← Quay lại trang sách

Chiến tranh nhân dân chống “chiến tranh cục bộ”

Việc đổ bộ một đội quân viễn chinh Mỹ vào Nam Việt Nam hỗ trợ cho quân đội bù nhìn đã làm thay đổi hoàn toàn tính chất của cuộc chiến tranh. Chống lại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” do Lầu Năm Góc tiến hành ở Nam Việt Nam, nhân dân và các lực lượng vũ trang Nam Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc giải phóng, với sự giúp đỡ của miền Bắc, đã áp dụng "Chiến tranh nhân dân'' được nâng lên trình độ cao nhất.

Tháng 11 năm 1965, tin rằng đã có đầy đủ lực lượng, Bộ chỉ huy Mỹ mở cuộc tấn công mùa khô đầu tiên.

Một trăm tiểu đoàn được tung ra theo 5 hướng khác nhau ở Nam Bộ và miền Trung Việt Nam với ý đồ đè bẹp các lực lượng chính quy của Mặt trận Dân tộc giải phóng, đánh chiếm trở lại một bộ phận rộng lớn lãnh thổ đã dược giải phóng, đẩy lùi quân kháng chiến Việt Nam lên các vùng rừng núi xa xôi nhất. Chưa bao giờ một đội quân ra trận lại có một hỏa lực mạnh đến thế, một sức cơ động lớn và một ưu thế về quân số lớn gấp nhiều gần đến thế so với đối phương. Làm gì đây trước một bộ máy chiến tranh khổng lồ như vậy? Nhân dân Việt Nam phải chấp nhận không điều kiện những áp đặt của Mỹ chăng? Nhất là cuộc diện tranh lại được Mỹ tiến hành hết sức tàn bạo: pháo binh dồn dập bắn phá, bom rải thảm bới máy bay B52, chất độc hóa học nhiều vô kể, rối bom na-pan, bom bi... Ngay từ những trận giao chiến đầu tiên, bộ máy tuyên truyền của Mỹ đã ca mừng thắng lợi.

Mùa khô năm 1965 - 1966 trôi qua. Đến tháng 4 năm 1966, Bộ chỉ huy Mỹ đã buộc phải lệnh cho quân đội của họ rút lui và phải thú nhận đã không đạt được bất cứ một mục tiêu chính nào. Về phía mình, Mặt trận Dân tộc giải phóng đã công bố một bảng tổng kết cho biết có 100.000 tên địch bị loại khỏi cuộc chiến đấu, trong đó có hơn 40.000 lính Mỹ. Qua thử thách huyền thoại về tính ''bất khả chiến bại'' của bộ máy chiến tranh Mỹ đã tan thành mây khói. Sau thất bại của cuộc phản công mùa khô đầu tiên, Bộ chỉ huy Mỹ chỉ kết luận đơn giản rằng đó là vì các lực lượng tung ra chưa đủ. Thế là họ lại điều thêm nhiều đơn vị mới lính Mỹ và lính bù nhìn. Cuối năm 1966, quân số Mỹ ở Nam Việt Nam lên tới 380.000 và đầu năm 1967 là 440.000, cộng với quân đội ngụy và lính đánh thuê của các nước chư hầu, tổng quân số của phía Mỹ-ngụy lên đến hơn 1 triệu. Số máy bay (kể cả trực thăng) lên đến 4.500 chiếc, gần 3.000 khẩu pháo và 3.500 xe bọc thép. Trên dải đất Việt Nam mỗi tháng giặc Mỹ đã trút xuống 11.700.00 quả đạn pháo và 50.000 tấn bom.

Tuy sức mạnh quân sự đã tăng lên như thế, đến mùa khô năm 1966 - 1967, Bộ chỉ huy Mỹ tỏ ra thận trọng hơn, để mục tiêu đợt phản công mới khiêm tốn hơn so với đợt phản công đầu tiên, tập trung lực lượng chủ yếu vào miền tây bắc Sài Gòn thuộc tỉnh Tây Ninh, nơi được cho là có trụ sở trung ương của Mặt trận Giải phóng. Lần này, họ chú ý nhiều hơn đến kế hoạch ''bình định'' và việc này được đặc biệt giao cho các đơn vị ngụy quân. Đi đôi với việc di chuyển dân, việc tàn phá các làng mạc và những cuộc tàn sát hàng loạt diễn ra hàng ngày.

Từ cuối tháng 10 năm 1966 đến tháng 4 năm 1967, Bộ chỉ huy Mỹ liên tiếp tung ra ba cuộc hành quân lớn hướng vào Tây Ninh, quan trọng nhất là cuộc hành quân Junction City (Gian-xơn Xi ty) huy động đến 45.000 quân, 800 xe bọc thép và mấy trăm máy bay. Phía ngụy quân gồm 175.000 tên, có 40.000 “dân vệ” hỗ trợ - chúng được đào tạo đặc biệt cho mục đích “bình định” vùng này. Chưa bao giờ cố gắng quân sự của Mỹ ở Nam Việt Nam được nâng lên mức độ cao như vậy, trong khi họ vẫn tăng cường ném bom miền Bắc Việt Nam.

