Tái thống nhất - Những cuộc tái ngộ
Có thể nói công cuộc tái thống nhất Bắc - Nam đã được tiến hành trong không khí trống dong cờ mở; khôi phục lại các đường giao thông giữa hai miền, đặc biệt là tuyến đường sắt Hà Nội - Sài Gòn; bầu cử Quốc hội vào tháng 4 năm 1976, thành lập một Chính phủ duy nhất cho cả nước, thiết lập những cấu trúc hành chính ở tất cả các cấp cho đến tận các làng quê xa xôi nhất và các bản hẻo lánh ở các tỉnh miền núi, và để kết thúc năm 1976, họp Đại hội Toàn quốc của Đảng Cộng sản, lúc bấy giờ đã có các đảng bộ trên khắp miền đất nước.
Công cuộc tái thống nhất chính trị và hành chính này, theo ý của một số người, có lẽ là quá sớm, thậm chí là bị áp đặt, bắt buộc. Nghĩ như thế là hoàn toàn không hiểu những nguyện vọng sâu xa của nhân dân Việt Nam nói chung, không hiểu sự đồng thuận của toàn dân dựa trên hai yêu cầu cơ bản là độc lập dân tộc và hòa bình. Những yêu cầu đó chỉ có thể được thoả mãn khi tất cả các lực lượng vũ trang của nước ngoài rút đi. Từ 116 năm nay, không một chính đảng, một tổ chức chính trị tôn giáo nào khác ngoài Đảng Cộng sản đã có thể làm nổi công cuộc đó. Cụ Hồ Chí Minh đã được suy tôn là người Cha sáng lập nên nước Việt Nam độc lập, Đảng Cộng sản được thừa nhận là đã đóng vai trò chủ yếu làm nên chiến thắng, những điều đó không một ai phủ nhận, ngay cả trong số người chống cộng quyết liệt. Tính hợp pháp của chính quyền mới, thực sự là chính quyền dân tộc trong tất cả mọi ý nghĩa của thuật ngữ này, là không thể bác bỏ và được tất cả mọi người chấp nhận.
Độc lập dân tộc: Từ hơn một thế kỷ nay, một dân tộc tự hào về quá khứ hàng nghìn năm, với lịch sử đầy những cột mốc đánh dấu chiến thắng lẫy lừng chống ngoại xâm, dân tộc đó đã không ngừng nổi dậy chống ách thực dân, và kỷ niệm về các anh hùng đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu kéo dài nhiều thế kỷ vẫn luôn sống động trong ký ức của mọi người. Ngay cả trong số người giàu có nhất, vẫn có nhiều người đau khổ vì nỗi nhục hàng ngày đổ lên đầu một dân tộc nô lệ. Bên cạnh những người Cộng sản, trong cuộc chiến đấu có mặt các thành phần quan lại, địa chủ, thương gia, các nhà tu hành thuộc mọi tôn giáo, các nhà trí thức ưu tú; một sự liên minh bền vững đã được xây đắp qua muôn vàn thử thách, cùng nhau chia sẻ và chịu đựng những thiếu thốn, những tra tấn trong các nhà lao suốt những năm dài của cuộc kháng chiến.
Hòa bình: Từ năm 1939 - 1979, bom đạn không ngừng rơi xuống như mưa, và lần lượt quân Nhật, quân Tàu, quân Pháp, quân Mỹ, không kể những đội lính Nam Triều Tiên, Úc, Thái Lan, phối hợp hành quân với quân Mỹ, đã chiếm đóng đất nước này trong bốn mươi năm, tàn sát dân cư, đột phá, biến nhiều thành phố và làng mạc thành tro tàn.
