← Quay lại trang sách

Đại thắng mùa xuân 1975

Thay vì thi hành Hiệp định Paris, Nixon, Ford, Kissinger và Thiệu đã chọn giải pháp bạo lực; họ đã chọn con đường quân sự. Chính trên bình diện quân sự, họ đã phải đón nhận những nỗi thất vọng cay đắng nhất. Những thất bại trong năm 1974 không làm giảm bớt thái độ hung hăng hiếu chiến của Thiệu, nhưng ngay từ tháng 12-1974 và nhất là từ đầu 1975, trên đà tiến quân của mình, các lực lượng giải phóng đã lần lượt tân công vào các chi khu quân sự và đồn bốt tìm là bàn đạp xuất phát cho các cuộc hành quân lấn chiếm và bình định của quân Sài Gòn.

Sang tháng chạp, các lực lượng giải phóng mở các cuộc tấn công ở nhiều tỉnh, đặc biệt ở tỉnh Phước Long (tỉnh lỵ là Phước Bình) ở tây bắc Sài Gòn, trên đường lên Tây Nguyên, ở phía tây châu thổ sông Mê Kông, ở các tỉnh Rạch Giá, Cần Thơ và Bình Tuy. Các lực lượng chính quy, với những phương tiện hùng hậu, tiêu diệt các đồn bốt và công sự kiên cố trong khi quân du kích tấn công vào các tổ chức chính quyền và tổ chức bán quân sự. Ngày 6 tháng giêng, tỉnh lỵ Phước Long được giải phóng. 3000 quân của Sài Gòn bị tiêu diệt, 650 người bị bắt làm tù binh, 12 khẩu đại bác hạng nặng bị chiếm, 10 máy bay bị hạ. Lần đầu tiên, trọn vẹn một tỉnh cùng với tỉnh lỵ được giải phóng. Việc mất Phước Long làm xôn xao dư luận trong nước và quốc tế, Thiệu và chính quyền Mỹ tìm cách kích động bằng một đợt tuyên truyền ầm ĩ, nhưng vô hiệu.

Đầu tháng 3, các mũi tấn công hướng chủ yếu lên vùng cao Tây Nguyên và các tỉnh phía Bắc: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Đà, Quảng Ngãi, Quảng Đức. Từ ngày 5 đến ngày 9 tháng 3, hướng tiến công là những con đường chiến lược lớn dẫn lên các tỉnh lỵ trên Tây Nguyên, đường số 14, huyết mạch nam-bắc Tây Nguyên; đường 19, mạch ngang quan trọng nhất đi từ Quy Nhơn lên Plâycu, đường 21 từ Ninh Hòa lên Buôn Mê Thuật. Những tiểu khu quân sự và đồn bốt quan trọng kiểm soát những đường lên Buôn Mê Thuật đều bị xóa sổ.

Ngày 10-3, sau một trận pháo kích dữ dội, các lực lượng giải phóng xông thẳng vào trung tâm Buôn Mê Thuật, nơi có các cơ quan chỉ huy, bỏ qua không cần đánh vào những đồn bốt phòng vệ ở vòng ngoài. Các đài chỉ huy bằng vô tuyến nhanh chóng bị vô hiệu hóa, làm cho sự chống cự bị tê liệt. Việc chiếm sân bay và kho vũ khí là những đòn cuối cùng làm cho quân đội Sài Gòn mất hẳn tinh thần và tháo chạy. Ngày 11 tháng 3, thành phố Buôn Mê Thuật được giải phóng. 2000 lính Thiệu bị bắt làm tù binh, 25 đại bác bị chiếm cùng với 200 xe các loại Trực thăng từ Sài Gòn bay tới để bốc các cố vấn Mỹ lên, nhưng hai trong số đó vẫn bị bắt. Tướng Sài Gòn là Lê Trung Tường bị thương, đại tá Vũ Thế Quang lên thay, bị tử trận, sư đoàn bộ binh số 23 bị xóa sổ. Không quân Sài Gòn tỏ ra hoàn toàn bất lực. Sài Gòn mưu toan một cuộc phản công bằng cách tập trung quân ở Phước An, ở đông bắc Buôn Mê Thuật, nhưng trung tâm này đã nhanh chóng bị các lực lượng giải phóng đánh chiếm. Cùng với Buôn Mê Thuật, tỉnh Đắc Lắc được hoàn toàn giải phóng. Các đội quân Sài Gòn tháo chạy đã không kịp phá hủy kho đạn lớn ở Buôn Mê Thuột (dài 1,5 km với gần 1 km chiều rộng); điều đó chứng tỏ rằng thứ mà chúng thiếu không phải là vũ khí.

