Chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân
Việc leo thang chiến tranh bằng không quân và hải quân chống Bắc Việt Nam nhằm hai mục đích:
- Ngăn chặn mọi sự chi viện của nhân dân miền Bắc cho nhân dân và các chiến sĩ miền Nam.
- Giáng những đòn nặng, nếu không nói là chí tử, vào chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đưa miền Bắc Việt Nam trở về "thời đại đồ đá".
Nhân dân Bắc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao Động Việt Nam và chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, kiên quyết đánh trả các cuộc không kích của Mỹ. Nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội, văn hóa được tổ chức lại trên cơ sở mới.
Vấn đề đặt ra là phải xét xem có nên ngừng công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội để tập trung mọi nỗ lực vào quốc phòng hay không. Đường lối chung đã được Đảng xác định là tăng cường mạnh mẽ quốc phòng, đồng thời tiếp tục công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bất chấp những biểu hiện huyênh hoang bên ngoài, việc leo thang chiến tranh chống miền Bắc Việt Nam, cũng như việc đổ bộ lính Mỹ vào Nam Việt Nam, không phải là những cuộc hành động ở thế tấn công mà là biểu hiện của thế chiến lược thất bại và bị động. Những đợt không tập đánh Bắc Việt Nam chỉ được tiến hành dưới dạng "leo thang", nghĩa là từng bước một, vừa thăm dò sức chống đỡ từ mặt đất, vừa dè chừng phản ứng của dư luận thế giới. Công khai tấn công một nước có chủ quyền, thành viên của phe xã hội chủ nghĩa như nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chỉ có thể đẩy Washington vào thế cô lập về chính trị ngày càng nghiêm trọng thêm. Vậy nên miền Bắc Việt Nam có thể vừa tự vệ mà vẫn tiếp tục công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc Việt Nam đã huy động lực lượng của toàn dân, tập trung nỗ lực của mình vào nhiều điểm quan trọng:
- Xây dựng một hệ thống phòng không gồm nhiều loại vũ khí khác nhau, tấn công máy bay Mỹ ở tất cả các độ cao và ở mọi khu vực: tên lửa, máy bay khu trục, pháo cao xạ hạng nặng và hạng nhẹ, súng bộ binh. Máy bay Mỹ hoạt động ở đâu cũng vấp phải lưới lửa chết người. Đặc biệt lưới phòng không nhân dân có mặt khắp nơi do dân quân địa phương đảm nhiệm, với sự tham gia quan trọng của những nữ thanh niên, sử dụng vũ khí bộ binh hoặc pháo loại nhẹ, đã ngăn không cho máy bay Mỹ bay tầm thấp và bổ nhào để đánh trúng những mục tiêu. Tàu chiến của hải quân Mỹ cũng vấp phải lực lượng đánh trả ở ven biển được tổ chức theo khuôn mẫu ấy; tất cả những nhóm biệt kích đổ bộ hoặc nhảy dù xuống, đều bị vô hiệu hóa hoặc nhanh chóng bị bắt gọn.
- Đảm bảo bằng mọi giá các tuyến giao thông vận tải để tiếp tế cho "tiền tuyến lớn" ở miền Nam và cung ứng cho nhu cầu kinh tế của nhiều khu vực khác nhau. Sát cánh với những đơn vị chuyên môn và lực lượng kỹ thuật, toàn dân tham gia sửa chữa đường sá, cầu cống bị hư hai, xây dựng những tuyến đường mới, chuyên chở vật liệu, hàng hóa, vũ khí. Những phương tiện hiện đại nhất cũng như thô sơ nhất đều được sử dụng.
- Tăng cường chi viện miền Nam cho đến thắng lợi cuối cùng. Mỹ càng đổ bom đạn xuống miền Nam, lính Mỹ đổ bộ vào miền Nam càng nhiều, thì viện trợ của miền Bắc cho miền Nam càng tăng lên, bất chấp máy bay và tàu chiến Mỹ điên cuồng đánh phá nỗ lực khổng lồ đó.
Con đường Bắc Nam chạy dọc bờ biển bị Mỹ kiểm soát. Dọc theo dãy Trường Sơn, qua nhiều rừng tậm và núi cao, phải mở con " đường mòn Hồ Chí Minh" dần dần trở thành một mạng lưới giao thông thực sự, dài nhiều nghìn cây số, kèm theo bên cạnh một đường ống dẫn dầu nhỏ. Việc xây dựng hệ thống đường sá này và việc chuyên chở viện trợ cho miền Nam bằng con đường này dưới sự tiến công không ngớt của không quân Mỹ đòi hỏi những cố gắng và hy sinh vô bờ bến. Đây thực sự là một bản anh hùng ca.
