Trận đánh Sài Gòn
Sau Đà Nẵng, khí thế thừa thắng xông lên của quần chúng nhân dân không gì ngăn cản nổi, đâu đâu dân chúng cũng nổi dậy mãnh liệt như vậy, phối hợp hành động với cuộc tiến công của các lực lượng vũ trang, làm cho quân đội bù nhìn tan vỡ, một số đơn vị nổi loạn, mang vũ khí và trang bị chạy sang hàng ngũ nhân dân.
Năm ngày sau khi giải phóng Đà Nẵng, các lực lượng nhân dân đã chiếm tỉnh Khánh Hòa cùng với thành phố Nha Trang vào ngày 3 tháng 4. Trong ngày đó, hai khu quân sự I và II của quân đội Sài Gòn (gồm tất cả 4 quân khu) bị xóa sổ, 6 sư đoàn bị tiêu diệt, 300.000 tên bị loại khỏi vòng chiến đấu, một lượng khí cụ chiến tranh trị giá 1 tỷ đô-la bị mất. Quân đội Sài Gòn chỉ còn 7 sư đoàn và một số đơn vị được lập lại một cách khó khăn bằng cách nhặt nhạnh những gì còn lại của các đơn vị đã bị đánh tan tác.
Đã đến lúc vấn đề bảo vệ Sài Gòn được đặt ra trước bộ chỉ huy ngụy quyền một cách thật là gay gắt. Để làm việc này, họ có trong tay bốn sư đoàn với sự hỗ trợ của nhiều lực lượng địa phương, nhiều căn cứ quân sự và nhiều vị trí có công sự được tăng cường đáng kể. Tuyến phòng thủ từ xa thứ nhất chạy từ thành phố Phan Rang trên bờ biển nam Trung Bộ đến Tây Ninh, ở tây bắc Sài Gòn. Tuyến này được giao cho bộ tư lệnh quân khu III.
Phan Rang, hải cảng và là đầu mối đường bộ quan trọng của vùng nam Trung Bộ, lại có 3 sân bay, trong đó một cái có đường băng dài 3000m; sư đoàn không quân số đóng tại đây. Tàn quân của những đơn vị đã tháo chạy từ các tỉnh phía bắc đều dồn tụ và được tổ chức lại tại đây. Ngày 15 tháng 4, Trần Văn Đôn, Bộ trưởng Quốc phòng tới thị sát các phòng tuyến. Sau khi giải phóng căn cứ quan trọng Cam Ranh, các lực lượng nhân dân chuyển sang tấn công Phan Rang, ngày 16 tháng 4, vào sáng sớm, thành phố này được hoàn toàn giải phóng. Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, chỉ huy trưởng tuyên phòng thủ này bị bắt làm tù binh cùng với đồng sự của y là Phan Ngọc Sang, chỉ huy sư đoàn 6 không quân. Tất cả các máy bay của sư đoàn này đều bị quân giải phóng chiếm được trong tình trạng còn hoàn toàn nguyên vẹn. Sau thành phố, đến lượt cả tỉnh Ninh Thuận được giải phóng. Ba ngày sau, đến lượt cảng Phan Thiết, tỉnh lỵ của tỉnh Bình Thuận, những đơn vị hải quân Sài Gòn tìm cách giải cứu các đội quân đang tháo chạy đều bị pháo binh của quân giải phóng bắn chặn, một chiếc tàu bị bắn chìm.
Sau khi Phan Rang, Phan Thiết thất thu, vòng phòng thủ Sài Gòn được xiết chặt lại: ở phía đông, trên quốc lộ I, sư đoàn 18 phải bảo vệ chốt quan trọng là Xuân Lộc, cách Sài Gòn 70 km; về phía tây, trên con đường 13, sư đoàn 5 cụm lại xung quanh Thủ Dầu Một, cách Sài Gòn khoảng 40km; trên đường số 1, ở đoạn phía tây đi lên Tây Ninh, tàn dư của các sư đoàn 22 và 23 đóng chốt; con đường số 4, huyết mạch sống còn nối liền Sài Gòn với vùng châu thổ sông Mê Kông, được giao cho 2 sư đoàn tinh nhuệ sư 7 và sư 9; khu vực nam do sư đoàn 25 bảo vệ.
