← Quay lại trang sách

Chiến tranh tiếp diễn

Hiệp định Paris chủ trương hòa hợp dân tộc, thừa nhận sự tồn tại của một lực lượng thứ ba và hai chính quyền khác nhau, mỗi bên có vùng lãnh thổ riêng đã được phân định. Tuy nhiên nhờ có nhiều vũ khí và đô la được Washington ủng hộ vô điều kiện và được Bắc Kinh đồng tình, Thiệu đã khẳng định lại chính sách bốn ''không'' của y: không cộng sản, không trung lập, không hòa giải với cộng sản và không phân chia lãnh thổ. Tất nhiên, ba cái “không” đầu là những khẳng định về nguyên tắc, còn cái ''không'' thứ tư, thì không tùy thuộc ý muốn riêng của Thiệu, cũng không tùy thuộc ý muốn riêng của Nixon, Kissinger. Chính phủ Cách mạng lâm thời, vùng lãnh thổ và các lực lượng vũ trang của riêng mình đều là những thực thể hiện diện trên thực địa, chứ không chỉ trong văn bản của Hiệp định đã được kí kết. Không thể chỉ dùng một nét bút hoặc một bài diễn văn mà có thể xóa bỏ những hiện thực đó.

Bộ chỉ huy Mỹ - Sài Gòn đã uổng công vô ích cắm chi chít trên đất miền Nam Việt Nam 250 tiểu khu quân sự, 10.000 đồn bốt; vẫn còn vô số khu vực do Chính phủ Cách mạng lâm thời quản lý nhất là ở các vùng đồng bằng Trung Bộ hoặc ở châu thổ sông Mê Kông, những vùng giàu có và đông dân, tạo thành những vệt trên bản đồ, thực sự như một làn da báo, làm cho Thiệu và bọn quan thầy Washington mất ăn mất ngủ. Chính phủ Cách mạng lâm thời cũng như các lực lượng vũ trang, các tổ chức xã hội-văn hóa và cán bộ của mình luôn hoạt động ở sát những vùng còn do Thiệu kiểm soát. Đó là một mối nguy hiểm chết người đối với chế độ Sài Gòn.

Ngay sau ngày kí Hiệp định Paris 28-1-1973, Thiệu tuyên bố. ''Ngừng bắn chẳng hề có nghĩa là ngừng chiến tranh''. Và ngay sau đó, tung các binh đoàn bộ binh thiết giáp, máy bay đánh vào các vùng giải phóng. Tờ US news and World Report (Tin Mỹ và phóng sự thế giới) ngay từ ngày 29-1-1973 đã nhấn mạnh rằng các lực lượng Sài Gòn tiến vào các vùng tranh chấp và các vùng do cộng sản chiếm đóng để thu hẹp vùng lãnh thổ và giảm bớt số dân do cộng sản kiểm soát. Tuy lực lượng Mỹ không còn ở đó nữa để yểm hộ quân đội Sài Gòn, nhưng không quân Mỹ đóng ở Thái Lan và ở khắp Thái Bình Dương (14 vạn người) luôn luôn có thể làm “lực lượng răn đe” huống chi các quan chức Mỹ không quên thỉnh thoảng lại hù dọa nhân dân Việt Nam rằng sẽ cho không quân Mỹ can thiệp trở lại (tuyên bố của Schlesinger, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ ngày 18-6-1973).

Ngay sau khi kí Hiệp định Paris, không những không chịu báo tin sự kiện đó cho quân đội của mình biết, Thiệu còn tung họ vào những cuộc hành quân liên miên đánh vào vùng giải phóng. Ngày 28-1, quân Thiệu tấn công vào cảng Cửa Việt và các huyện Hải Lăng, Triệu Phong thuộc tỉnh Quảng Trị, gần vĩ tuyến 17. Ở tây nam Huế, quân đội Sài Gòn tìm cách chiếm lại con đường 72 nối A-Sầu với cố đô. Trong ba tháng đầu năm 1973, quân đội Thiệu tấn công nhiều vùng khác trong tỉnh Quảng Nam, cảng Sa Huỳnh ở Quảng Ngãi (tháng 2 năm 1973), đọc đường số 4 thuộc tỉnh Mỹ Tho, và trong những ngày đầu của tháng ba, vùng Tống - Lê - Chân, Rạch Bắp ở tỉnh Thủ Dầu Một. Những trận tấn công bất ngờ trong mấy tuần lễ tiếp theo lệnh ngừng bắn, bằng những phương tiện cơ giới rất lớn đã cho phép quân đội Sài Gòn chiếm lại đây đó một vài khu vực. Trong một thông cáo chung công bố tháng 4 năm 1973, Nixon và Thiệu đã tỏ ra hí hửng về sức chiến đấu của lực lượng Sài Gòn, vui mừng về những thắng lợi đó.

