← Quay lại trang sách

Sự rêu rã của hệ thống thực dân mới

Chế độ Thiệu cũng như danh sách thực dân mới của Mỹ không chỉ phải đương đầu với một Chính phủ Cách mạng lâm thời đã được thiết lập vững vàng ở những vùng giải phóng, mà còn vấp phải sự chống đối của nhân dân ngày càng tăng ở các thành thị và các vùng nông thôn mà ít nhiều họ còn kiểm soát. Việc kí Hiệp định Paris, việc rút các lực lượng quân sự Mỹ, chính sách hòa hợp dân tộc được Chính phủ Cách mạng lâm thời xác định rõ ràng, việc Hiệp định Paris chính thức thừa nhận lực lượng thứ ba, tất cả các nhân tố ấy đã truyền một luồng sinh khí mới vào phong trào rộng lớn vì hòa bình, độc lập, vì các quyền tự do dân chủ, vì sự bảo tồn nền văn hóa dân tộc và những thuần phong mỹ tục, một phong trào vốn đã luôn khuấy động đông đảo quần chúng nhân dân các đô thị.

Thiệu và các quan thầy Mỹ đã tiên liệu những điều đó. Trong những tháng trước đình chiến, Thiệu đã cho thi hành một loạt biện pháp để tăng cường hệ thống kìm kẹp vốn đã đè nặng lên dân chúng. Những sắc lệnh, điều luật kế tiếp nhau ra đời nhằm hạn chế thêm nữa chút tự do nhỏ nhoi còn tồn tại trong chế độ Thiệu.

Tháng 8 năm 1972, một sắc luật bãi bỏ việc bầu các trưởng thôn và trưởng xóm, để chí quyền bổ nhiệm họ. 7000 sĩ quan được chỉ định nắm các chức vị ấy, không kể 10.000 sĩ quan khác được bố trí giữ chức vụ an ninh ở các làng xã. Cũng tháng 8 năm 1972, sắc luật 007 áp đặt cho ngành báo chí những điều kiện hà khắc đến mức chỉ còn 18 trong số 40 tờ báo hiện có được phép tiếp tục ra mắt độc giả; một số lớn những tờ báo còn sống sót đó lại do chính quyền kiểm soát và đài thọ. Từ tháng 9 năm 1972, các báo phải nộp một khoản tiền bảo lãnh là 20 triệu đồng để dự phòng những khoản tiền phạt phải trả; mọi sáng kiến không có may mắn làm vừa lòng các nhà chức trách, đặc biệt là việc phổ biến những tin tức không có lợi cho chế độ - loại này không thiếu - có thể bị kết án 5 năm từ giam và 5 triệu đồng tiền phạt. Như thế, thực tế là đóng cửa tất cả các tờ báo ít nhiều còn giữ tính trung thực. Những vụ tịch thu ngày càng gia tăng đã đặt các báo vào tình thế không còn khả năng trang trải các chi phí, trừ phi cầu xin viện trợ của Chính phủ.

Một sắc luật về an ninh địa phương tuyệt đối cấm mọi cuộc đình công, biểu tình và cho phép cảnh sát nổ súng vào mọi cuộc biểu tình; sắc luật 090 cho phép cảnh sát bắt mọi người bị tình nghi. Đúng một tháng trước khi kí Hiệp định, một sắc luật áp đặt cho các đảng phái chính trị những điều kiện quá quắt đến nỗi chỉ có 4 trong 28 nhóm hiện có lúc bấy giờ có thế sống sót được.

Việc thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris bắt buộc phải thực thi các quyền tự do dân chủ hẳn đã là nguy cơ chết người đối với chế độ Thiệu. Ngay từ ngày 28-1-1973, Thiệu đã hung hăng xác định rõ trong một tuyên bố trên vô tuyến truyền hình:

'' Ngừng bắn tại chỗ có nghĩa là giữ nguyên hiện trạng, chỗ nào có chính quyền, có quân đội và có dân của chúng ta, nơi đó chúng ta ngự trị và là vua. Mọi việc ở đó tùy thuộc ở chúng ta. Tại đó, chúng ta áp dụng luật pháp của chúng ta, chính quyền của chúng ta. Mọi việc đều tiến hành như trước đây, không có gì thay đổi cả ''.