Nỗ lực quốc phòng và sự chi viện cho miền Nam chỉ có thể đảm bảo được khi nền kinh tế không bị đình đốn sau những trận ném bom liên tiếp. Một phương thức tổ chức kinh tế mới phù hợp với điều kiện chiến tranh đã được áp dụng với những biện pháp chủ yếu là:
- Di chuyển và phân tán các xí nghiệp lớn ra khỏi các thành phố, những trung tâm công nghiệp về các thôn xóm và vào rừng. Dân chúng thành thị, các công nhân, kỹ thuật viên, các công chức chính quyền, được phân tán về các làng, đi theo máy móc và cơ quan của họ, sống với dân hoặc trong các lán trại tạm thời. Các trường học phổ thông và đại học, các phòng thí nghiệm, các bệnh viện cũng đều được phân tán để tiếp tục hoạt động ở thôn quê và vùng rừng núi. Kế hoạch "sơ tán" thành công toàn diện. Mặc dầu các công việc có quy mô lớn bị đình chỉ, đời sống kinh tế và xã hội của đất nước vẫn không một lúc nào ngưng trệ, không hề có biểu hiện nhỏ nào của sự tan rã về tổ chức hay hoảng loạn.
- Phát triển kinh tế, nhất là công nghiệp địa phương ở cấp tỉnh và huyện. Mỗi tỉnh trở thành một đơn vị kinh tế cỡ 1,5 triệu dân, tìm cách tự túc các nhu yếu phẩm hàng đầu và những hàng tiêu dùng hàng ngày bằng cách khai thác các tài nguyên thiên nhiên, phát triển các xưởng máy, các xưởng thủ công rồi nửa cơ giới, cuối cùng là cơ giới. Chính sách công nghiệp hóa địa phương được đề ra từ Đại hội III của Đảng năm 1960, giờ đây càng phát triển mạnh trong điều kiện chiến tranh.
- Nhờ tổ chức lại chặt chẽ ngành nội thương nên giữ vững được ổn định giá cả của các mặt hàng cơ bản do thương nghiệp quốc doanh bán ra: gạo, hàng dệt, muối, dầu hỏa được cung cấp đều đặn cho toàn dân, nhờ vậy điều kiện sinh hoạt của nhân dân đã không bị đảo lộn nhiều trong chiến tranh.
- Phát triển giao thông vận tải như chúng tôi đã nói đến trên đây.
Viện trợ quốc tế, nhất là của Liên Xô, của Cộng hòa nhân dân Trung HOa và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã góp phần to lớn vào việc duy trì sự ổn định về kinh tế. Tuy nhiên viện trợ đó lẽ ra còn hữu hiệu hơn nhiều, nếu chính phủ Bắc Kinh, như đã nói trên đây, không từng bước thay đổi chính sách của họ trong nhưng năm 60.
Một khía cạnh quan trọng của đời sống kinh tế trong những năm chiến tranh ấy là sự củng cố và những tiến bộ của các hợp tác xã nông nghiệp. Việc rút bớt rất nhiều nhân lực nông nghiệp đi phục vụ nhu cầu của quốc phòng và giao thông đã không cản trở hợp tác xã nông nghiệp tiếp tục các công trình thủy lợi và cải tạo đất đai, từng bước áp dụng những kỹ thuật trồng trọt mới. Công cuộc cơ giới hóa, đặc biệt việc trang bị máy bơm nước, máy xay xát, gặt đập đã phát triển. Những giống lúa mới sinh trưởng ngắn hạn và cho năng suất cao, đã được du nhập, tạo nên một cơ cấu mới về cây trồng làm tăng vụ, chuyển dần từng bước nền độc canh cây lúa sang đa canh. Đấy là tiến bộ quan trọng nhất của nền nông nghiệp Bắc Việt Nam trong những năm quyết định ấy. Chỉ trong vòng mấy năm, quang cảnh nông thôn Bắc Việt Nam đã thay đổi.
Chế độ xã hội chủ nghĩa vừa mới được lập lên đã vượt qua một cách vẻ vang thử thách của chiến tranh; các cấu trúc của nó đã tỏ ra vững vàng. Không quân và hải quân Mỹ đã hoài công tăng cường bắn phá dồn dập, mở rộng dần đến cả những vùng công nghiệp quan trọng, những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, nhưng bộ chỉ huy Mỹ đã không đạt được một mục tiêu chiến lược lớn nào, trong khi nhân dân Việt Nam hoàn thành được tất cả các nghĩa vụ dân tộc và quốc tế của mình.
Năm 1968, ngay sau khi ngừng ném bom, công việc xây dựng lại bắt đầu ngay tức khắc và đến năm 1972, sau những cuộc ném bom dữ dội của đợt leo thang thứ hai, bảng tổng kết thành tích như sau:
Số máy bay Mỹ bị bắn rơi từ năm 1965 đến năm 1972: 4.181 chiếc.
Hạ tầng cơ sở xã hội kinh tế đã đứng vững. Tuy nhiên, sự phá hoại ghê gớm của bom đạn Mỹ không phải là không cản trở nghiêm trọng sự phát triển kinh tế của đất nước, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp.