← Quay lại trang sách

Mở rộng chiến tranh

Tăng cường ném bom và phá hoại, tăng thêm quân số và vũ khí cho quân đội ngụy, cả hai biện pháp đó đều không đè bẹp được các lực lượng nhân dân Nam Việt Nam, lại càng không đảm bảo được sự vững chắc của chế độ Sài Gòn. Nếu ''Việt Nam hóa'' có nghĩa là kéo dài cuộc chiến tranh ở Việt Nam thì tất phải dẫn đến sự mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương, bởi vì việc ''bảo vệ"cho Nam Việt Nam chỉ có thể thực hiện được, nếu Lào và Campuchia cũng được sáp nhập vào phạm vi khống chế của Mỹ. Thực dân Pháp trước đây cũng đã lâm vào tình thế ấy.

Nixon bị thất bại ở Nam Việt Nam đã thực sự sa vào cái thế đâm lao phải theo lao và đã liều mạng mở những chiến dịch mà không một kẻ tiền nhiệm nào của ông ta dám làm.

"Việt Nam hóa" trong cách nghĩ của Nixon phải được bổ sung bằng ''Đông Dương hóa" và sau đó là “Á châu hóa”: người Đông Dương sẽ phải đánh người Đông Dương, người châu Á sẽ đánh người châu Á để đảm bảo sự thống trị của Mỹ ở châu Á Mỹ sẽ chỉ phải cung cấp đô la và vũ khí; màu da của các xác chết sẽ thay đổi, nhưng bàn tay Mỹ thì sẽ mãi mãi nắm chắc những vùng này.

Ở Lào, tư năm 1969, Washington đã ra sức:

- Tăng cường các lực lượng cánh hữu về mặt quân sự và chính trị:

Tăng cường đáng kể lính đánh thuê của "tướng" Vàng Pao để dùng làm mũi xung kích chống lại các vùng tự do.

- Đưa quân đội Thái Lan vào.

Cường độ những cuộc ném bom xuống các vùng do các lực lượng yêu nước Lào kiểm soát ngày một tăng. Mỗi ngày có đến 600 lượt chiếc xuất kích với đủ các loại máy bay, kể cả B52. Nhiều làng bản bị máy bay trực thăng đổ xuống bắt dân chúng đến tập trung vào các trại tị nạn.

Tháng 8 năm 1969, dưới sự chỉ huy của 12.000 cố vấn Mỹ, 50 tiểu đoàn được sự yểm trợ của một lực lượng không quân hùng hậu, tấn công vào vùng Cánh đồng Chum ở Xiêng khoảng. Chiến sự kéo dài cho đến tháng 2 năm 1970, là lúc các lực lượng yêu nước Lào và các lực lượng Việt Nam bằng một cuộc phản công mãnh liệt, đánh bật quân địch ra khỏi khu vực, giáng cho chúng những tổn thất nặng nề. Trong đợt hành quân này, Bộ dủ huy Mỹ đã tập trung mọi phương tiện được xem là hiệu nghiệm nhất, nhằm làm thí điểm đầu tiên của học thuyết Nixon: quân đánh thuê được huấn luyện đặc biệt, cố vấn Mỹ đông đảo, yểm trợ khổng lồ của không quân.

Thất bại của cuộc hành quân này đã dẫn chúng lao tới địa bàn thứ hai. Ngày 18 tháng 3 năm 1970, các cơ quan của Mỹ tổ chức một cuộc đảo chính chống Chính phủ trung lập Campuchia; Thái tử Nôrôđôm Sthanouk, người bảo vệ kiên quyết nền độc lập và trung lập của Campuchia bị bọn tay sai Lon Nol và Sirik Matak thân Mỹ lật đổ. Nhưng Chính phủ Lon Nol vừa dựng lên đã vấp phải sự chống đối mạnh mẽ của nhân dân. Lời kêu gọi của Nôrôđôm Sihanouk, rồi Hội nghị cấp cao nhân dân các nước Đông Dương họp tháng 4, thông qua một cương lĩnh hành động chung mà cụ thể là thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc Campuchia (FUNK), rồi Chính phủ Vương quốc đoàn kết dân tộc Campuchia (GRUNK), đã cổ vũ mạnh mẽ cuộc kháng chiến của nhân dân Khơ me.