Những kết quả đầu tiên đó khuyến khích Thiệu mở rộng hơn nữa quy mô các cuộc hành quân đến mức đủ trong một cuộc hành quân, chúng huy động đến hơn cả một sư đoàn. Từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1973, 70 tiểu đoàn đã tấn công tỉnh Chương Thiện; từ tháng 5 đến tháng 11, hai sư đoàn hành quân trong khu vực Bến Cát, tỉnh Thủ Dầu Một, một sư đoàn ở tây nam Phú Bài, tỉnh Thừa Thiên. Những cuộc hành quân lấn chiếm này hoặc được tiến hành một cách ào ạt, hoặc dưới hình thức gặm nhấm dần từng khu vực, đi đôi với những cuộc hành quân “bình định” ở những địa phương ít nhiều do Sài Gòn kiểm soát, trước hết nhằm vào các tỉnh đông dân nhất. Trở thành bộ phận quan trọng nhất của chiến lược thực dân mới từ khi “Việt Nam hóa” chiến tranh, những cuộc ''bình định'' đã được tăng cường sau ngày kí kết Hiệp định Paris nhằm củng cố hậu phương của quân đội Sài Gòn và các cơ sở của chế độ Thiệu.

Tất cả các khu vực mới bị các lực lượng Sài Gòn chiếm lại hoặc đã bị chúng chiếm lại từ trước lập tức bị đặt trong một hệ thống kìm kẹp bao gồm:

- Một mạng lưới đồn bốt và chi khu quân sự có quân chính quy đồn trú;

- Các lực lượng an ninh địa phương và dân vệ;

- Các lực lượng cảnh sát chính quy và đặc biệt;

- Một bộ máy cai trị bù nhìn;

- Những tên chỉ điểm hoạt động bí mật;

- Những tổ chức chính trị phản động.

Đó là chưa kể một loạt tổ chức ''nhân đạo'', ''văn hóa'', ''tôn giáo'', ''tương trợ''... vây chặt từng người dân trong một mạng lưới chằng chịt. Hai mươi năm kinh nghiệm và việc huy động nhiều chuyên gia đã giúp chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ hoàn thiện phương pháp kìm kẹp ngày càng tinh vi hơn của chúng. Sau khi đã ám sát, bắt giam các cán bộ và những người cảm tình của phong trào yêu nước, hoặc đơn giản chỉ là những công dân bị tình nghi, sau khi đã lên danh sách, ghi phiếu, khủng bố dân chúng, bọn Thiệu tìm cách lùa một bộ phận đông đảo dân chúng vào các tổ chức bán quân sự, các lực lượng tự vệ dân sự để đẩy họ đi đánh lại các chiến sĩ yêu nước. Như thế quân đội Sài Gòn có thể lợi dụng được một lớp vỏ bọc phòng vệ trong các cuộc hành quân, lại có được một lực lượng dự trữ cho những đợt chuyển quân mới.

Chỗ nào các lực lượng Sài Gòn không thể triển khai được toàn thể bộ máy chính trị-quân sự của chúng để lùa nhân dân vào hàng ngũ thì chúng sẽ cưỡng ép họ trở lại các trại hoặc khu tập trung. Hơn một triệu nới người đã bị tập trung như thế trong những năm 1973-1974. Những cuộc ném bom đã được thực hiện, những toán biệt kích được phái đi để phá hoại các vùng do Chính phủ Cách mạng lâm thời kiểm soát. Chính sách thực dân mới của Washington chỉ có thể thành công ở Việt Nam bằng chiến tranh, chế độ Thiệu chỉ có thể kéo dài được bằng chiến tranh, việc thực hiện nghiêm chỉnh những điều khoản của Hiệp định Paris sẽ làm thất bại chính sách đó và sẽ gióng lên hồi chuông kết liễu chế độ ấy.