Buôn Mê Thuột thất thủ nhanh chóng là một bất ngờ đau đớn cho Thiệu và các quan thầy của y ở Washington. Những đơn vị tinh nhuệ nhất của Sài Gòn tan rã một cách dễ dàng, bỏ lại mọi trang bị và vũ khí, dân chúng ở nhiều làng nổi dậy, làm cho các tỉnh lỵ bị cô lập hoàn toàn, các lực lượng chính quy của quân giải phóng càng được rảnh tay để tấn công thẳng vào các trọng tâm lớn.

Thực tế chứng tỏ quân giải phóng có đủ khả năng tấn công các trung tâm quan trọng nhất của Tây Nguyên đã bị cô lập Sài Gòn chỉ còn một con đường là quyết định một cuộc tổng rút lui những lực lượng còn đóng ở các trung tâm Công Tum, Plâycu, Phú Bổn (Cheo Reo). Cuộc rút lui diễn ra trong một không khí hoảng loạn, theo hướng Tuy Hòa bằng con đường số 7; những lực lượng chính quy, những đoàn xe thiết giáp chen chúc lẫn lộn với các cơ quan hành chính, các lực lượng bán quân sự cùng gia đình binh sĩ và nhân viên chính quyền. Binh sĩ và cảnh sát Sài Gòn cưỡng ép một bộ phận dân chúng đi theo họ, phá hết nhà cửa, thậm chí cả những nồi niêu, xoong chảo của dân, phao tin rằng ''Việt cộng'' sẽ tàn sát những ai ở lại. Dân chúng bị ép phải di tản lại được dùng làm mộc che cho quân đội Sài Gòn trên đường tháo chạy, bởi vì bộ chỉ huy Sài Gòn biết rõ rằng các lực lượng giải phóng sẽ không bắn vào dân chúng. 7000 binh lính Thiệu trên đường tháo chạy đã bị các lực lượng yêu nước bắt sống cùng với 700 chiếc xe và 91 khẩu pháo.

Ngày 19 tháng 3, toàn bộ Tây Nguyên coi như được giải phóng. Các đồn bốt ngoại vi Kiên Đức và An Khê đều thất thủ trong những ngày 22 và 23. Trong chưa đầy hai tuần lễ, Sài Gòn đã mất cả một vùng rộng 48.000 km2 với hơn 80 vạn dân thuộc 30 dân tộc khác nhau, có tài nguyên thiên nhiên phong phú. Cao nguyên Tây Nguyên trải dài một mạch trên 800 km, từ vĩ tuyến 17 cho đến khoảng 100km ở phía Bắc Sài Gòn, ở sát cạnh vùng giải phóng của Cămpuchia cũng như miền Hạ Lào. Đây là vùng chiến lược quan trọng bậc nhất, không chỉ đối với Nam Việt Nam mà còn đối với toàn bộ Đông Dương. Từ năm 1954, Washington đã luôn luôn muốn biến Tây Nguyên thành một căn cứ chiến lược, một pháo đài chính trị (bằng cách khai thác và tìm cách gieo rắc sự chia rẽ giữa các sắc tộc khác nhau), và một cơ sở kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu.

