← Quay lại trang sách

Bước đầu của sự kết thúc

Ngừng bắn, phóng thích tù binh, tự do đi lại giữa hai vùng, tự do dân chủ, hòa giải và hòa hợp dân tộc, thừa nhận lực lượng thứ ba và tất nhiên, thừa nhận sự tồn tại của Chính phủ Cách mạng lâm thời và các vùng lãnh thổ đã được giải phóng - tất cả những điều đó, đối với Thiệu đều không hề có. Còn Nixon thì ngay sau khi kí Hiệp định Paris, đã gào lên rằng ông ta chỉ thừa nhận chính quyền Thiệu như là Chính phủ hợp pháp duy nhất của Việt Nam mà thôi. Sau hơn hai mươi năm, những luận điệu ấy của Nixon là động thái báo trước những chuyện chẳng lành tương tự như lời Eisenhower sau khi Hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết năm 1954.

Đối với Nixon-Kissinger-Ford, kết cục duy nhất có thể chấp nhận là đè bẹp Chính phủ Cách mạng lâm thời, ít ra là bóp nghẹt được Chính phủ đó và bảo đảm cho một chế độ thực dân mới chư hầu của Mỹ đứng chân lâu dài ở Sài Gòn. Có thể có người tưởng rằng sau Hiệp định Paris 1973, mọi việc lại sẽ diễn ra như sau Hiệp định Genève 1954. Nhưng lịch sử không lặp lại. Có thể là trong 20 năm, Washington đã có thì giờ để dựng lên ở Nam Việt Nam một bộ máy quân sự và cảnh sát khổng lồ, nhưng các nhà lãnh đạo Mỹ đã nhầm to khi họ tưởng tượng ra rằng những sự hủy diệt, tàn phá, những tang tóc do họ gieo rắc trên đất Việt Nam đã làm kiệt quệ, suy yếu nhân dân Việt Nam đến mức hoàn toàn bất lực.

Năm 1954, lực lượng kháng chiến Việt Nam đã phải hoàn toàn rời khỏi miền Nam Việt Nam, tập kết lực lượng vũ trang, cán bộ của mình ra miền Bắc, để lại một dân chúnh không vũ khí, không cán bộ đối mặt với kẻ thù đế quốc. Năm 1975, Chính phủ Cách mạng lâm thời vẫn đóng giữ những vùng lãnh thổ cùng với lực lượng vũ trang của mình. Sự khác biệt so với năm 1954 là cơ bản. Nhân dân Nam Việt Nam cũng như dân Bắc Việt Nam đã dày dạn chiến trận hơn rất nhiều. Sự đe dọa dùng vũ khí và quân lính của Mỹ không còn làm ai run sợ, cho dầu có sự hợp đồng với áp lực từ phía bên ngoài chăng nữa.

Trong những tháng liền sau ngày kí Hiệp định Paris, quân đội Sài Gòn được trang bị hiện đại, đã có thể tiến hành vài cuộc hành quân bất ngờ và thu được một vài kết quả nào đó làm nảy sinh ảo tưởng. Nhưng đương nhiên là Chính phủ Cách mạng lâm thời, các lực lượng vũ trang giải phóng và dân chúng Nam Việt Nam không thể khoanh tay ngồi nhìn những vụ vi phạm Hiệp định Paris lặp đi lặp lại như thế, uy hiếp nghiêm trọng hòa bình và an ninh của mọi người.

Mạng lưới kiểm soát chằng chịt như bàn cờ của cảnh sát, những biện pháp phát xít ngày càng khắc nghiệt từ sau tháng 1 năm 1973 không thể ngăn cản nhân dân những vùng do Thiệu kiểm soát tiến hành một cuộc đấu tranh chính trị còn quyết liệt và rộng lớn hơn các cuộc đấu tranh trước kia. Hiệp định Paris được kí kết, việc rút quân Mỹ, sự hiện diện của Chính phủ Cách mạng lâm thời và các lực lượng vũ trang của mình, chính sách hòa giải và hòa hợp dân tộc - những nhân tố ấy đã có tác động đẩy mạnh cuộc đấu tranh của dân chúng ở các thành thị đã chịu đau khổ ghê gớm vì tình trạng chiến tranh và chế độ độc tài phát xít của Thiệu. Tình trạng đình đốn về kinh tế và những thất bại của quân đội Sài Gòn càng cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của quần chúng. Thiệu đã phí công bắt bớ, tra tấn; các cuộc biểu tình, đình công vẫn tăng dần lên với sự tham gia của mọi tầng lớp xã hội; nhiều công chức và binh sĩ của Thiệu đã tham gia vào hành động này, hoặc công khai tỏ cảm tình với những người chống đối.

Mặc dầu Mỹ và Thiệu đã hết sức cố gắng ngăn cản việc phổ biến văn bản của Hiệp định, ngay sau ngày kí, một phong trào rộng lớn đòi giải phóng từ chính trị đã nổ ra. Có ai ở miền Nam Việt Nam lại không có một người bà con, bạn bè, hoặc anh em của mình bị bắt giam trong vô số những nhà tù ở khắp các tỉnh. Tuy cuộc đấu tranh chủ yếu là do các tầng lớp quần chúng lao động tiến hành duới sự lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc giải phóng, nhưng dần dần, các tầng lớp xã hội khác đặc biệt là sinh viên trí thức, tín đồ và giáo sĩ các tôn giáo khác nhau với ý thức chính trị và tinh thần chiến đấu đã tăng lên nhờ tác động của thời cuộc, đã tham gia ngày càng mạnh mẽ vào cuộc chiến đấu. Quy mô to lớn của sự can thiệp của Mỹ về quân sự kinh tế, tư tưởng đã dẫn đến hậu quả là có nhiều phần tử trong nhiều năm, tạm thời tách mình ra khỏi phong trào dân tộc, thường là náu mình bằng cách ở ẩn, nhưng dần dần họ cũng ý thức được sự cần thiết phải chiến đấu để cứu dân tộc cùng với các truyền thống và phong tục tốt đẹp, cứu toàn thể xã hội khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn. ''Lực lượng thứ ba'' đã xuất hiện như thế và càng ngày càng tự biểu hiện nhiều hơn bằng hành động, các chiến sĩ của họ cũng tiếp bước các chiến sĩ của phong trào cách mạng đi vào nhà tù, ở đó chính sách hòa hợp dân tộc có thể nói là đã tìm thấy một địa bàn lý tưởng. Đối với Việt kiều ở nước ngoài cũng vậy, nhất là ở Pháp, nơi mà người của Chính phủ Cách mạng lâm thời và của nhiều nhóm phái khác, kể cả những người trước đây đã công khai ủng hộ Mỹ, tập hợp nhau lại để cùng đòi thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris và vạch trần các thủ đoạn của Washington và Sài Gòn.

Sự chống đối ngày càng tăng của dân chúng đã buộc Thiệu phải cải tổ Chính phủ Sài Gòn nhiều lần, phải đình chỉ việc thu thuế giá trị gia tăng đối với một số lớn hàng hóa; tháng 6 năm 1974, Thiệu buộc phải cấm các thành viên của chính quyền, của quân đội và cảnh sát không được tham gia các nhóm chính trị. Sự chống đối lan cả vào ''hạ nghị viện''. Tháng bảy, 58 nghị sĩ ký tên vào một kiến nghị đòi Chính phủ phải giải trình về việc thi hành Hiệp định Paris, về nạn hối lộ, buôn lậu và các tệ nạn xã hội khác. Nhiều ủy ban, nhiều tổ chức được thành lập đòi thi hành Hiệp định Paris, phóng thích các tù nhân chính trị.

Tháng bảy, 30 tu sĩ công giáo họp ở Cần Thơ lên án tệ tham nhũng của chính quyền Thiệu. Phong trào chống tham nhũng lớn dần lên, trong khi các nhà lãnh đạo Phật giáo lên án chính quyền Thiệu đi theo vết xe của Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo, kêu gọi bảo vệ hòa bình và Hiệp định Paris. Đến tháng chín, 30.000 người ở Huế xuống đường đòi Thiệu từ bỏ hệ thống cai trị bằng bạo lực, và phải trả lời bản cáo trạng buộc tội y và vợ về tội tham nhũng.

Điều có ý nghĩa là giáo hội Công giáo vốn từng ủng hộ một cách quyết liệt Ngô Đình Diệm rồi Nguyễn Văn Thiệu, nay rốt cuộc cũng đi đến chỗ phải dè dặt với chính quyền Sài Gòn. Quần chúng tín đồ Công giáo, dưới ảnh hưởng của thời cuộc đã thức tỉnh dần dần và không còn tuân thủ một cách thụ động các đấng bề trên như trước nữa. Nhiều linh mục trẻ công khai theo lập trường độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội, cùng vào tù với các chiến sĩ cách mạng.

Tẩy chay những thông tin do chính quyền phổ biến, diễu hành của các nhà báo, tuyên ngôn chống đối của các luật sư, biểu tình của 5.000 tín đổ Công giáo ở vùng ngoại ô Sài Gòn, mít tinh phản đối ở thị xã Quảng Ngãi với 17.000 người dự, hiệu triệu của 44 ''nghị sĩ'' lên án hành động đàn áp các sư sãi, cơn thịnh nộ của đông đảo quần chúng không ngừng dâng cao.

Washington lo lắng. Trong khi Thiệu cố bám vào quyền lực cá nhân của mình, loại trừ dần tất cả những ai không ăn cánh với y, thì các nhà lãnh đạo Mỹ lại muốn thấy các lực lượng phản động tập hợp dưới trướng của Thiệu càng đông càng tốt. Có nhiều sức ép buộc Thiệu phải loại bỏ những tay chân bị tai tiếng nhất. Dưới sức ép từ hai phía - sự chống đối của nhân dân và áp lực của các cơ quan Mỹ - đến tháng 10, Thiệu buộc phải cho thôi chức bốn người trong số những bộ trưởng thân cận nhất của mình, trong đó có Hoàng Đức Nhã, cháu trai của Thiệu, Bộ trưởng Bộ Thông tin, đối tượng bị báo chí phỉ nhổ. Nhưng như vậy cũng không mảy may xoa dịu được dư luận. Cuối 1974, vụ xử án ba tờ báo bị kết tội đã công bố bản thông báo lên án Thiệu về tội tham nhũng đánh động toàn thể dư luận. Để ngăn chặn mọi cuộc biểu tình trong ngày xử án (sau đó, phiên tòa buộc phải hoãn lại), Thiệu phải huy động đến 40.000 cảnh sát và ban bố lệnh giới nghiêm. Trong một cuộc biểu tình phản đối vụ xử án có hàng chục nghìn người tham gia, đã xảy ra nhiều cuộc đụng độ dữ dội với cảnh sát, nhiều nhân vật có tiếng tăm đã bị thương. Mặc dù đã có những vụ tịch thu và lệnh cấm xuất bản, các báo vẫn đăng những lời buộc tội nhiều thành viên của Chính phủ. Trong dịp lễ Noel, sinh viên và học sinh trung học biểu tình chống chính sách văn hóa, và đến tháng giêng, sinh viên lại xuống đường đòi đình chỉ việc đàn áp và bắt lính. Các nghiệp đoàn triệu tập một cuộc họp bất thường để đấu tranh chống sa thải, đòi quyền bãi công và những yêu sách kinh tế đã trở nên cực kỳ gay gắt vì nạn lạm phát như ngựa phi và thất nghiệp.

Hai năm sau ngày ký Hiệp định Paris, Thiệu càng bị cô lập về chính trị hơn bao giờ hết. Phong trào đòi thi hành Hiệp định Paris, đòi hòa bình và hòa hợp dân tộc là không thể cưỡng được. Khẩu hiệu: "Lật đổ Thiệu, lập nên ở Sài Gòn một Chính phủ sẵn sàng thi hành triệt để Hiệp định Paris'' gần như được toàn thể các tầng lớp xã hội, các khuynh hướng chính trị và tôn giáo hưởng ứng. Chưa bao giờ chính sách của Washington và tay sai của họ lại đi ngược chiều, đối đầu trực tiếp với những nguyện vọng sâu sắc nhất của nhân dân Việt Nam đến thế.

Việc thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris ắt sẽ dẫn tới một cuộc đụng đầu chính trị giữa các lực lượng dân tộc liên minh với nhau và các phe nhóm thân Mỹ. Đấy chính là điều Nixon - Kissinger, rồi Ford, cũng như Thiệu và cả tập đoàn những kẻ lợi dụng chiến tranh ở Sài Gòn đều muốn tránh bằng mọi giá. Chúng đã chọn con đường tiếp tục cuộc đụng đầu về quân sự vì luôn cho rằng sức mạnh kỹ thuật và tài chính của Hoa Kỳ đủ bù đắp những yếu kém về chính trị và tư tưởng. Thái độ ôn hòa của Chính phủ Cách mạng lâm thời trong những tháng đầu tiên sau khi ký Hiệp định có thể đã làm cho Washington và Thiệu tưởng rằng đó là một dấu hiệu của thế yếu.

Về phía mình, Chính phủ Cách mạng lâm thời đã phổ biến rộng rãi văn bản Hiệp định Paris trong dân chúng, với hy vọng rằng đối phương rút được những bài học kinh nghiệm đã qua, rốt cuộc sẽ đi theo chính sách hòa bình và hòa hợp dân tộc. Các nhà thương thuyết của Chính phủ Cách mạng lâm thời nhiều lần đưa ra những đề nghị cụ thể để thực hiện việc ngừng bắn, phóng thích các tù nhân chính trị, thực hiện các quyền tự do dân chủ, thành lập Hội đồng dân tộc hòa giải và hòa hợp dân tộc gồm ba thành phần, và giải quyết vấn đề tổng tuyển cử cũng như việc giải ngũ các lực lượng vũ trang của cả hai bên.

Do Mỹ xúi giục, Thiệu vẫn luôn luôn giả điếc, cứ tiếp tục những cuộc hành quân lấn chiếm vùng đất do Chính phủ Cách mạng lâm thời kiểm soát. Cuộc gặp mặt Lê Đức Thọ-Kissinger ở Paris tháng 5-1973, rồi việc ký thông cáo chung trong đó các bên cam kết áp dụng những biện pháp cụ thể để thi hành toàn bộ bản Hiệp định Paris không làm thay đổi mảy may thái độ hiếu chiến của các lực lượng Sài Gòn và các nhà chức trách Mỹ. Ngày 18 tháng 6, Schlesinger, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ dự tính đến khả năng ném bom trở lại miền Bắc Việt Nam.

Tháng 7 năm 1973, đồng thời với việc khẳng định một lần nữa ý chí của mình thực hiện Hiệp định Paris, Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng ở Công Tum đã buộc phải đưa ra một lời cảnh cáo: nếu quân đội Sài Gòn sử dụng không quân thì họ sẽ vấp phải một sự giáng trả đích đáng. Thiệu vẫn tiếp tục mở những cuộc hành quân lấn chiếm ở tỉnh Chương Thiện thuộc miền Đông Nam Bộ, và các cuộc càn quét, bình định cứ tăng lên ở các vùng do Thiệu kiểm soát. Máy bay trinh sát của Mỹ bay qua vùng trời của Bắc Việt Nam.

Ở tỉnh Tây Ninh, trên Tây Nguyên, trong vùng châu thổ sông Mê Kông và các vùng đồng bằng Trung Bộ, Thiệu mở những cuộc hành quân cỡ sư đoàn, trong khi máy bay của y đến dội bom ở nhiều địa phương trong vùng giải phóng. Washington thậm chí còn cho một hàng không mẫu hạm đến tuần tiễu ở ngoài khơi bờ biển Bắc Việt Nam. Cũng cần nhắc lại rằng trong thời kỳ này, Bộ chỉ huy Mỹ tăng cường ném bom những vùng tự do của Campuchia.

Trước chủ tâm của đối phương tiếp tục chiến tranh, ngày 15 tháng 10 năm 1973, Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng ra lệnh cho quân đội của mình và cho dân chúng đánh trả mạnh mẽ mọi hành động chiến tranh của các lực lượng Sài Gòn để bảo vệ sinh mạng và tài sản của nhân dân và bảo đảm việc thi hành Hiệp định Paris. Lệnh còn nói rõ rằng các lực lượng giải phóng sẽ không chỉ đánh trả ở những nơi đối phương tấn công, mà tự mình sẽ chọn nơi để giáng đòn đánh trả.

Tức thời, Kissinger bay sang Bắc Kinh và một bản thông cáo Trung-Mỹ nói rõ rằng: “Trong tình hình đặc biệt nghiêm trọng hiện nay, điều quan trọng là hai bên thường xuyên tiếp xúc với nhau để tiến hành trao đổi quan điểm về những vấn đề thuộc lợi ích chung”.

Thiệu không hề ngừng các cuộc hành quân, cho ném bom vào sâu trong các vùng giải phóng, lợi dụng những dịp mưa bão để tăng cường “bình định”. Ngày 6 tháng 11, pháo binh giải phóng tung ra một đòn cảnh cáo nghiêm khắc bằng cách nã đạn vào sân bay Biên Hòa, nơi xuất phát các máy bay ném bom. Tháng 11, 7 máy bay của Sài Gòn bị bắn hạ ở tỉnh Quảng Đức; tháng 12, khi Sài Gòn tăng cường ném bom các vùng tự do, các lực lượng giải phóng không còn án binh bất động nữa: họ đốt cháy các kho xăng ở ngay Sài Gòn, hoặc phá hủy những kho vũ khí ở gần Plâycu.

Năm 1974 bắt đầu bằng những lời tuyên bố hiếu chiến của Thiệu và của Schlesinger, trong khi Lầu Năm Góc gửi sang cho Thiệu những máy bay F5E tối hiện đại. Nixon xin Quốc hội Mỹ tăng gấp đôi viện trợ quân sự cho Thiệu. Máy bay Sài Gòn thậm chí xả súng bắn cả vào trụ sở ủy ban quốc tế kiểm soát và những địa điểm được chọn làm nơi trao trả tù binh. Ngày 19 tháng giêng, nhiều tàu chiến của Hải quân Trung Quốc, với sự đồng tình của hạm đội VII của Mỹ, đuổi quân đội Sài Gòn ra khỏi quần đảo Hoàng Sa...

Tháng hai, các lực lượng yêu nước tấn công sân bay Quảng Ngãi. Tháng ba, họ giáng cho tiểu đoàn 62 biệt kích biên phòng của ngụy một tổn thất rất nặng nề (mất 1/2 quân số) trong tỉnh Công Tum. Tháng tư, căn cứ Tống Lê Chân, nơi xuất phát nhiều cuộc hành quân lấn chiếm, bị bao vây và pháo kích dữ dội, buộc quân chiếm đóng phải bỏ căn cứ. Thiệu ra lệnh ném bom Lộc Ninh và nhiều địa phương khác trong nhiều ngày, hoãn vô thời hạn các cuộc thương thuyết ở Saint- Cloud. Nixon và Kissinger ra sức thuyết phục Quốc hội Mỹ tăng đáng kể viện trợ quân sự và kinh tế cho Thiệu, viện cớ một ''sự cam kết tinh thần'', mà theo họ, Mỹ đã hứa với tên bù nhìn Sài Gòn. Từ sau khi ký Hiệp định Paris, sự cam kết này đã được thể hiện bằng việc gửi sang cho Thiệu 1 triệu tấn bom đạn 1.100 xe tăng và xe bọc thép, 800 đại bác, 700 máy bay, 200 tàu chiến hoạt động trên biển và trên sông. Trang bị và tiền của Mỹ đã giúp Thiệu trong vòng hơn 1 năm tiến hành hàng trăm nghìn cuộc hành quân lấn chiếm, bắn phá và ném bom.

Một cuộc hành quân lớn được tiến hành vào tháng 5 trong khu vực Bến Cát với ba sư đoàn, được máy bay F5E do phi công Mỹ lái yểm trợ, nhưng sự đánh trả của các lực lượng giải phóng trong ba tháng, từ tháng 5 đến tháng 7, đã làm Sài Gòn bị mất 8.000 lính đánh thuê, 182 xe tăng và thiết giáp, 34 máy bay. Trả lời tờ Newsweek (Tuần tin tức) ngày 10/5/1974 một sĩ quan của sư đoàn 5 Sài Gòn tuyên bố rằng tinh thần quân đội là vấn đề khó khăn lớn nhất đối với Bộ chỉ huy Sài Gòn (chứ không phải vấn đề cung cấp hay thiết bị). Đến cuối sáu tháng đầu của năm 1974, quân đội Sài Gòn đã có 175.000 người bị giết, bị thương hoặc bỏ chạy. Nạn đào ngũ tăng lên. Trong tình thế đó Thiệu càng ngoan cố cho quân đi đánh phá các vùng tự do, thì quân đội của Thiệu càng chuốc lấy nhiều thất bại và tan rã ngày càng nhanh; ngay cả sự tiếp viện ồ ạt về đô la và vũ khí cũng không thể nào đảo ngược được tình thế. Tháng 7 và tháng 8, tại nhiều vùng đồng bằng ven biển Trung bộ, các lực lượng Sài Gòn mất 160 đồn bốt và vị trí quân sự là bàn đạp xuất phát của các cuộc tấn công đánh phá các vùng tự do. Sân bay Đà Nẵng và Biên Hòa đều bị pháo kích, nhân dân ở 16 xã, 2 huyện và 16 khu tập trung nổi dậy và tự giải phóng. Tình thế ngày càng xấu đi đối với các lực lượng Sài Gòn, trên vùng Tây Nguyên cũng như ở Trung bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Các lực lượng giải phóng xóa bỏ dần tất cả các đồn bốt đã được dựng lên một cách bất hợp pháp trong những tháng sau ngày ký Hiệp định Paris.

Tướng Mỹ John Murray, người chỉ huy tổ chức viện trợ DAO ở Sài Gòn, thú nhận rằng tổn thất của Sài Gòn trong năm 1973 cũng như năm 1974 vượt quá một trăm nghìn người, còn Thiệu thì thừa nhận rằng ''chúng ta đã mất nhiều làng xã, nhiều huyện, và cả một thành phố nữa'' (AP, 29-1-1975). Phía Chính phủ Cách mạng lâm thời đưa ra con số 255.000 người phía Sài Gòn chết, bị thương hoặc đào ngũ. Trong khi tổng thống Ford và Kissinger ra sức thuyết phục Quốc hội cấp một khoản viện trợ bổ sung cho Thiệu thì tờ The Time (Thời báo) ngày 17-1-1975 viết: '' Các nguồn tin quân sự phương Tây cho rằng tinh thần của quân đội Nam Việt Nam (tức Sài Gòn) sẽ là nhân tố quyết định trong những tháng tới, hơn và sự thiếu hụt ít nhiều nào đó trong việc cung cấp thiết bị quân sự. ''