Những bó buộc khách quan và những bước đi sai lầm
Không phải là con đường không có chông gai và khó khăn mà hoàn toàn ngược lại. Một nước kém phát triển trải qua bốn mươi năm chiến tranh và bị cô lập với quốc tế không thể nào không bị chấn thương sâu sắc. Điều quan trọng là không được lầm đường lạc lối giữa hai luồng dư luận cực đoan: hoặc là hoàn toàn quên đi những hậu quả khủng khiếp và lâu dài của cuộc chiến tranh (và do đó bỏ qua những tội ác của những chính khách và nhà chiến lược ở Washington, hoặc lờ đi không nhắc đến những sai lầm và khuyết điểm đã phạm phải - những sai lầm sẽ được công khai nhìn nhận vài ba năm sau.
Chúng ta hãy nhớ vài con số: 26 triệu hố bom, 14 triệu tấn bom và đạn pháo, 10 triệu dân nông thôn bị đuổi khỏi làng, 3/4 số xã ở miền Nam và 2/3 số xã ở miền Bắc, tất cả các thành phố thị xã ở miền Bắc đã bị đánh bom vô cùng ác liệt, toàn bộ các cầu ở miền Bắc bị phá hủy. Không thể đưa ra những con số chính xác về người chết và bị thương, quân nhân và nhất là dân thường, số trẻ mồ côi, số người bị tàn phế, số nạn nhân của những tệ nạn xã hội (ma túy, đĩ điếm) là những hậu quả sự chiếm đóng của nước ngoài và của những chiến dịch quân sự, sự tan rã của những cộng đồng làng xã, gia đình. Cũng không thể quên đi những di hại về sinh thái và di truyền của cuộc chiến tranh hóa học.
Trước hết phải đối phó với điều khẩn cấp nhất: Việc Mỹ đột ngột ngừng viện trợ trung bình là 2 tỷ đô la/năm đã lập tức làm nổ ra cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng; nhiều tỉnh, nhất là các tỉnh miền Trung, không nhận được gạo nhập khẩu nữa, bị nạn đói đe dọa; nhiều triệu người rơi vào cảnh thất nghiệp (chỉ riêng bộ máy chính quyền, quân đội và cảnh sát của chế độ cũ đã có đến khoảng 1 triệu người) có nguy cơ tạo nên - nhất là trong thành phố Sài Gòn quá đông dân những ổ nhóm bạo động nguy hiểm. Viện trợ khẩn cấp về lương thực từ miền Bắc được chuyển đến các tỉnh miền Trung. Liên Xô cung cấp một khoản viện trợ 2,5 triệu tấn lương thực cho hai năm đầu 1975-1976. Chính phủ và nhân dân cùng chung sức cố gắng sửa chữa các đường giao thông bị phá hoại nặng nhất. Tháng 4 năm 1976, đường sắt Hà Nội - Sài Gòn dài trên nghìn cây số, không hoạt động từ 1945, đã được sửa chữa lại. Việc hồi cư hàng trăm ngàn người di tản, cũng như những chăm sóc và cứu trợ đầu tiên cho những người tàn phế, những nạn nhân của ma túy và nhiều bệnh dịch đã được đảm bảo. Năm 1978, chế độ tiền tệ được thống nhất cho phép các hàng hóa và dịch vụ giữa hai miền Bắc Nam được lưu thông dễ dàng. Có thể nói rằng những bước đi đầu tiên của công cuộc lập lại trật tự ấy là một thành công, những khuyết tật nghiêm trọng nhất của đời sống xã hội-kinh tế đã được khắc phục.
Việc từng bước trở lại cuộc sống bình thường chỉ có thể thực hiện với điều kiện đảm bảo an ninh công cộng và trước hết là tránh nổ ra một cuộc nội chiến. Đấy là vấn đề mấu chốt: Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford đã công bố rằng sẽ có một cuộc tắm máu sau khi quân Mỹ rút đi, chính vì ông ta biết rằng các cơ quan mật vụ của Mỹ đã sắp đặt mọi sự chuẩn bị cần thiết, và vì tất cả các điều kiện khách quan để nổ ra một cuộc nội chiến đã được hội đủ. Gần một triệu lính, sĩ quan, cảnh sát của chế độ cũ, sau khi bị tan rã đã không tìm được việc làm, cũng như hàng triệu người lao động khác. Những toán dân vệ của các tôn giáo khác nhau - Công giáo thuộc phái bảo thủ cực đoan, Hòa Hảo, Cao Đài - mặc dù đã chính thức giải tán, nhưng vẫn còn đó. Trên Tây Nguyên, các cơ quan mật vụ của Pháp, rồi Mỹ, trong những năm trước đó đã xúi giục lập ra FULRO (Mặt trận thống nhất giải phóng các dân tộc bị áp bức) tập hợp các nhóm dân tộc thiểu số để đòi thành lập một lãnh thổ tự trị. Được Mỹ trang bị và tài trợ, sau 1975, FULRO đã tìm cách gây ra một phong trào đánh du kích chống lại các lực lượng cách mạng.
Tình hình cũng căng thẳng trong hai nhóm dân tộc thiểu số khác: người Hoa và người Khơ-me. Người Hoa (người Việt gốc Trung Quốc) tuy phần lớn đã sống lâu đời ở Việt Nam, nhưng không vì thế mà không tổ chức nhau lại thành một cộng đồng riêng biệt, một khối chặt chẽ gồm 700.000 người tập trung chủ yếu ở Chợ Lớn, một Chinatown (thành phố Tàu) thực sự nằm lọt trong lòng thành phố Sài Gòn, có ban quản lý riêng, có trường học và bệnh viện riêng. Là những thương gia lọc lõi, nhiều người Hoa đứng làm trung gian giữa các công ty lớn của Pháp, rồi của Mỹ với dân chúng Việt Nam. Món lộc dối dào từ viện trợ Mỹ đã giúp các nhà kinh doanh Chợ Lớn xây dựng nhanh chóng nhiều xí nghiệp quan trọng và nắm giữ những guồng máy chính yếu của nền kinh tế Sài Gòn, bằng cách liên kết với một số bộ trưởng và tướng lĩnh Sài Gòn. Một chế độ do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đối với họ là một mối đe dọa trực tiếp và ngay từ ngày đầu tiên, họ đã tìm cách phá hoại ngầm nền kinh tế quốc dân; sự phá hoại này lại càng nguy hiểm hơn nữa, vì những đại thương gia người Hoa ở Chợ Lớn là hạt nhân là đầu não của cả một mạng lưới gồm hàng trăm ngàn người buôn bán lẻ phân tán cho đến tận các làng quê hẻo lánh của châu thổ sông Mê Kông. Ở miền Bắc, gần biên giới Trung Quốc, có một cộng đồng người Hoa khác, khoảng 200.000 người đánh cá, làm ruộng, thợ thủ công, công nhân. Trên khắp cả nước có hơn một triệu người Hoa, bị chính sách thù địch của Bắc Kinh đối với Việt Nam dồn vào một hoàn cảnh khó khăn.
Vài trăm nghìn người Khơ-me mang quốc tịch Việt Nam, quần cư tại một số huyện của vùng châu thổ sông Mê Kông, vẫn giữ nguyên tiếng mẹ đẻ và truyền thống tôn giáo của mình.
Mặc dầu đã tái thống nhất về chính trị và hành chính miền Nam, xét từ nhiều góc độ, vẫn thực sự là một bức tranh do nhiều mảnh ghép lại, gồm nhiều vùng, nhiều nhóm khác nhau, khi sáp nhập vào chế độ mới đặt ra những vấn đề lớn. Những vấn đề này lại càng nghiêm trọng thêm do sự can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp của hai cường quốc lớn là Mỹ và Trung Quốc và của một nước láng giềng là nước Cam-pu-chia thời Pôn-pốt. Đài ''Tiếng nói Hoa Kỳ'' công khai kêu gọi nổi loạn, các cơ quan của Mỹ huấn luyện lính biệt kích ở Thái Lan để tung chúng vào Lào, rồi vào Việt Nam, đài thọ cho các tổ chức người Việt di cư ở Mỹ đang chuẩn bị phục thù.
Mấy tháng sau ngày giải phóng đã có một vài hoạt động vũ trang do một số nhóm nhỏ tổ chức, nhưng không đạt kết quả bao nhiêu vì dân chúng không đáp ứng lời kêu gọi của chúng. Tuy nhiên, bằng mọi giá cần phải tránh cho được nội chiến. Một biện pháp an ninh bắt buộc được đề ra: phá bỏ bộ máy hành chính-quân sự mà Washington đã dựng lên nhằm kéo dài cuộc chiến tranh.
Bộ máy ấy của chế độ Sài Gòn cũ gồm có một đội ngũ sĩ quan lên đến 70.000 người, một số cán bộ chính trị - quân sự, ít ra cũng tương đương, gồm những nhân viên cảnh sát mật, những tên chuyên nghề tra tấn đặc trách chống phá cách mạng, được huấn luyện và nhồi sọ đến nơi đến chốn, phụ trách việc gom dân vào trong mạng lưới khủng bố quân sự và cảnh sát dầy đặc, những tên chỉ huy các cuộc hành quân càn quét, trấn áp đẫm máu, lùng ráp liên miên. Dưới sự chỉ đạo của các cố vấn Mỹ, bọn chúng (thậm chí một số tên núp dưới danh nghĩa tôn giáo) có nhiệm vụ tiến hành một cuộc chiến tranh tổng lực thực sự chống nhân dân, nhằm tìm cách khuất phục cuộc kháng chiến của nhân dân.