Ở tỉnh Quảng Trị, hoạt động của du kích phối hợp với dân chúng nổi dậy ở các làng xã, diễn ra từ ngày 8/3 đã nhanh chóng xóa sổ nhiều đồn bốt, giải phóng nhiều làng xã và cô lập tỉnh lỵ. Đến 19-3, thị xã Quảng Trị được giải phóng, 650 lính Sài Gòn bị loại khỏi vòng chiến đấu, rất nhiều công chức, quân nhân và cảnh sát của chính quyền Thiệu đầu hàng và xin được làm việc cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời.

Cũng trong thời kỳ này, nhân dân tỉnh Thừa Thiên, hợp đồng với các lực lượng chính quy của quân giải phóng đã giải phóng 6 huyện bao quanh cố đô Huế đã bị cô lập, vì con đường Huế-Đà Nẵng bị cắt đứt, nhất là ở Đèo Hải Vân. Ngày 19/3, các lực lượng giải phóng tấn công chỉ huy sở sư đoàn 1 bộ binh bảo vệ Cố đô Huế, khu quân sự Mang Cá và sân bay Tây Lộc trong nội thành. Ngày 22 rồi 23 tháng 3, các vị trí ngoại vi của Huế đều bị tấn công; ngày 24, sân bay Phú Bài bị pháo kích dữ dội. Ngày 25, các lực lượng giải phóng tiến vào nội thành, các lực lượng Sài Gòn vội tháo chạy ra dải cát ven biển Thuận An. Lá cờ của Chính phủ Cách mạng Lâm thời phấp phới trên thành phố Huế, kinh đô thời nhà Nguyễn. Ngày 26, thành phố được hoàn toàn giải phóng, nhà cửa của dân, các cơ quan công sở lớn các đền đài, dinh thự hầu như còn nguyên vẹn (63). Trong cuộc rút lui vội vã bọn tay chân Sài Gòn vấp phải sự kháng cự của dân chúng và của một bộ phận nhân viên, binh lính và công chức của chính chế độ Sài Gòn, đã không thể thực hiện được kế hoạch phá hoại như chúng dự định. Ngày 27 và 28, các lực lượng Sài Gòn dồn ứ lại trên bờ biển vì tàu thuyền của hải quân đến đón họ bị pháo binh của quân giải phóng tấn công. Một bộ phận lớn bị kiệt quệ đã đầu hàng.

Trận đánh Thừa Thiên-Huế đã làm cho Sài Gòn bị mất sư đoàn 1 bộ binh, 15.000 người bị bắt làm tù binh, trong đó có khoảng một trăm sĩ quan cao cấp, một nghìn xe và 300 khẩu pháo.

Tỉnh Thừa Thiên với diện tích 5.672km2, 600.000 dân, với tỉnh lỵ là Huế, trọng tâm chính trị văn hóa, lịch sử có tầm quan trọng hàng đầu cùng với tỉnh Quảng Trị chiếm một vị trí rất nhạy cảm về phương diện chiến lược. Trong suốt cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ I, địa bàn Huế- Đà Nẵng bị quân đội Pháp chiếm giữ rất vững chắc. Giặc Mỹ đã biến Huế thành một pháo đài quân sự và một trung tâm chính trị-văn hóa quan trọng, vì Huế ở gần kề với miền Bắc. Năm 1968, dân chúng và các lực lượng vũ trang yêu nước đã giải phóng thành phố, nhưng giặc Mỹ đã dùng tất cả sức mạnh để chiếm lại. Năm 1972, Bộ chỉ huy Mỹ cũng đã cố gắng hết sức để bảo vệ thành phố này.

