàn xe bọc thép hàng mấy trăm chiếc, đặc biệt là những xe lội nước, rất nhiều đơn vị đánh sông, súng liên thanh cực nhanh, một lực lượng pháo binh hùng hậu, nhiều thiết bị điện tử đảm bảo cho đội quân này có tính cơ động cao nhất, một hỏa lực cực mạnh, những phương tiện trinh sát và tình báo tối hiện đại. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, những chất độc hóa học diệt cây cối và hoa mầu được dùng đến.

Với số người và số quân trang quân dụng được đưa vào miền Nam Việt Nam như vậy, Washington đã huy động cho cuộc “chiến tranh đặc biệt” này nhiều phương tiện chiến tranh hơn Pháp ở thời điểm Điện Biên Phủ năm 1954. Kết năm 1962, hàng tháng Bộ chỉ huy Mỹ và bù nhìn đã tung ra nhiều đợt hành quân, mỗi đợt có khi huy động từ 15 đến 20 nghìn quân.

Washington theo đuổi một mục tiêu kép: một mặt, bằng những cuộc hành quân nhanh hòng xóa sổ lực lượng võ trang giải phóng, mặt khác buộc toàn bộ dân chúng nông thôn tập trung vào hơn 16.000 ấp chiến lược - những trại tập trung thực sự có hàng rào dây thép gai bao quanh, ở đó chính quyền Sài Gòn có thể thiết lập một sự kiểm soát trực tiếp và ngặt nghèo.

Đặc biệt, các máy bay lên thẳng đảm bảo cho quân đội bù nhìn một ưu thế tuyệt đối, cho phép chúng có thể bất ngờ đánh bất cứ đâu, sà xuống đầu các chiến sĩ du kích đang bị lùng bắt, như “chim cắt vồ chim sẻ” - cách nói của bọn chủ trương chiến thuật này. Những trận ném bom hàng loát, những cuộc pháo kích liên tục, những đợt rải chất độc hóa học, những đợt khủng bố tràn lan sẽ bóp chết mọi ý định muốn kháng cự chớm nở trong dân chúng và buộc họ phải trở vào các ấp chiến lược. Quả thực, cuộc chiến tranh tàn bạo, những phương tiện phá hoại và giết chóc hàng loạt ấy đã làm nhiều người chết và trong những năm đầu, nhất là trong năm 1962, đã gây nhiều khó khăn cho cuộc kháng chiến của nhân dân. Số đợt hành quân trong năm ấy lên tới 20.000. Viện trợ của Mỹ cho chính quyền Sài Gòn lên đến 600 triệu đô la, tức là gấp 4 lần con số của năm 1960. Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ nghĩ rằng công cuộc bình định miền Nam Việt Nam sẽ hoàn thành vào cuối năm 1962 (kế hoạch Staley - Taylor).

Nhung nhân dân Nam Việt Nam và các lực lượng võ trang của mình đã nhanh chóng tìm ra cách đánh trả các vũ khí và chiến lược của Mỹ. Phối hợp đấu tranh võ trang với đấu tranh chính trị, xây dựng khắp nơi những làng chiến đấu, đánh cả ở nông thôn cũng như ở thành thị, ở đồng bằng cũng như ở miền núi, dùng vũ khí thô sơ, chống bẫy và vũ khí hiện đại lấy được của địch, nhân dân và các lực lượng giải phóng đã xiết chặt bộ máy quân sự và hành chính khổng lồ của Mỹ và bù nhìn trong một mạng lưới mênh mông làm cho chúng bị tê liệt và phải chịu những tổn thất nặng nề. Công tác tuyên truyền, địch vận đối với các lực lượng bù nhìn cuối cùng đã làm cho họ sa sút tinh thần chiến đấu.