Để cứu chính quyền Lon Nol đang gặp khó khăn, ngay từ 30 tháng 4 năm 1970, Bộ chỉ huy Mỹ tung quân đội Sài Gòn và Mỹ tấn công vào Campuchia; 70.000 quân xâm lược đất Campuchia, máy bay Mỹ và Sài Gòn ra sức bắn phá các thành phố và làng mạc và đến lượt Campuchia phải chịu đựng mọi sự khủng khiếp của chiến tranh kiểu Mỹ. Nhưng các lực lượng kháng chiến của Campuchia đã đánh trả mạnh mẽ. Đáp lời kêu gọi của mặt trận FUNK, đại bộ phận các làng mạc ở nông thôn nổi dậy, nhanh chóng tự tổ chức nhau lại, giáng cho chính quyền bù nhìn Nông Pênh những thất bại đau đớn. Chính phủ Vương quốc Campuchia GRUNK kêu gọi sự giúp đỡ của quân đội Việt Nam. Cuộc đảo chính chống Nôrôđôm Sihanouk đã đưa đến những hậu quả hoàn toàn bất ngờ đối với Washington: đại bộ phận dân chúng của một đất nước vốn là trung lập, bây giờ tiến hành một cuộc chiến đấu vũ trang kiên quyết chống chủ nghĩa đế quốc Mỹ và tay sai trong khối đoàn kết chặt chẽ với các dân tộc Việt Nam và Lào.

Phản ứng của dư luận Mỹ và thế giới chống sự xâm lược Campuchia đã buộc Nixon phải rút bộ binh Mỹ ra khỏi nước này vào cuối tháng sáu, nhưng Washington vẫn tiếp tục ủng hộ bằng mọi giá chế độ đang lung lay ở Nông Pênh bằng một khoản viện trợ vũ khí và đô la ngày càng tăng. Sự giúp đỡ về quân sự nhiệm vụ quan trọng nhất, được giao cho quân đội Sài Gòn. Chúng đã chiếm đóng Campuchia và đang hoành hành đúng như những kẻ chinh phục thực sự. Đó là học thuyết Nixon với tất cả ý nghĩa đầy đủ của nó: làm cho người châu Á giết người châu Á, vì lợi ích của Hoa Kỳ.

Cho đến năm 1975, chừng nào chiến tranh còn kéo dài và cuộc kháng chiến của Campuchia còn cần đến viện trợ quân sự của Việt Nam thì chừng đó những nỗ lực của Bắc Kinh và của những người lãnh đạo Khơ me đỏ nhằm gieo rắc bất hòa giữa cách mạng Việt Nam và nhân dân Campuchia chưa thể diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật.

Chính sách hiếu chiến và phiêu lưu của Nixon đã gắn chặt khối đoàn kết của nhân dân ba nước Đông Dương và những thất bại cay đắng nhất của quân đội Mỹ và lính đánh thuê đều gắn liền với sự ủng hộ lẫn nhau của nhân dân ba nước. Tách rời cuộc kháng chiến của cả nước với địa phương riêng lẻ trong từng quốc gia, hòng bóp chết nó được dễ dàng hơn, đồng thời cắt đứt mọi đường giao thông nối liền ba nước Đông Dương trở thành mục tiêu chủ yếu của Bộ chỉ huy Mỹ sau những thất bại nặng nề trong năm 1970. Theo ý đồ ấy, đầu năm 1971, Lầu Năm Góc dự định cắt đứt vùng giải phóng Hạ và Trung Lào - dải đất thực sự như một cái cuống rốn.