Không có chuyện hòa giải hoặc hòa hợp dân tộc, không có chuyện thỏa thuận với những người cộng sản, với những người trung lập; bản ''hiến pháp'' với nguyên tắc cơ bản là chống cộng sản, tất cả các đạo luật phát xít vẫn có hiệu lực. Vả chăng Washington đã cẩn thận tăng viện trợ tài chính và kĩ thuật để nâng quân số cảnh sát từ 12 vạn lên 15 vạn tên.

Hiệp định Paris quy định rõ ràng mọi tù nhân chính trị đều phải được phóng thích. Điều quan tâm đầu tiên của Thiệu là sát hại một số nhất định trước khi ngừng bắn, rồi đánh tráo tù chính trị thành từ thường phạm để khẳng định một cách trơ tráo rằng chế độ Thiệu không có tù chính trị. Mọi chứng nhân từ nhiều giới khác nhau, các nhà báo và đại biểu Mỹ, các chức sắc tôn giáo thuộc mọi quốc tịch, các nhân vật có uy tín nhất trên toàn thế giới, đều uổng công chứng minh một cách hùng hồn bằng vô số sự việc và lí lẽ, rằng có khoảng 200.000 tù nhân chính trị trong các nhà tù và trại khổ sai của chế độ Sài Gòn. Thiệu được Washington ủng hộ, cứ tiếp tục chối phăng.

Y còn làm hơn thế nữa, tăng gấp bội các vụ bắt bớ, tra tấn, không chỉ chống lại những người của Chính phủ Cách mạng lâm thời mà càng ngày càng quyết liệt chống cả lực lượng thứ ba. Sinh viên, trí thức, giáo sư, sư sãi đều bị quật dùi cui một cách dã man trên đường phố, bị bắt hàng loạt, bị đầy bị tra tấn. Với tất cả mọi người, y tuyên bố thẳng thừng: “Những kẻ nào có gan tự xưng mình là trung lập hoặc thân cộng sản, người đó sẽ không sống sót được quá năm phút” (12-10-1973).

Để đàn áp có hiệu quả hơn nữa, Thiệu đã chú ý đặt ra những biện pháp mới để tập trung mọi quyền lực vào tay mình. Từ 1971, y đã làm mọi việc để loại trừ đối thủ cạnh tranh duy nhất với mình trong các cuộc bầu cử tổng thống là Nguyễn Cao Kỳ.

Những cuộc bầu cử vào ''thượng viện'' Sài Gòn tháng 8 - 1973 là cơ hội để Thiệu loại những kẻ đối lập với mình và để đưa một trong những tay chân của mình là Trần Văn Lắm lên đầu bản danh sách ứng cử kép do ''đảng Dân chủ'' là ''đảng của Tổng thống'' giới thiệu. Việc đưa tay chân của mình vào cả hai Viện tạo điều kiện để thiệu đưa ra một sự sửa đổi ''Hiến pháp'' cho phép Thiệu:

- Được quyền ứng cử lần nữa trong cuộc bầu cử tổng thống vào năm 1975 với một nhiệm kỳ không phải 4 năm mà là 5 năm.

- Chỉ định các thành viên của Tòa án tối cao (các Viện chỉ còn mỗi một việc là nêu tên từng người.)

- Chỉ định các tỉnh trưởng, thị trưởng, quận trưởng.

