Cuộc chiến tranh của Nixơn
“Hứa hẹn hòa bình-chủ trương chiến tranh” Johnson đã thi thố cái chính sách ấy năm 1964, trước khi được tái cử. Nixon đã theo đúng hệt con đường ấy. Là người chủ chiến điên cuồng, từ năm 1954, ông ta đã đề xướng để Mỹ can thiệp trực tiếp bên cạnh thực dân Pháp. Lần này, nắm mọi quyền lực trong tay, ông ta quyết tâm chiến thắng. Nhưng tình hình năm 1969, khi Nixon lên làm tổng thống, không còn cho phép ông ta được tự do như Johnson hồi năm 1965 nữa. Nixon không thể tăng cường đội quân viễn chinh nữa mà buộc phải gọi các "chàng trai" trở về Hoa Kỳ. Những thiệt hại của Mỹ ở Việt Nam đã đến mức nhân dân Mỹ không thể chấp nhận được nữa. Kinh phí cho chiến tranh Đông Dương lên đến 30 tỷ mỗi năm, trong khi nhiều dự án về phúc lợi xã hội và phát triển trường học đáng lẽ đã hoàn thành, lại phải đình chỉ vì không có tiền. Sự chống đối chính sách chiến tranh càng tăng lên, nhất là trong thanh niên đại học. Cả nước Mỹ náo động.
Muốn tiếp tục và thắng cuộc, nhưng lại phải giảm tổn thất sinh mạng lính Mỹ và giảm chi phí - giảm đến một mức độ mà dư luận Mỹ có thể chấp nhận được, nhưng không vì thế mà từ bỏ việc áp đặt những điều kiện của Mỹ cho nhân dân Việt Nam, Nixơn định giải quyết vấn đề gai góc đó bằng "Việt Nam hóa" chiến tranh. Vấn đề là: Tăng cường đầy đủ quân đội ngụy về người và trang bị, biến họ thành đạo quân chủ lực sẽ tiêu diệt được lực lượng kháng chiến Việt Nam và làm chỗ dựa chủ yếu cho một Chính phủ Sài Gòn trung thành phục vụ lợi ích của Washington.
Rút dần từng bước các lực luợng bộ binh Mỹ.
Duy trì ở Việt Nam các lực lượng không quân và pháo binh đủ sức yểm trợ một cách hữu hiệu cho quân đội ngụy. Hình thức chiếm đóng quân sự của Mỹ như thế sẽ kéo dài chừng nào còn cần thiết.
Bằng cách cho máy bay ném bom hàng loạt, không ngừng rải chất độc hóa học, làm cho nhân dân không thế chịu nổi; từ đó buộc dân chúng phải tập trung vào các thành phố do Mỹ- ngụy kiểm soát.
Cách “đô thị hóa cưỡng chế” ấy do Samuel Hungtington (Xa-mu-en Hung-tin-ton), giáo sư đại học Harvard (Ha-vớt) đề ra dự tính biến phần đất Nam Việt Nam không do Mỹ kiểm soát thành một bãi sa mạc chi chít hàng triệu hố bom, nơi không còn một ngọn cỏ mọc lên, không còn nghe một tiếng chim hót và vì thế, các lực lượng cách mạng sẽ không còn có thể đặt chân tới không thể tái sinh vùng đất chết ấy. Trong khi đó, hàng triệu nông dân buộc phải lánh vào các thành thị, sẽ không tìm ra việc làm và không còn cách gì để sống ngoài việc phải sung vào quân đội và cảnh sát ngụy.
Trong khu vực do Mỹ kiểm soát, tăng cường "bình định'' bằng những cuộc càn quét liên tục, ám sát cán bộ và những người bị tình nghi, tống giam và đầy ải hàng trăm nghìn con người. Các lực lượng quân đội và cảnh sát hoành hành không ngơi tay, khủng bố trắng được đẩy đến mức tối đa. 44.000 nhân viên bình định được đào tạo đặc biệt, kèm thêm vào cảnh sát chính quy để khủng bố nhân dân.
Nixon càng phải vội vã áp dụng chính sách dã man này vì đúng vào lúc ông ta phải bắt đầu rút dần quân Mỹ thì kháng chiến Nam Việt Nam không những đã lớn lên về phương diện quân sự mà còn nhanh chóng giành nhiều thắng lợi trên bình diện chính trị.
Trong những điều kiện ấy và bị thôi thúc bởi kỳ hạn của cuộc bầu cử tổng thống, Nixon lại càng cần đến chiến tranh tổng lực. Năm 1969, khi Bắc Việt Nam chỉ còn bị đánh bom lẻ tẻ thì khối lượng bom trút xuống đất Lào và nhất là ở Nam Việt Nam, lại vượt xa lượng bom năm 1968, lên đến con số 1.389.000 tấn. Đấy là chưa tính những trận bắn pháo và những vụ rải chất độc hóa học trùm lên hàng mấy triệu ha đất đai; mọi sinh vật thực sự đã bị tiêu diệt bằng hóa chất. Theo những con số do phía Mỹ đưa ra, từ năm 1955 đến năm 1973, 10 triệu người dân nông thôn vì thế mà đã buộc phải rời làng quê, dồn vào các thành phố. Chính quyền Sài Gòn tuyển mộ lính đánh thuê và cảnh sát chính từ trong hàng triệu người nông thôn đã bị bứng khỏi gốc gác của họ.
Ít lâu sau cuộc tấn công Tết năm 1968, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình (AFNDP) ra đời, tập hợp những trí thức và giai cấp trung lưu ở các thành phố bị chiếm đóng cùng hành động chung với Mặt trận giải phóng. Rồi đến tháng 6 năm 1969, Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình triệu tập một đại hội toàn quốc quyết định thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời của Cộng hòa miền Nam Việt Nam; Chính phủ này nhanh chóng được nhiều Chính phủ và tổ chức quốc tế công nhận. Các Ủy ban nhân dân cách mạng được bầu ra ở đại bộ phận các làng xã, huyện và ở nhiều tỉnh. Trái ngược hẳn với tình trạng khủng hoảng ngày càng tăng và vô phương cứu chữa của chế độ bù nhìn, chính quyền và phong trào dân tộc dân chủ bắt rễ ngày càng sâu vào mọi miền và mọi lĩnh vực xã hội. Sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời ngày 3 tháng 9 năm 1969 (61) làm cho cả nước xúc động sâu sắc, nhưng sự ra đi của Người chỉ càng làm tăng thêm ý chí của toàn dân Việt Nam quyết đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đến đích cuối cùng.
Sự can thiệp ồ ạt của quân đội Mỹ hẳn là đã cứu chế độ Sài Gòn khỏi bị tan rã, nhưng lại vạch trần trước mắt mọi người tính chất phản dân tộc của những tên tay sai mà Washington dựng lên để cầm đầu chính quyền Sài Gòn. Viện trợ kinh tế càng tăng của Mỹ hẳn là đã giúp chế độ Sài Gòn sống sót, nhưng đã làm cho nạn lạm phát trầm trọng thêm và các ngành công nghiệp địa phương bị phá sản. Và đặc biệt, việc cưỡng ép thanh niên vào lính đã gây nên sự chống đối ngày càng dữ dội của người trong cuộc và của tất cả các tầng lớp nhân dân khác. Thói sa đọa, nạn tham nhũng, việc du nhập thô bạo "lối sống Mỹ'' đã làm duy lên một phong trào chống Mỹ sâu rộng, ngay cả ở lớp người đang hưởng lợi lộc từ túi tiền của Mỹ.