Chương 18 Con đường đi tới tương lai - Sơ lược
1859: Quân đội Pháp chiếm đóng Gia Định.
1975: Tên lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Sài Gòn.
Đối với thời kỳ giữa hai niên lịch ấy, nhiệm vụ của nhà sử học tương đối dễ dàng, lịch sử chỉ xoay quanh một cái trục duy nhất là việc giành lại nền độc lập dân tộc; đối với các phong trào các đảng phái, các tổ chức xã hội hay tôn giáo, các nhân vật xuất hiện trên sân khấu lịch sử, câu hỏi đầu tiên được luôn luôn đặt ra là: Họ đã thành công đến mức nào trong việc thúc đẩy cuộc đấu tranh để giải phóng dân tộc? Sự phân biệt diễn ra không mấy khó khăn giữa những người yêu nước và những kẻ “bán nước”; những ai tự xưng mình là người theo chủ nghĩa trung lập, là lực lượng thứ ba, trên thực tế đều là những đồng minh chính trị của những người đang cầm súng chiến đấu. Chính nghĩa duy nhất được toàn thể nhân dân thừa nhận, về bản chất, không mang tính tôn giáo, học thuyết, cũng không mang tính sắc tộc; nó đương nhiên thuộc về những ai đã góp phần thực hiện việc chấm dứt nền đô hộ của nước ngoài, nó thuộc về những người kế tục sự nghiệp của Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung.
Sau 1975, những nẻo đường đi lên của lịch sử trở nên phức tạp hơn nhiều. Nhà sử học không còn có thể bằng lòng với bất cứ một cách nhìn lưỡng phân nào, như vẫn được đưa ra, đặc biệt là trong những năm chiến tranh: dân tộc-phản dân tộc, cộng sản-chống cộng sản, Đông-Tây, phe xã hội chủ nghĩa- phe tư bản đế quốc chủ nghĩa... Những vấn đề dân tộc và quốc tế kinh tế, chính trị, xã hội, tôn giáo, văn hóa, sắc tộc... đan xen chằng chịt ở nhiều mức độ khác nhau, với những chênh lệch về thời gian, những tác động qua lại nhiều vô kể, tạo thành một mớ bòng bong mà không một sơ đồ hay mô hình nào có thể lý giải được một cách triệt để.
Nhấn mạnh tính chất cực kỳ phức tạp này, chúng tôi không hề có ý định buông xuôi mọi sự phân tích, mọi cố gắng am hiểu bằng lý trí. Trong khi khẳng định một cách rõ ràng tính thần khiêm tốn trong việc thực hiện những ước vọng của mình, chúng tôi vẫn cố thử dựng lên vài cái mốc, khoanh rõ một số vấn đề, đánh dấu những sự kiện trên con đường đã đi qua nhưng vẫn không ngừng chú ý đến một sự kiện bất ngờ nào đó có thể xẩy ra, buộc chúng ta phải suy nghĩ lai những luận thuyết và giả thuyết của mình. Chẳng sao cả, việc ôn lại những sự kiện trong hai thập kỷ qua bao giờ cũng bố ích, bởi vì đề tài nghiên cứu thật là phong phú và các vấn đề được nêu lên thật là hấp dẫn.
Trước hết, ta hãy thử đặt vài cột mốc biên niên:
- 1975 - 1976: Năm tái thông nhất về dính trị và hành chính, và đối với toàn dân, trước hết là năm của những cuộc “tái ngộ” (chúng tôi sẽ định nghĩa thuật ngữ này).
- 1977 - 1975: Những biện pháp đầu tiên xây dựng lại phần nào cơ sở nền kinh tế, phần lớn là không hợp thời. Những điều kiện kinh tế do chiến tranh để lại trở nên trầm trọng hơn.
- 1978 - 1979. Khủng hoảng quốc tế. Xung đột công khai với Trung Quốc và bè lũ Pôn Pốt của Campuchia.
- 1980 - 1985: Những cố gắng thử nghiệm cải cách kinh tế đầu tiên. Cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội vỡ bung ra giữa thanh thiên bạch nhật. Tình hình kinh tế thảm hại. Những biện pháp không được lòng dân.
- 1986 - 1988: Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam: vấn đề đổi mới được đặt lên bàn nghị sự, định ra đường lối mới về kinh tế và chính trị; tự do hóa - nhất là trong lĩnh vực kinh tế, trong lĩnh vực văn hóa, chủ trương tự do hóa có tính dò dẫm ngập ngừng hơn.
1988 - 1990: Những cải cách kinh tế có tầm quan trọng quyết định về nông nghiệp và vấn đề ruộng đất; phát triển các xí nghiệp tư nhân, luật về đầu tư của nước ngoài; mở rộng thẩm quyền cho các giám đốc xí nghiệp quốc doanh; bỏ dần từng bước phương thức quản lý Nhà nước bù lỗ; rút quân đội ở Campuchia về nước.
- 1990 - 1992: Những kết quả đầu tiên của cải cách kinh tế và chính sách mở của hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, rất nhiều vấn đề chính trị xã hội, văn hóa, tư tưởng, vẫn còn đòi hỏi phải suy nghĩ giải quyết. Vấn đề mấu chốt đối với những năm tới: Chủ trương cấu trúc xã hội - chính trị và tư tưởng như thế nào để bảo đảm phát triển kinh tế mà không đe doạ sự ổn định của chế độ?