Tháng 10 năm 1974, khi cải tổ Chính phủ, Thiệu lập ra một loạt "Hội đồng ủy viên'' trực thuộc Phủ Tổng thống, lại kèm thêm một ''Hội đồng lãnh đạo'' do Thiệu làm chủ tịch. Hội đồng này và các hội đồng ủy viên vượt qua đầu các bộ trưởng và cả thủ tướng - họ trở thành những bù nhìn của bù nhìn - giải quyết mọi việc quan trọng trong danh sách đối nội cũng như đối ngoại. Thủ tướng Trần Thiện Khiêm đã không che giấu được nỗi cay đắng của mình. Cả một loạt vụ giáng cấp đặc biệt nhằm vào 17 viên tướng, rồi một loạt vụ thăng cấp cho 39 sĩ quan lên cấp tướng, giúp Thiệu loại bỏ những người bị tình nghi chống đối chính sách của Thiệu, đưa những tay chân thân tín nhất vào các chức vụ có quyền thế trong quân đội cảnh sát và trong bộ máy hành chính. Những người thuộc cánh Nguyễn Cao Kỳ và cũng như tất cả những ai từng dính líu ít nhiều với Pháp đều bị loại bỏ để thay bằng những người đã được đào tạo hoàn toàn ở Mỹ.

Ngoài viện trợ quân sự, giới cầm quyền Washington ra sức ủng hộ Thiệu bằng một khoản viện trợ kinh tế lớn để giúp Thiệu giữ được vai trò của mình. Chúng dự tính cung cấp cho Thiệu một khoản tiền tương đương với số tiền mà Sài Gòn đã được nhận trong những năm chiến tranh, bao gồm cả các khoản thu nhập từ những chi phí của đạo quân viễn chinh Mỹ đóng trên lãnh thổ miền Nam, Việt Nam. Tính ra đội quân viễn chinh Mỹ đã tạo ra việc làm cho 250.000 người; chi phí tại chỗ của đội quân này đã cung cấp cho chế độ Thiệu khoảng ½ số thu nhập của họ bằng ngoại tệ (theo hãng UPI, 27-11-1974). Đại sứ Mỹ Graham Mactin đang ra sức thuyết phục quốc hội Mỹ cấp cho Thiệu khoản viện trợ kinh tế bình quân mỗi năm từ 700 triệu đến 800 triệu đô la.

Để đạt được việc thông qua dự án viện trợ đó, Washington và Sài Gòn ra sức khua chiêng gióng trông ầm ĩ về những kế hoạch tái kiến thiết và xây dựng đẹp như cõi tiên! Martin nhắc đến kế hoạch Marhall đã giúp châu Âu vươn mình lên từ những đổ nát của Đại chiến Thế giới thứ II và bắt đầu đà phát triển kinh tế. Về phía mình, Thiệu đưa ra một kế hoạch 6 tháng khôi phục và tái thiết rồi lên đường sang Washington xin đô la. Trở về Sài Gòn, y tung ra một kế hoạch đồ sộ tái thiết và phát triển kinh tế sau chiến tranh trong bảy năm (1973-80) với ba mục tiêu chính: tái xây dựng, ổn định những người phải di cư, khai thác mạnh mẽ những nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là khôi phục nông nghiệp, đầu tư vào công nghiệp và dịch vụ, trước hết là tìm cách thu hút vốn nước ngoài bằng những điều kiện có lợi cho các nhà đầu tư.

Ngày 26-3-1973, nhân ''Ngày nông dân'', Thiệu kêu gọi thực hiện kế hoạch đồ sộ 5 năm về nông nghiệp, đặc biệt nhằm phục hóa nửa triệu hec-ta ruộng đất bị bỏ hoang vì chiến tranh, cung cấp 3 triệu mét khối gỗ cho nhu cầu nội địa và xuất khẩu đánh bắt 1 triệu tấn cá, gấp đôi so với năm 1973. Việc phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp, theo Thiệu, sẽ cho phép xuất khẩu đạt giá trị hàng năm 400 triệu đô la, đủ trang trải mọi nhu cầu của đất nước về ngoại tệ.

Thiệu cũng gợi lên khả năng triệu tập một hội nghị quốc tế để quyết định những phương thức viện trợ cho chế độ Sài Gòn phát triển kinh tế. Những tuần đầu tiên sau ngày kí Hiệp định Paris, đã thấy nhiều nhân viên và nhà doanh nghiệp Mỹ, Anh, Pháp, Nhật lũ lượt kéo đến Sài Gòn. Đúng là tài nguyên thiên nhiên Nam Việt Nam rất nhiều và đa dạng (gạo, sao su, lâm sản, hải sản và triển vọng dầu hỏa), nhân công ở đây dồi dào và khéo tay; điều hấp dẫn đối với tư bản phương Tây là giá nhân công ở đây hai lần rẻ hơn so với Hồng Kông và Singapo. Sự ngoan ngoãn dễ bảo của chế độ Sài Gòn cũng là một đảm bảo tốt. Hạ tầng cơ sở - các đường giao thông, hải cảng và bến bãi, vốn đã được xây dựng tốt để phục vụ nhu cầu chiến tranh.

Người ta có thể dễ dàng tưởng tượng sự phát triển kinh tế mà chắc là Nam Việt Nam sẽ có thể đạt được với một khoản viện trợ kinh tế của Hoa Kì lớn hơn so với viện trợ cho bất cứ một nước nào khác trên thế giới. Thế nhưng, ngay từ những tháng đầu của năm 1973, mọi dấu hiệu của một sự suy thoái kinh tế đã bộc lộ rõ và ngày càng trầm trọng thêm. Ngày 21 tháng 8 năm 1973, đích thân Thiệu phải thừa nhận rằng ''giải quyết vấn đề kinh tế và xã hội hóa ra là việc khó''. Những triệu chứng ngày càng nhiều cho thấy sự đình đốn của nền kinh tế.

- Sản xuất công nghiệp và nông nghiệp giảm sút;

- Giá cả tăng nhanh và lạm phát theo tốc độ ngựa phi;

- Tình trạng thất nghiệp ngày càng trầm trọng;

- Khan hiếm chất đốt và hàng hóa.

Cho đến lúc bấy giờ, nền công nghiệp của Sài Gòn sống èo uột bị hàng nhập khẩu của nước ngoài bóp nghẹt, nhất là hàng Mỹ và hàng Nhật. Sản xuất công nghiệp tính ra chỉ bằng 10% tổng sản phẩm và rất nhiều xí nghiệp chỉ đơn giản cung cấp những bán thành phẩm làm bằng nguyên liệu nhập ngoại; trong đó, phần nhiều nằm trong tay người Pháp hoặc người Hoa (thuộc Đài Loan). Từ quý đầu của năm 1973, sản lượng ngành dệt đã sụt 2000 tấn so với cùng kỳ năm trước. Tình hình ở các khu vực khác cũng gần giống như vậy: đường, thuốc lá, đồ uống... Các nhà công nghiệp Việt Nam khốn đốn vì sự tăng giá chất đốt, các nguyên liệu nhập ngoại, lại gặp khó khăn vì sức mua giảm sút, nên đã phải buộc đóng cửa một bộ phận khá lớn các xí nghiệp của họ. Đến tháng 4 năng 1974, khoảng 50% các xí nghiệp phải đóng cửa.

Sự phá giá đồng bạc đi đôi với việc tăng giá cả, tình hình xấu đi từng tháng một. Năm 1973, đồng bạc Sài Gòn bị sụt giá 10 lần. Nếu năm 1955, tỷ giá hối đoái 35đ/ 1 đô la thì ngày 5 tháng 1 năm 1974, tỷ giá là 560đ Sài Gòn/ 1 đô la. Năm 1973, giá cả tăng từ 100 đến 200%, đối với các nhu yếu phẩm hàng đầu giá còn tăng hơn nữa. Ngày 5 tháng 8 năm 1973, chính quyền Sài Gòn đồng loạt tăng giá 3 mặt hàng cơ bản: tăng giá gạo 55%, đường 60%, xăng 76%. Ngày 20 tháng 11, giá dầu hỏa còn tăng thêm 50%. Ngày 23 tháng 11, tờ báo Độc Lập ở Sài Gòn viết: ''Để theo kịp với giá dầu tăng, giá của hầu hết các mặt hàng khác, nhất là các nhu yếu phẩm hàng đầu đều tăng vọt theo chiều thẳng đứng. Gạo - mặt hàng hiếm và đắt, nỗi quan tâng lớn của người dân Sài Gòn - tăng giá vòn vọt. Ngay sau khi giá chất đốt tăng, giá một tạ gạo lên đến 34. 000 đồng (cuối 1972 là 7.600 đồng). 900 mặt hàng khác cũng đều tăng giá

Ngân sách đạt đến những con số chóng mặt. Năm 1973, thâm hụt 116 tỷ đồng, đến kết thúc niên khoá lại thâm hụt thêm 78 tỷ đồng. Ngân sách năm 1974 ghi 543 tỷ đồng thu và 630 tỷ đồng chi, thâm hụt 177 tỷ. Lượng tiền lưu thông tháng 1 năm 1966 là 51 tỷ, đến tháng 1 năm 1973 lên tới 202 tỷ 800 triệu. Dự trữ ngoại tệ năm 1972 là 200 triệu đô la, năm 1973 tụt xuống còn 100 triệu. Tỷ lệ lạm phát chính thức năm 1973 là 65%, hai tháng đầu năm 1974 là 16%, cả năm 1974 sẽ lên tới 96%. Đồng đô la năm 1974 giá chính thức là 685 đồng, giá chợ đen còn cao hơn nhiều.

Thiệu chạy vạy cố móc ví của Washington được càng nhiều đô la càng tốt. Thế nhưng Nicxon bị vướng vào vụ bê bối Watergate và những khó khăn của nền kinh tế của Hoa Kỳ, nên chỉ có thể móc được của Quốc hội Mỹ 322 triệu đô la trong năm tài chính 1973-1974 (năm 1972 được 500 triệu). Thiệu đi một vòng các thủ đô phương Tây xin viện trợ, nhưng không gặt hái được mấy kết quả. Y liền tìm cách bán đổ bán tháo những tài nguyên của đất nước dưới dạng tạo điều kiện có lợi nhất cho các công ty dầu hỏa và các công ty khác, nhưng chỉ thu được 51 triệu đô la từ các công ty dầu hỏa Mỹ, Pháp, Nhật, Ca-na-đa và vài triệu từ các nguồn đầu tư khác.

Để trang trải ngân sách, Thiệu quay sang các loại thuế và lệ phí. Tờ Tin Sáng ở Sài Gòn ngày 21 tháng 4 năm 1973 viết:

'' Từ đầu năm 1973, tất cả các loại thuế đều tăng: thuế quầy hàng, thuế môn bài, thuế thu nhập đều tăng gấp ba. Thuế cước vận chuyển tăng lên 15 lần, các loại thuế khác đều tăng gấp đôi, vài thứ thuế khác tăng gấp 4, như thuế đánh vào các nhà in '' Ngày 1-7-1973, Thiệu ban hành một thứ thuế mới (thuế giá trị gia tăng) đánh vào tất cả mọi sản phẩm. Theo các báo Sài Gòn, trong vòng 40 ngày, dân chúng bị tước đoạt mất 5200 triệu đồng bởi thứ thuế này. Sự phản đối quyết liệt của mọi tầng lớp nhân dân buộc chính quyền Sài Gòn lùi bước, phải thôi không thu loại thuế này trong một vài khu vực. Ngày 22 tháng 11 năm 1973, Thiệu tăng thuế đối với hơn 200 mặt hàng nhập khẩu. Đầu năm 1973, một lít xăng giá 40 đồng, thuế đặc biệt là 20 đồng. Một năm sau, giá xăng lên đen 240 đồng/lít và thuế là 100 đồng. Giá đường đầu năm 1973 với thuế suất 10% là 200 đồng/1 kilô, một năm sau lên 600 đồng. Giá cả và thuế cũng leo thang như thế đối với các mặt hàng thuốc lá, rượu, bia, thuốc lá điếu... Thuế ruộng đất tăng 20%. Thuế đánh vào tiểu thương tăng 100%. Năm 1974, Thiệu chủ trương đẩy mạnh việc thu thuế ở các vùng nông thôn, cho đến lúc bấy giờ chỉ mới cung cấp 10% ngân sách.