Trong thời gian này, lực lượng giải phóng ở các tỉnh khác cũng không ngồi yên. Ngày 20 tháng 3, An Lộc cách Sài Gòn 70 km về phía tây bắc được giải phóng, toàn bộ tỉnh Bình Long, trong đó có An Lộc, chuyển vào tay Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Như vậy, tỉnh Tây Ninh cùng với tỉnh lỵ của nó đặc biệt bị uy hiếp. Ngày 24, Tam Kỳ, tỉnh lỵ Quảng Tín được giải phóng, ngày 25, toàn bộ tỉnh Quảng Ngãi cùng với tỉnh lỵ hoàn toàn do Chính phủ Cách mạng Lâm thời kiểm soát, ngày 26, thị trấn Tam Quan thuộc tỉnh Bình Định được giải phóng, ngày 27, căn cứ Chu Lai khét tiếng - một trong số những căn cứ quân sự lớn nhất được Mỹ xây dựng lên ở Nam Việt Nam, rơi vào tay các lực lượng giải phóng. Ở các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, tức là suốt dọc bờ biển nam Trung Bộ, khắp nơi ở nông thôn, dân chúng hợp đồng với các lực lượng giải phóng chính quy đồng loạt nổi dậy, uy hiếp nghiêm trọng các cơ quan chính quyền và quân đội Sài Gòn. Ngày 28, Bảo Lộc được giải phóng, làm cho thành phố Đà Lạt bị hoàn toàn cô lập.

Sự thất thủ Huế ở phía bắc và Quảng Ngãi ở phía nam, việc giải phóng các vùng nông thôn xung quanh, đã hoàn toàn cô lập Đà Nẵng, một thành phố và hải cảng đặc biệt quan trọng về phương diện quân sự và chính trị đối với toàn bộ Nam Việt Nam. Chính Đà Nẵng là nơi Mỹ đã cho đổ bộ những lính thủy đánh bộ đầu tiên, chính tại đây Mỹ đã xây lắp cảng và các căn cứ quân sự để chỉ huy và tiếp tế cho các tỉnh phía Bắc của Nam Việt Nam và một bộ phận quan trọng rủa Tây Nguyên. Chính Đà Nẵng là nơi quân đội Sài Gòn buộc phải rút lui đã dồn về với hy vọng có thể trụ lại ở đấy, hoặc có thể xuống tàu chạy vào Sài Gòn. Đám quân này đã cưỡng ép một bộ phận dân chúng ở các vùng nông thôn hoặc ở Huế phải đi theo chúng vào Đà Nẵng. Trong những ngày cuối tháng 3, Đà Nẵng bị bao vây và hoàn toàn rối loạn. Nhiều đơn vị quân Sài Gòn không tuân thủ mệnh lệnh, lính tráng cướp phá các cửa hàng, các nhà dân, những kẻ định tìm cách chạy trốn thì xông vào sân bay. Một tàu sân bay của Mỹ, chiếc Hancock, được điều đến ngoài khơi Đà Nẵng, còn các tàu của Philippin và Đài Loan thì ghé sát bờ để chở những người di tản.

Ngày 25 tháng 3, lực lượng giải phóng pháo kích các vị trí quân sự ở Đà Nẵng, ngày 28, một số đơn vị quân giải phóng đột kích vào thành phố và ngày 29 chiếm sân bay. Có những đơn vị quân Sài Gòn nổi loạn, chạy sang phía các lực lượng nhân dân, dân chúng nổi dậy, tự tổ chức bảo vệ các khu phố, săn bắt bọn tay chân của Thiệu. Bộ chỉ huy lính Sài Gòn cũng như cơ quan chính quyền bù nhìn bị tràn ngập. 15 giờ 30 ngày 29, ủy ban Nhân dân cách mạng vào đóng tại Tòa Thị chính. Ngày 30 thành phố và cảng cùng toàn bộ tỉnh Quảng Nam được giải phóng. Chỉ trong vòng vài giờ đồng hồ, một thành phố đang chìm trong sự hỗn loạn, vô Chính phủ, đã trở lại trật tự và yên bình, toàn thể dân chúng phấn khởi tham gia tổ chức lại cuộc sống trên những cơ sở mới.