Tháng Giêng năm 1963, ở ấp Bắc cách Sài Gòn 80 cây số, hai con chủ bài lớn của cuộc ''chiến tranh đặc biệt'' - trực thăng và xe lội nước - đã chứng tỏ chúng dễ bị đánh bại. Sau trận ấp Bắc, năm 1963 được đánh đấu bằng những thất bại nặng nề của quân đội bù nhìn. Chiến thắng của quân giải phóng đã hỗ trợ mạnh mẽ nhân dân tiến hành một cuộc đấu tranh dẻo dai, quyết liệt chống lại việc tập trung dân. Nhiều ấp chiến lược bị phá vỡ hoặc biên thành làng chiến đấu; nhiều ấp chuyển qua chuyển lại nhiều lần từ phía này sang phía kia, người Mỹ và quân đội bù nhìn cố gắng hết sức để chiếm lại những ấp đã từ giải phóng. Toàn bộ dân chúng - đàn ông và đàn bà, người già và trẻ con, ở mọi miền và mọi địa phương đã lao vào cuộc đấu tranh ác liệt này.

Cuối năm 1963, có 80% sấp chiến lược bị phá. Những thất bại quân sự liên tiếp, thất bại của chính sách gom dân đã chỉ cho Washington thấy rằng Diệm không còn thích hợp với tình thế nữa. Phải thay thế nền độc tài dân sự của Ngô Đình Diệm bằng một chế độ độc tài quân sự thi hành trực tiếp mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Hoa Kỳ. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, Diệm và em trai là Nhu bị giết, các cơ quan Hoa Kỳ đặt lên ghế chính quyền một nhóm đảo chính quân sự, đứng đầu là tướng Dương Văn Minh. Năm 1964, Macnamara đến Sài Gòn để vạch những kế hoạch bình định mới và Washington gửi sang Việt Nam nhiều phương tiện kỹ thuật mới. Nhưng chính quyền và quân đội bù nhìn bị lung lay tận gốc, đang lún sâu trong một cuộc khủng hoảng không phương cứu chữa và kéo dài. Các cuộc đảo chính kế tiếp nhau ở Sài Gòn, nơi các cơ quan Mỹ đã hoài công tìm kiếm một công thức Chính phủ thích hợp để có thể tiến hành cuộc chiến tranh một cách có hiệu quả nhất: nhóm đảo chính quân sự, Chính phủ hỗn hợp quân sự với dân sự, chế độ độc tài của một viên tướng - được chọn từ hàng ngũ tướng lĩnh kỳ cựu hoặc những viên tướng trẻ ''đầu bò''.

Về phía mình, dân chúng và các lực lượng giải phóng, một khi đã nhanh chóng nắm chắc được phương pháp đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, liền chuyển sang tấn công. Đầu năm 1965, thất bại của chiến tranh ''đặc biệt'' đã hiển nhiên:

- Quân đội ngụy rệu rã, mất hết sức chiến đấu.

- Chính quyền bù nhìn bị khủng hoảng sâu sắc.

- Chính sách “ấp chiến lược” phá sản hoàn toàn.

- Các lực lượng vũ trang giải phóng, không những không bị xóa sổ mà trái lại càng ngày càng thiện chiến hơn và có thể làm thất bại mọi vũ khí và chiến thuật của Mỹ.

- Vùng giải phóng của ''Mặt trận'' chiếm gần 4/5 lãnh thổ với 2/3 dân số toàn miền Nam.

Dư luận Mỹ bắt đầu lo lắng, còn uy tín quốc tế của Hoa Kỳ bắt đầu chịu hậu quả. Ngược lại, tiếng nói của Mặt trận Giải phóng ngày càng được coi trọng trên trường quốc tế.

Một lần nữa, Washington lại đứng trước sự lựa chọn: hoặc từ bỏ mưu đồ thống trị miền Nam Việt Nam, tiến tới hòa bình, hoặc tiếp tục và leo thang chiến tranh, để hòng cứu vớt bằng mọi giá chế độ bù nhìn đang sụp đổ, bám lấy Việt Nam và Đông Dương bằng bất cứ giá nào.