Nhiều biện pháp nghiêm ngặt được ban hành chống lại mọi sự chậm trễ trong việc đóng thuế hoặc không khai báo. Một cơ quan điều tra về thuế, những đội đặc nhiệm phụ trách việc thu thuế được thành lập. Bọn này tổ chức những đợt ra quân thật sự mang tính hỗn hợp ''quân sự - thuế vụ'', nhiều vụ lục soát đại quy mô, bọn nhân viên thuế vụ tha hồ cướp bóc tiền bạc của các doanh nghiệp cũng như của tư nhân. Báo chí Sài Gòn phản ánh những hành động chống đối của dân chúng. Ngày 24 tháng 6 năm 1974, tờ Điện tín viết: “Cứ lâu lâu Nhà nước lại tưởng tượng ra một cách đánh thuế mới. Dù làm gì, dù đi đâu, người dân cũng đụng phải thuế. Thuế tìm đến anh ngay cả khi anh cửa đóng then cài ngồi trong nhà mình. Những người dân bình thường làm khó nhọc từ sáng đến tối vẫn không thể kiếm đủ gạo nuôi con, để cho những kẻ ngồi trên cao vô công rồi nghề, đắm mình trong những căn phòng điều hòa nhiệt độ, phì phèo điếu xì gà trên môi, ngồi vắt óc để nghĩ ra thứ thuế mới''.

Một tình hình kinh tế như vậy đã đưa đến những hậu quả đặc biệt tệ hại đối với đời sống của dân chúng. Cuối năm 1974, tổng số người thất nghiệp lên đến 2,5 triệu, theo con số chính thức. Còn theo những ước tính khác thì đến 3,5 triệu người. Ở Trung Bộ (Quảng Tín, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn) khoảng 50% số người lao động bị thất nghiệp. Hàng trăm trẻ em bị bỏ rơi lang thang ở các thành thị, nơi mà cảnh ăn xin, đĩ điếm, ma túy lan tràn hơn bao giờ hết. Những vụ tự tử, nhiều khi là cả gia đình, xảy ra ngày càng nhiều. Xã hội Sài Gòn hoàn toàn rệu rã.

Chẳng cần phải sáng suốt cũng nắm được nguyên nhân gốc rễ của tình trạng điêu tàn và rệu rã này. Việc rút quân lính Mỹ đã khiến nhiều khoản thu nhập của chế độ bị thâm thủng lớn, nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là sự hợp tác chiến tranh đã làm suy sụp kinh tế và xã hội, gây ra cuộc tổng khủng hoảng lay động cả xã hội Sài Gòn này. Ở Nam Việt Nam xưa kia tràn trề lúa gạo, lần đầu tiên người ta nhìn thấy có người chết đói. Làm thế nào để phục hóa nửa triệu hecta ruộng đất, mở rộng khai thác rừng, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, phát triển công nghiệp địa phương, nếu Thiệu theo sự thúc giục của Nixon-Kissinger-Ford cứ hành quân lấn chiếm, bình định, tập trung dân? Chiến tranh vẫn là do Mỹ chủ xướng, nhưng gánh nặng về người và tài chính thì ngày càng đổ lên đầu nhân dân miền Nam Việt Nam vì nay chiến tranh đã được "Việt Nam hóa''.