Tệ hại hơn nữa, các cường quốc ngoại bang, sẵn trong tay những nguồn lực khổng lồ, một bộ máy quân sự, cảnh sát, hành chính đồ sộ, những phương tiện tài chính và tuyên truyền cực lớn, đã tuyển mộ được vào hàng ngũ các lực lượng vũ trang và cảnh sát của chúng hàng triệu thanh niên Việt Nam, dù họ muốn hay không. Trong hầu hết các gia đình đều có những người lính đã buộc phải nổ súng vào những người anh em của mình đang chiến đấu trong hàng ngũ bên kia.
Hàng trăm ngàn con người bị giam giữ nhiều năm trong các nhà lao, hàng triệu nông dân phải chạy vào thành phố tránh bom đạn đang san bằng làng xóm của họ, tránh những chất độc hóa học rải xuống phá hoại mùa màng của họ. Các con đường liên lạc, mọi sự trao đổi Bắc - Nam bị hoàn toàn cắt đứt: giặc Mỹ không để lọt qua một mẩu thư tín nhỏ nào; hàng triệu người trong nhiều năm liền không nhận được một chút tin tức gì của chồng con, bố mẹ, bạn bè của mình.
Trong cuộc tháo chạy của quân đội Sài Gòn, trên các trục đường và các đường phố rải đầy những mũ sắt, giầy, vũ khí, quân phục đủ loại, tạo nên một quang cảnh kỳ lạ, thực sự là một đống hổ lốn dài hàng cây số: hàng trăm ngàn binh sĩ, cảnh sát chỉ còn một mối lo duy nhất là vứt bỏ càng nhanh càng tốt tất cả những vết nhơ này của chế độ cũ để trở về với gia đình, sà vào vòng tay của những người mới hôm qua đây còn đối mặt với họ - những ''Việt cộng'' cũng có đến hàng trăm ngàn người vừa trở về từ những nhà tù khổ sai và từ những căn cứ kháng chiến. Hàng trăm ngàn người tập kết ra Bắc từ 1954 theo Hiệp định Genève, suốt 21 năm trời không thể trở về Nam do sự chiếm đóng của quân Mỹ, cho nên ngay sau ngày chiến thắng, họ đã vội vã trở về với người thân. Hàng triệu nông dân hối hả trở về làng, nhưng thật đau xót, nhiều người trong số họ chỉ còn thấy lại nhà cửa vườn tược của mình trong cảnh tan hoang. Khách quan sát nước ngoài khó cảm nhận được tất cả những tình cảm và xúc động sâu xa của cả một dân tộc suốt nhiều tháng liền đã sống trong thời điểm xúc động nhất của lịch sử đời mình.
Thật dễ hiểu trong những điều kiện như thế, sự tái thống nhất nhanh chóng là chính sách duy nhất, tất yếu phải được thực hiện, và người ta thấy rõ tính chất hão huyền của các đề nghị nhằm duy trì sự chia cắt lâu dài đất nước thành hai miền, với Chính phủ và tổ chức hành chính riêng.
Người ta cũng dễ dàng hiểu tại sao cuộc ''tắm máu'' khét tiếng mà nhiều kẻ quan sát nước ngoài tiên đoán là không thể nào tránh khỏi đã không xảy ra, thậm chí cũng không xảy ra những vụ hành hình không xét xử đối với những phần tử đã cộng tác với chế độ cũ, như đã từng xẩy ra tại các nước châu Âu sau khi quân chiếm đóng Đức quốc xã rút đi. Lúc này, chính sách hòa hợp dân tộc không phải chỉ là một khẩu hiệu. Chế độ mới đã được lập lên trên một cơ sở hợp pháp không thể chối cãi. Trên bình diện quốc tế, mặc cho thái độ hung hăng thù địch của Mỹ, mặc cho sự hằn học của các nước tư bản lớn và của Trung Quốc, không một ai nghĩ đến việc phủ nhận tính hợp pháp đó như một hiện thực do chính lịch sử tạo nên, không có cách gì lẩn tránh được.
Năm 1977, nước Việt Nam tái thống nhất được gia nhập Liên hợp quốc, lần lượt các sứ quán phương Tây mở cửa ở Hà Nội.