Những đợt hành quân lớn ở Tây Ninh đều thất bại thảm hại, đến nỗi Washington phải thay một lúc hai viên tướng chỉ huy khu vực này ngay giữa lúc chiến sự đang tiếp diễn. Số lính Mỹ và ngụy quân bị loại khỏi vòng chiến đấu trong mùa khô này là 175.000 tên, 1.800 máy bay (kể cả trực thăng) bị bắn hạ hoặc bị phá hỏng trên mặt đất. Bộ chỉ huy Mỹ phải hoãn không thời hạn dự án tái chiếm vùng châu thổ sông Mê Kông. Đầu năm 1967, trong lúc quân đội Mỹ-ngụy đang phải nếm trải những thất bại cay đắng ở tây bắc Sài Gòn thì các lực lượng giải phóng mở một mặt trận mới trên đường số 9 gần vĩ tuyến 17. Tướng Westmoreland (Oét-mô-len) vội vã điều đến chiến trường mới này những đơn vị lính Mỹ và ngụy quân tinh nhuệ nhất và do đó phải rút bớt quân trên mặt trận Nam Bộ. Quân đội Mỹ-ngụy mất hẳn thế chủ động và phải co lại để đảm bảo phòng thủ Sài Gòn, các căn cứ lớn và đường giao thông. Tình trạng đào ngũ tăng lên trong hàng ngũ quân đội ngụy.

Trong năm 1967, Washington tìm cách gửi thêm viện binh mới sang Nam Việt Nam, nhưng vì sự chống đối ngày càng tăng của dư luận Mỹ, nên năm 1967, Bộ chỉ hủy Mỹ ở Sài Gòn chỉ nhận được 100.000 quân tăng viện so với 170.000 quân trong năm 1966. Cuối năm 1967, quân Mỹ ở Nam Việt Nam lên đến 480.000 tên, đầu năm 1968 lên đến hơn nửa triệu, không tính những đơn vị đóng ở Thái Lan và lính của hạm đội VII. Với sự gia tăng của tất cả các loại lính ngụy và lính đánh thuê của các nước chư hầu, đầu năm 1968, Bộ chỉ huy Mỹ có trong tay một triệu hai trăm nghìn lính.

Số quân khổng lồ đó đã không mảy may bảo vệ được phe Mỹ tránh khỏi những đòn tấn công liên tiếp của các lực lượng giải phóng nắm chắc thế chủ động của mình. Những lực lượng chính quy của quân giải phóng tấn công vào các căn cứ và các đồn bốt Mỹ-ngụy ở tây bắc Sài Gòn hoặc ở Tây Nguyên, trong khi chiến tranh du kích diễn ra rất mạnh mẽ trong vùng châu thổ sông Mê Kông.

Chính trong những điều kiện đó, nhân dân Nam Việt Nam và các lực lượng vũ trang giải phóng đã mở một cuộc tấn công Tết 1968. Trong đêm 29 tháng Giêng và những ngày tiếp theo, nhiều cuộc tấn công vũ trang và nhiều cuộc nổi dậy của nhân dân đã nổ ra ở khoảng sáu chục thành phố, tỉnh lỵ, thị trấn và căn cứ quán sự. Dân chúng phối hợp hành động chặt chẽ với các lực lượng giải phóng. Trong đêm 30, một loạt các điểm đầu não ở ngay trong lòng Sài Gòn đã bị tấn công: đại sứ quán Mỹ, ''Phủ tổng thống", trụ sở của Bộ tham mưu liên quân ngụy, Đài phát thanh, trụ sở chỉ huy lính thủy đánh bộ và lính dù ngụy, trụ sở trung ương của cơ quan cảnh sát, nhiều kho súng đạn và nhiên liệu. Các quận 4, 5, 6, 7, 8 của Sài Gòn bị các lực lượng giải phóng chiếm đóng và ngay lập tức dân chúng ở đây đã tổ chức những đơn vị tự vệ và những ủy ban nhân dân tự quản.

Ở Huế, ngày 31, các lực lượng giải phóng tiến vào thành phố, kéo cờ của Mặt trận Giải phóng lên cột cờ lớn trong Hoàng thành, giải phóng 2.000 tù nhân. Để trả đũa, quân Mỹ bắn phá tàn nhẫn thành phố, phá hủy gần như toàn bộ các cung điện nhà vua, một trong những quần thể văn hóa quan trọng nhất của Việt Nam. Ngày 6 tháng 2, một thông cáo đặc biệt của Mặt trận Giải phóng báo tin rằng các thành phố Sài Gòn, Huế, Đà Lạt, Nha Trang, Đà Nẵng, Quy Nhơn cũng như hàng chục tỉnh lỵ và huyện lỵ đã bị tấn công và khắp nơi dân chúng đã phối hợp cố gắng với các lực lượng vũ trang loại khỏi vòng chiến đấu 50.000 tên địch, trong đó có 10.000 lính Mỹ và phá hủy 1.500 máy bay (kể cả trực thăng), phần lớn tại căn cứ trên mặt đất.

Nhũng cuộc tấn công và nổi dậy trong Tết năm 1968, chứng tỏ rằng ở thời điểm quân Mỹ-ngụy đạt tới mức quân số tối đa, các lực lượng giải phóng vẫn có thể phối hợp chặt chẽ mở những cuộc tấn công ở khắp nơi, trong khi bộ máy tuyên truyền của Sài Gòn và của Washington không ngừng tung ra thế giới hình ảnh của một Mặt trận Giải phóng hoàn toàn bị lực lượng quân sự Mỹ đè bẹp. Những chiến thắng vang dội của Mặt trận Giải phóng tác động sâu sắc đến dư luận trên thế giới và ở Mỹ. Ngày 7 tháng 2 năm 1968, Walter Lippmann (Oan-tơ Lip-man) viết trên tờ Newsweek (Tuần tin tức): "Chính sách của Johnson-Rusk (Giôn xơn-Rát) ở châu Á đang sụp đổ. Cái đang sụp đổ là ý tưởng cho rằng Hoa Kỳ có thể bằng sức mạnh quân sự, định đoạt được trật tự mọi việc trên lục địa châu Á''. Washington buộc phải cách chức Tư lệnh trưởng ở Đông Dương của Westmoreland và thay bằng Tướng Abrams (A-bơ-ram ).

Lầu Năm Góc không những phải chỉ định một tư lệnh trưởng mới mà còn phải hoàn toàn thay đổi chiến lược. Thật khó có thể gửi sang Việt Nam 200.000 quân tăng viện theo yêu cầu của Westmoreland sau những tổn thất trong Tết 1968. Abrams được lệnh đành phải giữ chiến lược phòng thủ; và thay vì mở những cuộc hành quân ''tìm và diệt" các đơn vị quân chính quy của Mặt trận Giải phóng, ông ta tự hạn chế việc “càn quét và giữ vững” vùng lân cận những đô thị và căn cứ lớn đặc biệt là Sài Gòn.

Điều đó không có nghĩa là Lầu Năm Góc đã từ bỏ ý tưởng dùng sức mạnh để áp đặt một nền hòa bình kiểu Mỹ ở Việt Nam. Buộc phải giảm bớt quy mô và số lượng các cuộc hành quân trên bộ, Bộ chỉ huy Mỹ tăng cường các cuộc ném bom bằng máy bay của không quân và hải quân, những cuộc bắn phá dồn dập của pháo binh và rải chất độc hóa học. Những vùng chung quanh Sài Gòn và nhiều thành phố khác, trên chiều dài hàng chục cây số, đã bị san bằng và chất độc hóa học rải đến từng bụi cây. Những vụ ném bom miền Bắc Việt Nam không ngừng tăng lên.

Tuy nhiên, dư luận Mỹ sốt ruột và Johnson cũng như đảng Dân chủ phải bắt đầu chiến dịch vận động bầu cử của họ. Điều làm cho dư luận Mỹ và thế giới chú ý nhất là việc leo thang chiến tranh bằng không quân của Mỹ chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một quốc gia độc lập có chủ quyền, thành viên của phe xã hội chủ nghĩa. Ngày 31 tháng 3 năm 1968, Johnson buộc phải tuyên bố ngừng ném bom có giới hạn ở Bắc Việt Nam, chấp nhận sẽ đàm phán với các đại diện của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và ông ta sẽ không ra tranh cử tổng thống nữa. Chính phủ Việt Nam nhanh chóng chấp nhận lời đề nghị và đến tháng 5 năm 1968, những cuộc thương thuyết bắt đầu ở Paris và phải kéo dài cho đến năm 1973, trong khi chiến tranh vẫn tiếp diễn.

Sau ngày 31 tháng 3, không quân Mỹ tập trung đánh phá phần phía nam của Bắc Việt Nam, từ Vinh đến vĩ tuyến 17, với hy vọng có thể cắt đứt mọi đường giao thông giữa Bắc-Nam và khủng bố tinh thần dân chúng vùng này bằng cách phá hoại có hệ thống các thành phố và làng mạc. Quả vậy, trong khu vực này, dân cư cũng như các đường giao thông, đều tập trung trong một hành lang hẹp, kẹp giữa một bên là núi, một bên là biển. Trong bảy tháng trời, khu vực này phải chịu đựng một cuộc bắn phả tập trung của không quân và hải quân với một mức độ dã man chưa từng thấy. Thế nhưng, nỗ lực tột cùng đó của Mỹ chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chẳng có mấy tác dụng. Cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ sắp đến gần. Ngày 1 tháng 11 năm 1968, Johnson phải ra lệnh ngừng ném bom vô điều kiện chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nước bài giờ chót này đã không cứu được Đảng dân chủ Mỹ khỏi thất bại trong cuộc bầu cử tổng thống vì nhân dân Mỹ đã mất bòng tin vào Johnson và Đảng của ông ta phải chịu trách nhiệm về việc tăng cường cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Bằng những lời hứa hẹn hòa bình, Richard Nixon (Ri-sac Nich-xơn) đã trúng cử. Đảng Cộng hòa trở lại nắm quyền.