Thế là chiến dịch Đường 9-Nam Lào (62) được phát động vào tháng 2 năm 1971, với những phương tiện được huy động đến mức tối đa có thể: 2.000 máy bay (kể cả trực thăng), các đơn vị lính Sài Gòn tinh nhuệ nhất (lính dù, biệt kích, sư đoàn 1 bộ binh, xe tăng, thiết giáp), những đơn vị bộ binh Mỹ hoàng hậu, tổng số lên đến 45.000 quân, tất cả được tung vào mặt trận đường số 9 chạy sát vĩ tuyến 17, từ bờ biển Nam Việt Nam sang tận sông Mê Kông. Với sự triển khai lực lượng lớn như vậy đặc biệt là không quân, Bộ chỉ huy Mỹ hòng cắt đứt các đường giao thông của đối phương, ngăn cản việc tiếp tế cho các lực lượng chiến đấu ở những chiến trường xa hơn nữa về phía Nam; nếu đối phương giao chiến thì sẽ nghiền nát họ bằng lực lượng không quân cực mạnh của Mỹ. Dưới sự yểm hộ của lực lượng không quân này, các trực thăng đổ quân Sài Gòn xuống các cao điểm ở hai bên Đường số 9, trong lúc các đoàn xe bọc thép tiên theo Đường 9 sẽ tìm cách mở thông lên tận Sêpôn là cái nút giao thông. Sự chống trả của các lực lượng giải phóng rất quyết liệt. Dưới làn hỏa lực của lưới phòng không bắn liên tục, hàng trăm chiếc trực thăng của địch chở lính và khí cụ bị bắn rơi, trong khi đó thì các đồn bốt địch đóng trên các cao điểm hai bên đường đều bị pháo của quân đội nhân dân nghiền nát. Bị phục kích và bị sa vào các bẫy mìn, các đoàn xe thiết giáp của kẻ xâm lược bị tiêu diệt hoàn toàn. Trận đánh bắt đầu ngày 8 tháng 2, kết thúc ngày 22 tháng 3: hầu như toàn bộ số quân ngụy đổ vào Đường 9-Nam Lào bị tiêu diệt; lính Mỹ và ngụy quân đóng ở khu vực phía Nam Việt Nam của Đường số 9 bị tổn thất nặng: 23.000 tên bị loại khỏi vòng chiến đấu, 730 máy bay (trong đó có trực thăng) bị bắn rơi, 1.400 xe quân sự các loại bị phá hủy. Đây là một trong số những trận đánh lớn nhất của cuộc chiến tranh Đông Dương từ năm 1945.

Đối với Bộ chỉ huy Mỹ, tính chất nghiêm trọng của thất bại này là ở chỗ họ đã tung vào đấy những con chủ bài tốt nhất của mình: những đơn vị tinh nhuệ làm dự trữ chiến lược của quân đội Sài Gòn, sự yểm trợ đến mức tối đa của không quân Mỹ, việc áp dụng những chiến thuật đã được nghiên cứu thật tỉ mỉ. Washington đã muốn biến cuộc hành quân này thành nơi thử nghiệm chính sách "Việt Nam hóa" chiến tranh. Qua thử thách, chiến lược mới này đã phá sản thảm hại.

Vào giữa năm 1971, chỉ còn 18 tháng nữa là đến ngày bầu cử tống thống, Nixon nhận ra mình đứng trước một tình thế không lấy gì làm sáng sủa: cuộc kháng chiến của các dân tộc Việt Nam Lào và Campuchia không ngừng được tăng cường, sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới ngày càng mạnh, phản ứng của dư luận Mỹ ngày càng dữ dội hơn.

Ngày 1 tháng 7, bà Nguyễn Thị Bình, nhân danh Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đưa ra một kế hoạch 7 điểm đế giải quyết vấn đề Việt Nam với hai điều kiện cơ bản: rút hết quân đội Mỹ; chính quyền Thiệu phải từ chức để nhường chỗ cho một chính quyền mới sẵn sàng bàn bạc với Chính phủ Cách mạng lâm thời để lập ra một Chính phủ hòa hợp dân tộc. Sáng kiến đó được dư luận thế giới và 70 Chính phủ nhiệt liệt ủng hộ nhưng đã không nhận được của Washington một câu trả lời nghiêm túc nào. Nixon lợi dụng việc loan báo chuyến viếng thăm Bắc Kinh của ông ta để làm cho mọi người tưởng rằng vấn đề Việt Nam sẽ có thể được giải quyết, không phải với các đại diện của nhân dân Việt Nam, mà giữa các đại cường quốc với nhau. Tờ Nhân dân, cơ quan ngôn luận Của Đảng Lao động Việt Nam, trong bài xã luận ngày 19 tháng 7, đã chỉ rõ: ''Ông Nixon đi nhầm đường. Cửa đi ra đã được mở thế mà ông ta lại cắm đầu lao vào một ngõ cụt. Cái thời của các nước lớn có quyền định đoạt số phận của các nước nhỏ đã vĩnh viễn qua rồi!''

Nhưng vì có những hậu thuẫn chắc chắn, Nixon vẫn đeo đuổi những mưu toan quân sự và chính trị hòng áp đặt cho được mệnh lệnh của mình. Ngày 21 tháng 9, 200 máy bay ném bom ác liệt tỉnh Quảng Bình thuộc Bắc Việt Nam và ngày 3 tháng 10, Thiệu bày trò tái cử tổng thống và nói rằng được 94% số phiếu. Các chiến dịch ''bình định'' vẫn tiếp tục bị đánh trả quyết liệt đặc biệt vào tháng 10 ở tỉnh Trà Vinh, phía tây châu thổ sông Mê Kông. Ngày 11 tháng 10, Kisinger đưa ra một kế hoạch hòa bình của Mỹ, nhưng không quy định rõ thời hạn rút quân Mỹ mà lại đòi hỏi chỉ duy trì ở Sài Gòn độc nhất Chính phủ Thiệu. Những chiến dịch quân sự được tăng cường vào những tháng cuối của năm 1971, ở Việt Nam cũng như ở Lào và Campualia. Ở Nam Việt Nam, chiến dịch bình định vùng rừng U Minh (phía tây châu thổ sông Mê Kông) đã kết thúc với một tổn thất nặng nề của phía Sài Gòn: 16.000 người chết và bị thương, ở Campuchia vào tháng Chạp năm 1971, các lực lượng của Lon Nol bị thất bại nặng nề, đã phải chấm dứt cuộc hành quân Chen-La 2 bắt đầu từ tháng 8; đấy là thất bại nặng nề nhất của chính quyền ở Nông Pênh, ở Lào các lực lượng yêu nước giải phóng hầu như toàn bộ Cánh đồng Chum, tiêu diệt nhiều đơn vị của Vàng Pao và của Băng Cốc. Máy bay Mỹ vẫn tiếp tục những phi vụ thám thính và ném bom xuống một số vùng ở Bắc Việt Nam. Những biện pháp đàn áp ở Sài Gòn càng mạnh, trong khi ở Campuchia, Lon Nol bị dồn từng bước vào thế cô lập hoàn toàn và ngày 10 tháng 3 năm 1972, đã tổ chức một cuộc đảo chính thứ hai, giải tán quốc hội và giành cho mình các chức danh tổng thống nước cộng hòa và thủ tướng Chính phủ.

Năm 1972, đối với Nixon là năm bầu cử tổng thống. Muốn được tái cử ông ta phải tạo ra ấn tượng rằng mình đã quyết định chấm dứt cuộc chiến tranh ở Đông Dương, nhưng là một kẻ thực dân kiểu mới ngoan cố, ông ta vẫn muốn liên lạc duy trì mãi mãi sự lũng đoạn của Mỹ ở Việt Nam và áp đặt những điều kiện của mình cho nhân dân Việt Nam. Qua ba năm "Việt Nam hóa'' chiến tranh, ông ta đã tăng cường đáng kể quân đội và cảnh sát của Thiệu với quân số lên tới 1.200.000 người, lại có một lực lượng không quân, một hạm đội trên biển và trên sông, một binh đoàn xe bọc thép tối hiện đại. Mười ba sư đoàn tinh nhuệ (lính biệt kích, lính dù, lính thủy đánh bộ) làm mũi xung kích cho đội quân ấy, có khả năng xóa sổ những lực lượng chính quy của đối phương, bảo vệ những thành phố lớn và các căn cứ. Không quân và hải quân Mỹ yểm trọ mạnh mẽ cho các lực lượng này, trong khi những diễn dịch bình định liên miên không dứt, duy trì một chiến lược khủng bố không bút nào tả xiết trong những vùng do Sài Gòn kiểm soát. Nhiều vùng giải phóng bị các trận ném bom liên hồi biến thành sa mạc thực sự.

Hơn 70.000 sĩ quan đã được đào tạo để chỉ huy đạo quân này, đồng thời vừa nắm các guồng máy chính trị, vừa buôn lậu đủ thứ. Điển hình là chính Nguyễn Văn Thiệu, hồi trẻ y đã làm lính dù trong quân đội Pháp, rồi chuyển sang phục vụ cho Mỹ, còn vợ và những người thân thích của y thì vớ những món lời kếch xù trong nhiều vụ áp phe. Đẳng cấp "quân sự-chính trị- con buôn" ấy được Mỹ đào tạo và nhồi sọ, thực sự là lớp người lãnh đạo đất nước. Nó không phải là một giai cấp tư sản, cũng không phải là giai cấp phong kiến bản địa, mà thuần túy là con đẻ của Mỹ, cũng như bộ máy quân sự và cảnh sát khổng lồ mà đẳng cấp đó chỉ huy đã được dựng lên bằng đô la và chính sách hủy diệt có hệ thống nông thôn miền Nam Việt Nam. Bọn du côn, bọn vô lại được huấn luyện đặc biệt dùng cho việc chém giết, tra tấn, để làm khung cán bộ cho đội quân đàn áp, để thực hiện mọi nhiệm vụ đê tiện và gieo rắc khủng bố. Với bộ máy khổng lồ ấy, Nixơn, tưởng có thể thi hành trôi chảy chính sách “Việt Nam hóa” của y và rút dần bộ binh Mỹ về nước, trong khi có thể ra lệnh đội bom ác liệt miền Bắc Việt Nam bất cứ lúc nào. Cũng có một số cố gắng quan trọng nhằm đảm bảo một mức phồn vinh kinh tế nhất định cho những vùng còn do Sài Gòn kiểm soát. Viện trợ quân sự và kinh tế của Mỹ trung bình lên đến 2 tỷ đô la/năm, một số tiền khá lớn đối với Việt Nam, nhưng thấp hơn nhiều so với 30 tỷ đô la phải bỏ ra để đài thọ cho sự can thiệp trực tiếp của quân đội Mỹ vào cuộc chiến tranh.

Trong một chừng mực nào đó, có thể nói rằng Nixon đã đã đạt được ít nhiều kết quả; sức mạnh kinh tế, kỹ thuật khổng lồ của Mỹ chĩa vào một nước nhỏ trong nhiều năm liền, luôn luôn có thể đưa đến một số kết quả và không phải không có lý, khi Nixon tin tưởng bước vào cuộc tranh cử tổng thống. Nhất là những cuộc thương thuyết giữa Bắc Kinh và Washington đã đi đến một sự thỏa thuận đáng kể như chúng ta đã thấy trên đây.

Cuộc chạm trán năm 1972, sẽ là quyết định. Về phía Việt Nam, phải có lời giải đáp cho nhiều vấn đề quân sự có tầm quan trọng quyết định hàng đầu:

Hệ thống phòng thủ vòng ngoài, do Mỹ và Sài Gòn dựng lên, có thể đạp đổ được không?

Có thể tiêu diệt những đơn vị tinh nhuệ của quân đội Sài Gòn hay không?

Liệu luồng hợp tế có thể tiếp tục đến đích được không trong trường hợp mở một cuộc tấn công dài ngày?

Để tìm cách nắm lấy quyền chỉ đạo các cuộc hành quân, Bắc Kinh đề nghị đưa 20 vạn lính Trung Quốc vào Việt Nam. Việt Nam từ chối.