Chính Xuân Lộc là nơi bộ chỉ huy Sài Gòn tập trung binh lực mạnh nhất. Đối với họ, đây là trận đánh nhằm chứng tỏ rằng sức chiến đấu của quân đội Sài Gòn còn có thể được giữ vững và nâng cao. Một chiến dịch tuyên truyền ầm ĩ được dàn dựng để cố vực dậy tinh thần quân đội đã bị suy sụp nghiêm trọng bởi những thất bại trong các tuần lễ trước đó. Việc phi công Nguyễn Thành Trung ném bom xuống dinh của Thiệu và sau đó bay sang phía Chính phủ Cách mạng Lâm thời ngày 18 tháng 4 là một dấu hiệu không thể nghi ngờ chứng tỏ sự bại hoại tinh thần của quân đội Thiệu.
Weyand, tham mưu trưởng quân đội Mỹ có mặt tại Sài Gòn để động viên bọn tay sai và theo dõi sát quá trình các cuộc hành quân. Người ta chăm chú theo dõi từng ly từng tí nhằm phát hiện mọi biểu hiện nhỏ nhất của sự phục hồi tinh thần chiến đấu của quân đội Sài Gòn. Tướng Lê Minh Đạo, được coi là một trong số sĩ quan giỏi nhất của Sài Gòn, chỉ huy cứ điểm Xuân Lộc, tuyên thệ sẽ bảo vệ vị trí này cho đến chết.
Không chờ cho đến khi giải phóng các vị trí xa là Phan Rang và Phan Thiết, ngày 9 tháng 4 các lực lượng nhân dân chuyển sang tấn công trên mặt trận Xuân Lộc. Sài Gòn cho tăng viện một lữ đoàn dù, một lữ đoàn thiết giáp, và quân đội Sài Gòn cố bám trụ lại trong các công sự đã bị lực lượng giải phóng bao vây. Cả hai lữ đoàn quân tiếp viện đều bị tổn thất nặng nề, trong khi các lực lượng nhân dân tấn công vào nhiều điểm trên các đường số 1 và số 20. 400 binh sĩ Sài Gòn đóng ở vị trí Núi Thi nổi loạn, chạy sang phía nhân dân. Đơn vị số 52 thuộc sư đoàn 18 bị tiêu diệt.
Không quân Sài Gòn đã không thể cứu nguy cho các đơn vị bị bao vây ở Xuân Lộc vì sân bay Biên Hòa thường xuyên bị pháo binh nhân dân pháo kích. Việc quân địch cố thủ ở Xuân Lộc chẳng hề cản được bước tiến của quân giải phóng hướng về phía Trảng Bom, phía tây Xuân Lộc. Trong khi Xuân Lộc bị bao vây, trên đường số 4 ở phía nam Sài Gòn và trong khu vực phía tây, các lực lượng địa phương và chính quy của quân giải phóng tấn công ở nhiều điểm, giải phóng nhiều địa phương trong vòng bán kính khoảng ba chục km xung quanh Sài Gòn.
Trong khi trận Xuân Lộc đang diễn ra, tình hình ở Sài Gòn xấu đi nhanh chóng. Nhiều sứ quán nước ngoài bắt đầu rút đi. Các ngân hàng bị phong tỏa. Thủ tướng Trần Thiện Khiêm bị cách chức và Nguyễn Bá Cân lên thay, người mà những nhà bình luận độ lượng nhất cũng nói rằng, đó và một kẻ chưa hề được ai biết đến. Sức ép ngày càng tăng đòi Thiệu phải từ chức.
21 tháng 4, đúng ngày các lực lượng của Chính phủ Cách mạng Lâm thời hoàn toàn làm chủ Xuân Lộc, Thiệu từ chức. Trong bài diễn văn giận dữ đến điên cuồng, Thiệu trút hết căm tức lên đầu các nhà chức trách Mỹ, buộc tội họ đã không giữ lời hứa. Trần Văn Hương, một tay chân khác của Washington lên thay Thiệu. Xin cho được những khoản viện trợ bổ sung từ phía Quốc hội Mỹ, vực dậy tinh thần của quân đội Sài Gòn, cố ngăn chặn bước tiến của các lực lượng giải phóng bằng thủ đoạn thương lượng - tất cả những tính toán chính trị này xoay quanh việc Thiệu từ chức đều xôi hỏng bỏng không. Paris và Bắc Kinh tốn công vô ích tìm cách can ngăn các lực lượng Việt Nam tiếp tục chiến đấu và hối giục Việt Nam đi vào thương lượng. Chính phủ Cách mạng Lâm thời tuyên bố rõ rằng nhân dân Việt Nam chỉ ngừng chiến đấu nếu Mỹ rút hết toàn bộ nhân viên của họ, từ bỏ mọi sự can thiệp dưới bất cứ hình thức nào vào Việt Nam, và nếu tất cả bộ máy quân sự, cảnh sát, hành chính do Washington dựng lên nhằm mục đích nô dịch dân tộc Việt Nam bị hoàn toàn xóa bỏ.
Các lực lượng giải phóng tiếp tục bước tiến không gì ngăn cản nổi, với sự yểm hộ của các cuộc nổi dậy mãnh liệt của nhân dân các địa phương. Dọc theo bờ biển, họ giải phóng Hàm Tân, tỉnh lỵ Bình Tuy, tỉnh có nhiều huyện đã được giải phóng trong các tháng trước (23 tháng 4).
Tuyến phòng thủ phía đông Sài Gòn giờ đây chạy qua Biên Hòa, cách Sài Gòn 25 km về phía đông bắc, rồi tỉnh Long Thành, cách 32 km, tiếp đó qua Bà Rịa và Vũng Tàu, tất cả được nối liền bởi con đường chiến lược số 15.
Ngày 26 tháng 4, trong một bản tuyên bố long trọng, Chính phủ Cách mạng Lâm thời khẳng định lại lập trường của mình, đòi phía Mỹ phải thi hành tuyệt đối nghiêm chỉnh các điều 1, 4 và 9 của Hiệp định Paris, và xóa bỏ chính quyền Sài Gòn, công cụ của chính sách thực dân mới của Mỹ. Bản tuyên bố kêu gọi toàn thể dân chúng đứng lên trong cuộc chiến đấu để thực hiện các mục tiêu ấy. Nhiều cuộc mặc cả diễn ra giữa các nhóm chính trị Sài Gòn, và ngày 27 tháng 4, cả hai Viện của Sài Gòn họp lại, chấp nhận sự từ chức của Trần Văn Hương và đưa Dương Văn Minh lên làm tổng thống, trong khi đó thì Thiệu và Trần Thiện Khiêm bay sang Đài Loan. Thế nhưng chính quyền Sài Gòn đâu còn tồn tại nữa, tổng thống mới và các bộ trưởng mới không còn biết chỉ huy ai. Cao Văn Viên, tham mưu trưởng đã bỏ trốn, rồi Nguyễn Bá Cẩn, Thủ tướng mới từ chức, cũng ra đi vội đến mức không kịp bàn giao quyền hành lại cho kẻ thay mình.
Ngày 26 tháng 4, lúc 17 giờ, cuộc tấn công cuối cùng vào Sài Gòn, được đặt tên là ''Chiên dịch Hồ Chí Minh" bắt đầu. Các lực lượng giải phóng đồng thời tiến công theo năm hướng: đông, đông nam, tây, tây bắc, nam. Cánh quân phía đông nam giải phóng Bà Rịa và Long Thành ngày 27, cắt đứt con đường số 15 nối Sài Gòn với Vũng Tàu - thành phố bị thất thủ vào ngày 28. Mọi đường giao thông từ Sài Gòn ra biển đều bị chặn.
Về phía nam, các lực lượng giải phóng tấn công Bến Lức trên đường số 4 và các địa phương xung quanh; ngày 28, chiếm Phú Lâm cách Sài Gòn 9 km, cũng như Hanh Thông Tây ở ngoại ô Sài Gòn. Về phía tây và tây-bắc, các căn cứ Củ Chi và Đồng Dù đều bị tấn công, và sáng ngày 29, xe tăng của quân giải phóng xông vào sở chỉ huy sư đoàn 25. Cũng ngày đó, tỉnh lỵ Hậu Nghĩa (Khiêm Cường) cách Sài Gòn 25 km được giải phóng.
Ngày 29 tháng 4, máy bay của quân giải phóng ném bom căn cứ không quân lớn Tân Sơn Nhất, nơi xuất phát của các máy bay ra nước ngoài; đạn rốc-két và đạn pháo cũng rơi như mưa xuống sân bay. Các lực lượng giải phóng đã ở ngoài rìa thành phố chợ Lớn. Về phía đông, cũng ngày 29, các lực lượng giải phóng vào Thanh Tuy Hạ, nơi có kho quân dụng lớn nhất của quân đội Sài Gòn, và kiểm soát cảng mới của Sài Gòn là Cát Lai.
Trên mặt trận phía đông, từ ngày 28, thành phố Biên Hòa, căn cứ quân sự lớn, phi cảng có tầm quan trọng bậc nhất, trụ sở của một tổ hợp quân sự quan trọng bảo vệ Sài Gòn bị đánh chiếm. Sự thất thủ Biên Hòa, những trận nã pháo xuống sân bay Tân Sơn Nhất làm cho bè lũ bù nhìn tay sai và người Mỹ ở Sài Gòn hoảng sợ. Tổng thống Ford ra lệnh di tản tất cả người Mỹ, cuộc di tản mà trước đó Nhà Trắng đã cố tình để kéo dài. 81 chiếc trực thăng được huy động cho cuộc rút chạy vào những phút cuối cùng này. Các trực thăng vì không thể hạ cánh an toàn xuống những địa điểm đã định, nên phải bay đi nhặt người Mỹ ở từng nhà một. Có những lính Sài Gòn phát khùng nã súng vào các trực thăng này. Tổng Lãnh sự quán Mỹ ở Cần Thơ trong vùng châu thổ sông Mê Kông, di tản nhân viên của mình trên hai chiếc giang thuyền chạy ra biển. Có hai chiếc trực thăng của quân đội Sài Gòn đã nã súng vào những kẻ chạy trốn. 3 giờ rưỡi chiều 30 tháng 4, đại sứ Mỹ Martin rời khỏi Sài Gòn, kết thúc 25 năm can thiệp vào Việt Nam (phái đoàn quân sự Mỹ đầu tiên đã đến đóng tại Sài Gòn tháng 6 năm 1950). Dự án cấp một ngân sách khoảng 327 triệu đô la cho những cuộc hành quân di tản người Mỹ và người Việt thế là không thành.
Từ ngày 29, cả bộ chỉ huy lẫn chính quyền Sài Gòn đều không còn tồn tại nữa. Nguyễn Văn Minh, tướng chỉ huy cứ điểm Sài Gòn, bỏ trốn, cũng như tướng Lê Nguyên Khang, phó tham mưu trưởng. Vĩnh Lộc, tham mưu trưởng mới, biến mất tăm, cũng như Nguyễn Cao Kỳ, con người mới chỉ vài hôm trước đó đã tuyên bố sẽ chẳng bao giờ rời bỏ đất nước. Ở Bộ Tổng tham mưu, ở Bộ Quốc phòng, theo các nhà báo phương Tây, chỉ có vài ba sĩ quan và hạ sĩ quan đi lang thang dọc theo những hành lang vắng ngắt; không một viên tướng nào trả lời những yêu cầu và cuộc gọi từ các nơi về. Lệnh giới nghiêm 24/24 giờ chẳng được ai tuân theo. Ở công sở, công chức và cảnh sát bỏ nhiệm sở hàng loạt, trong khi dân chúng các khu phố và đường phố tổ chức nhau lại thành đơn vị tự vệ, tự quản để bảo vệ tài sản của mình và các cơ quan công cộng.
Trong đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4, các lực lượng giải phóng tiến theo nhiều mũi, tấn công căn cứ lính dù nằm ở trung tâm thành phố, chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, Tổng hành dinh quân đội ngụy, trung tâm liên lạc Phú Lâm và nhiều vị trí quan trọng khác. Dân chúng dưới sự chỉ huy của những cán bộ lâu nay vẫn hoạt động bí mật, chiếm các công sở, tước khí giới hoặc vô hiệu hóa những phần tử ngoan cố cuối cùng. Quân đội và cảnh sát ngụy hạ vũ khí vào sáng ngày 30, và đến 11 giờ 30, các lực lượng giải phóng do một đoàn xe tăng đi đầu, đã cắm cờ của Chính phủ Cách mạng Lâm thời lên nóc dinh tổng thống. Khắp nơi, quân đội và cảnh sát ngụy đầu hàng vô điều kiện và đón tiếp các lực lượng giải phóng trong không khí hết sức yên tĩnh, trong khi dân chúng nhiệt liệt hoan hô những người đến giải phóng cho mình.
Đúng 14 giờ, các lực lượng giải phóng tiến vào Chợ Lớn. Trận đánh Sài Gòn kết thúc. Thành phố được hoàn toàn giải phóng và lần đầu tiên, kể từ năm 1859, Sài Gòn thấy mình được trở lại là mình và trở về trong lòng Tổ quốc vĩnh viễn từ đây.
Buổi tối ngày 30, Sài Gòn rực rỡ tràn ngập ánh đèn.
Sau khi giải phóng Sài Gòn, rất nhanh chóng, các đơn vị cuối cùng của quân đội và cảnh sát ngụy đầu hàng chính quyền nhân dân, tất cả các tỉnh và tỉnh lỵ đều được giải phóng. Toàn thể bộ máy quân sự, cảnh sát, hành chính ngụy sụp đổ.
Ngày 1 tháng 5 năm 1975, toàn thể nhân dân lao động và công dân của nước Việt Nam, từ Bắc chí Nam, lần đầu tiên ăn mừng ngày lễ Lao động trong một đất nước được hoàn toàn giải phóng.