Cuộc tấn công nổ ra vào ngày 30 tháng 3 của quân đội nhân dân đã soi sáng vấn đề. Cho đến ngày 1 tháng 5, các cứ điểm ở phía bắc tỉnh Quảng Trị, gần vĩ tuyến 17, những cứ điểm ở tây bắc Sài Gòn về phía Lộc Ninh và An Lộc, nhiều căn cứ quan trọng trên các đường 14 và 19, ở Cao Nguyên... bị pháo binh, xe tăng và bộ binh quân giải phóng tấn công dữ dội đều lần lượt thất thủ. Các đơn vị tinh nhuệ nhất của Sài Gòn, mặc dầu được hải quân và không quân Mỹ yểm trợ, cũng không thể trụ lại được đòn tấn công. Tỉnh Quảng Trị được hoàn toàn giải phóng.

“Việt Nam hóa chiến tranh” đã bị một vố thất bại nghiêm trọng. Washington buộc lòng phải “mỹ hóa” trở lại một phần cuộc chiến tranh. Nhiều đơn vị không quân, hải quân quan trọng được điều đến tăng cường cho những lực lượng của Mỹ còn có mặt ở Đông Dương, số máy bay chiến thuật và khu trục ném bom của Mỹ được tăng lên trên 1300 chiếc, số máy bay B52 lên tới 200. Washington phải cứu nguy cho Sài Gòn, bởi vì- không những vành đai phòng thủ vòng ngoài của Sài Gòn bị uy hiếp, mà cả hậu phương - những vùng đã được “bình định” cũng chuyển động... Chiến tranh du kích diễn ra mãnh liệt bộ máy chính quyền đo Sài Gòn dựng nên ở nhiều vùng như Bình Định, miền Tây châu thổ Mê Kông bị đập tan. Lực lượng không quân và hải quân của Mỹ, để giúp quân đội Sài Gòn chiếm lại thị xã Quảng Trị, hàng ngày trút xuống thành cổ này từ 15.000 đến 20.000 viên đạn pháo, trong khi 200 -300 máy bay địch bắn phá các trận tuyến đối phương.

Để cứu vãn chính sách “việt Nam hóa” của mình bị thất bại, Nixon tung ra một đợt leo thang mới chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 16-4, máy bay B52 đánh phá hủy diệt nhiều khu phố ở Hải Phòng, thành phố thứ hai của Bắc Việt Nam; chúng còn liên tiếp ném bom Hải Phòng cho đến tận cuối năm 1972. Máy bay Mỹ hoạt động trên đất Bắc Việt Nam theo hai cách:

Những đợt không kích khủng bố chống nhân dân bằng cách trút bom rải thảm xuống các thành phố và làng mạc.

Những trận bom chính xác với những thiết bị tinh xảo (bom la-de) nhằm vào các mục tiêu kinh tế, cầu cống, nhà máy.

Hầu như mọi thành phố Bắc Việt Nam đều bị đánh phá. Washington tìm cách phá hoại có hệ thống toàn bộ nền kinh tế công nghiệp của Bắc Việt Nam. Nông nghiệp cũng là mục tiêu đánh phá, các công trình thủy lợi quan trọng nhất đều bị ném bom cực kỳ dữ dội. Và đỉnh cao của cuộc chiến tranh leo thang bằng không quân là mạng lưới đê sông và đê biển của Bắc Việt Nam trở thành mục tiêu của nhiều đợt đánh phá, nhằm gây ra những trận lụt đầy tai hoạ trong mùa mưa lũ lớn vào các tháng bảy, tám.

Để bổ sung cho các trận ném bom, ngày 8-5,Nixon ra lệnh phong tỏa tất cả các hải cảng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng hàng nghìn quả mìn, nhằm ngăn cản mọi nguồn tiếp tế từ ngoài vào. Bắc Việt Nam đánh trả quyết liệt. Nhiều máy bay Mỹ bị hạ, trong khi việc vận tải vẫn được tiếp tục đảm bảo, nhân dân vẫn bình tĩnh và vẫn quyết tâm chiến đấu. Các lực lượng Sài Gòn đã phải trả giá đắt mới lấy lại được thị xã Quảng Trị. Sự can thiệp ồ ạt của các lực lượng Mỹ nhất thời đã cứu sống quân đội và chế độ Sài Gòn, nhưng Nixon không áp đặt được mệnh lệnh của ông ta. Ở miền Bắc Việt Nam, năm 1972, ít mưa nên những trận không kích của máy bay Mỹ xuống các đê điều không đưa đến hậu quả mà chúng mong muốn. Một cuộc hành quân của bọn lính đánh thuê Vàng Pao nhằm chiếm lại Cánh đồng Chum ở Lào bị thất bại. Nixon không thể đưa ra cho cử tri Mỹ một triển vọng hòa bình nào, và việc Mc Govem được chỉ định làm ứng cử viên tổng thống của Đảng Dân chủ là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với ông ta. Việc tăng cường ném bom hẳn đã gây ra nhiều tổn thất lớn cho nhân dân Việt Nam, hà hơi tiếp sức được ít nhiều cho chế độ Thiệu, nhưng chính sách của Nixon vẫn bế tắc, mặc dù được Bắc Kinh ung hộ.

Ngày 11-9-1972, Chính phủ Cách mạng lâm thời Nam Việt Nam đề nghị một giải pháp lô-gíc và hợp lẽ: rút quân Mỹ, thành lập một Chính phủ lâm thời hòa hợp dân tộc gồm ba thành phần: Chỉnh phủ cách mạng lâm thời, chính quyền Sài Gòn và một thành phần thứ ba với những lực lượng chính trị khác ở Nam Việt Nam. Sẽ không có chuyện áp đặt cho Nam Việt Nam một chế độ cộng sản hoặc một chính quyền tuân theo lệnh của Mỹ. Vào giai đoạn bầu cử tổng thông, Nixon ngày càng khó có thể cứ khăng khăng từ chối các kế hoạch hòa bình của phía Việt Nam. Ông ta đành cam chịu phải xúc tiến các cuộc thương lượng, nhất là vào lúc này, tổn thất của Mỹ về máy bay và phi công cứ ngày càng tăng, từ tháng 4 đến tháng 10, 554 máy bay Mỹ bị hạ trên bầu trời Bắc Việt Nam, và ngày 17-10, chiếc máy bay thứ 4000 của Mỹ bị bắn rơi ở Bắc Việt Nam kể từ 1964, lại đúng là một chiếc F111, thành tựu tối tân nhất của kỹ thuật Mỹ lúc bấy giờ.

Trong những tuần lễ đầu tháng 10, những cuộc thương thuyết được tiến hành nhanh chóng giữa phái đoàn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ. Hai bên đã đồng ý đến ngày 22-10, sẽ cùng ký tắt thỏa ước ở Hà Nội, và ngày 30- 10, các Bộ trưởng Ngoại giao hai nước sẽ chính thức ký hiệp định tại Paris. Ngày 22-10, Nixon gửi một thông điệp cho Thủ tướng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thế là ông ta có thể ra trình diện trước các cử tri của mình như là đã giải quyết xong vấn đề Việt Nam. Nắm được kết quả này trong tay, ngày 23-10, Washington viện cớ những khó khăn do Sài Gòn nêu lên để đặt lại vấn đề về bản thỏa ước và lịch trình đã được thỏa thuận. Những chiến dịch quân sự ở miền Nam và những cuộc ném bom chống miền Bắc vẫn tiếp tục, trong khi Bộ chỉ huy Mỹ lợi dụng lúc tình hình tạm lắng để gửi thêm những chuyến hàng quân sự lớn cho quân đội Sài Gòn, nhất là máy bay, trực thăng, xe bọc thép. Cuối 1972, lực lượng không quân Sài Gòn có đến hơn 2.000 chiếc máy bay, đứng hàng thứ ba trên thế giới. Sĩ quan Mỹ trá hình thành những kỹ thuật viên dân sự để “cố vấn” cho quân đội Thiệu. Lực lượng không quân, hải quân tập trung đánh ráo riết các tỉnh Bắc Việt Nam nằm giữa vĩ tuyến 20 và vĩ tuyến 17. Đến lúc đó thì Washington đòi thay đổi các điều khoản cơ bản của hiệp ước đã được thỏa thuận hồi tháng 10 (126 điểm đề nghị thay đổi) nhằm tước bỏ các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam.

Không áp đặt được các điều kiện của mình cho các nhà thương thuyết Việt Nam, ngày 18 tháng 12, Nixon tung máy bay chiến lược B52 ném bom xuống các thành phố lớn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ 18 đến 30 tháng 12 năm 1972, mỗi ngày có hàng mấy trăm chiếc máy bay khu trục ném bom và khoảng 150 chiếc B52 đánh phá miền Bắc Việt Nam. Phòng không Bắc Việt Nam đã bắn rơi 81 máy bay Mỹ, trong đó có 34 chiếc B52, loại máy bay cho đến lúc bấy giờ vẫn được coi là bất khả xâm phạm. Một làn sóng phản đối bừng lên khắp thế giới. Máy bay B52 đã không gieo rắc được sự hoảng loạn cho nhân dân miền Bắc Việt Nam, những tổn thất nặng nề về máy bay và phi công, sự phẫn nộ của thế giới... đã buộc Nixon phải ngừng ném bom và trở lại bàn đàm phán. Ngày 27 tháng 1 năm 1973, tại Paris, “Hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký kết, đặc biệt quy định rằng: Hoa Kỳ phải tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam; quân đội Mỹ, các cố vấn và nhân viên quân sự Mỹ cũng như của các nước đồng minh của Mỹ phải rút khỏi Nam Việt Nam trước ngày 27 tháng 3. Việc rút các lực lượng Mỹ mở đường cho một giải pháp chính trị. Hiệp định Paris mặc nhiên thừa nhận sự tồn tại của hai chính quyền và hai quân đội cũng như ba lục lượng chính trị đều phải hành động nhằm thực hiện sự hòa hợp dân tộc. Ngày 21 tháng 2 năm 1973, ở Viên Chăn, hai lực lượng của Lào cũng đã ký Hiệp định lập lại hòa bình và hòa hợp dân tộc, đảm bảo cho nhân dân Lào có thể thực hiện những quyền dân tộc cơ bản của mình. Hoa Kỳ phải ngừng mọi sự can thiệp và xâm lược, châm dứt mọi cam kết quân sự ở Lào và giải tán các lực lượng đặc biệt đã được tổ chức trên đất Lào. Một Chính phủ mới đoàn kết dân tộc lâm thời và một Hội đồng tư vấn chính trị với sự tham gia bình đẳng của Chính phủ Viên Chăn và các lực lượng yêu nước Lào dự kiến sẽ được thành lập.

Thế là tháng 1 và 2 năm 1973, Washington đã buộc phải thừa nhận, ít ra là trên nguyên tắc, nhân dân Việt Nam và Lào có quyền giải quyết công việc của mình mà không có sự can thiệp nào của Mỹ. Điều quan trọng nhất là việc buộc Mỹ phải rút kết mọi lực lượng quân sự ra khỏi Nam Việt Nam. Khi người ta biết rõ tính chính sách can thiệp có hệ thống mà Hoa Kỳ đeo đuổi ở Việt Nam từ năm 1950 và đã được tiếp tục từ sau 1970, với sự đồng lõa của Bắc Kinh thì người ta càng thấy đây là một thất bại to lớn, một bước lùi nghiêm trọng đối với đế quốc Mỹ. Chúng đã từng hướng chiến lược của mình vào mục tiêu khống chế Thế giới thứ ba, đã tập trung trong hơn hai chục năm trời mọi cố gắng của mình hòng đè bẹp phong trào dân tộc của Việt Nam, vậy mà nay lại buộc phải thừa nhận sự tồn tại của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và của Chính phủ Cách mạng lâm thời Nam Việt Nam trong khi dân tộc Mỹ lại bị giằng xé, một thế hệ thanh niên và một quân đội bị dày vò vì sự hoài nghi, danh dự quốc gia bị một vết nhơ không thể nào xóa sạch vì những tội ác to lớn đã gây ra; thực tế đó, đối với những người lãnh đạo theo chủ nghĩa thực dân mới ở Washington là một thất bại nghiêm trọng.

Bây giờ chúng ta hãy nhìn qua miền Bắc Việt Nam trong những năm chiến tranh, trong khi làm nhiệm vụ hậu phương lớn cho tất cả các mặt trận ở Đông Dương.