Có thể nhanh chóng cho hơn 1 triệu binh lính, cảnh sát công chức của chế độ cũ trở về đời sống dân sự, nhưng không thể chuốc lấy nguy cơ một cuộc nội chiến nếu như tất cả lớp sĩ quan và công chức ấy được tự do hành động. Một quyết định được đưa ra là phải giữ họ lại trong những "trại cải huấn" để làm một cuộc thanh lọc; sau một thời gian nào đó, những ai tỏ rõ thiện chí, thuận tình đến với chế độ mới thì được trả lại tự do. Biện pháp ấy về nguyên tắc là chính đáng, nhưng sai lầm lớn ở chỗ đã tiến hành không có sự phân biệt, gộp chung các sĩ quan của chế độ cũ - kể cả những kẻ chỉ huy các chiến dịch quân sự đi càn quét và ném bom xuống các làng xóm, tàn sát nhân dân - lẫn với những bác sĩ, giáo viên, kỹ thuật viên bị bắt buộc phải sung vào quân đội Sài Gòn, nguy hại hơn nữa là đã duy trì một không khí ngờ vực chính trị đối với tất cả những ai đã từng làm việc trong bộ máy hành chính của Sài Gòn, đưa họ ra khỏi những chức vụ phụ trách ở các cấp của bộ máy hành chính mới, ngay cả những cơ quan kỹ thuật. Hàng vạn gia đình, nhất là thuộc các tầng lớp trung lưu, trí thức và thương gia, kỹ nghệ gia, phải sống nhiều năm liền trong nỗi lo bị xem là phản cách mạng.
Niềm hoan hỉ trong những tháng đầu giải phóng càng phai nhạt dần, những khó khăn kinh tế và xã hội càng tích lũy nhiều lên do sự cắt đứt viện trợ Mỹ - khan hiếm lương thực, hàng hóa, thất nghiệp - thời gian những người bị giam giữ hoặc đúng tội hoặc oan uổng trong các trại ''cải huấn" càng kéo dài thì sự bất thường trong một số giới càng tăng lên.
Vả chăng, một bóng đen mới càng ngày càng rõ trong quan hệ quốc tế: xung đột với Campuchia của Pôn-pốt, và nhất là với Bắc Kinh ngày càng gay gắt thêm, có nguy cơ đe dọa ngay đến những nền móng của chế độ. Chủ nghĩa quốc tế vô sản tính đoàn kết chiến đấu với các đảng cộng sản các nước khác là một trong số những nền móng chủ yếu của mọi đảng cộng sản. Tại Đại hội IV của Đảng Lao động Việt Nam, họp vào tháng Chạp năm 1976, Đảng Lao động Việt Nam đã lấy tên mới là Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự có mặt của các đoàn đại biểu của rất nhiều đảng đến từ tất cả các nước thừa nhận tính hợp pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam, về phương diện dân tộc cũng như quốc tế. Chỉ duy nhất Đảng Cộng sản Trung Quốc vắng mặt. Viện trợ và sự ủng hộ của Trung Quốc không phải chỉ về mặt kinh tế và chính trị; cuộc xung đột công khai với Bắc Kinh lần này đã phá hoại nền tảng ý thức hệ của chế độ này. Đội quân xâm lược của Nhật, Pháp, rồi Mỹ vừa mới bị đẩy lùi thì một mối đe đọa mới đã chọc vào, lần này là từ một “nước anh em”. Cú sốc là rất nặng đối với cả một thế hệ chiến sĩ đầy nhiệt tình, phấn khởi đã hy sinh tất cả cho lý tưởng của mình, đối với hàng triệu thanh niên lóa mắt vì hào quang chến thắng của cha anh mình - những anh hùng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, và còn hơn thế nữa, những chiến sĩ tiên phong của một xã hội mới. Một ánh hào quang trong chốc lát bị một vết đen làm hoen mờ đi nhanh chóng: ''Những lạc thú của thành Ca-pu''(64) Đại đa số cán bộ và chiến sĩ từ bưng biền trở về hoặc từ miền Bắc vào đã chiếm được lòng khâm phục và mến mộ của mọi người do kỷ luật chặt chẽ của họ; họ không tơ hào cây kim sợi chỉ của dân và thái độ thân thiện trái ngược hẳn với lề thói của đội quân ô hợp chế độ cũ. Tuy nhiên một số cán bộ chiến sĩ, kể cả những người có chức tước cao nhất, đã ra sức vơ vét cho riêng mình, nào biệt thự, nào nhà cửa, xe cộ và nhiều của cải khác mà những người chạy trốn bỏ lại, sống buông thả hư hỏng.
Vào tháng Chạp năm 1976, Đại hội IV của Đảng Cộng sản Việt Nam khai mạc trong một tình hình vừa chất chứa hy vọng vừa đầy những mối đe dọa như thế. Đất nước đã được thống nhất. Đại hội phải xác định đường lối chung chỉ rõ con đường đi đến tương lai, xây dựng xã hội mới trên những cơ sở nào và giữ vững vị trí của mình trong khi hòa nhập với thế giới. Có thể nói rằng kết quả đạt được trong những tháng đầu (5/1975 - 12/1976) là tích cực. Tuy nhiên, đấy chỉ là những biện pháp chuyển tiếp đề ra và thi hành trong một tình hình khẩn cấp. Đường lối chung và những chiến lược được thông qua lần này về các lĩnh vực khác nhau - kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, quốc tế - phải quyết định đường đi cho nhiều thập kỷ. Ban lãnh đạo của Đảng có đủ mọi quyền lực và uy tín cần thiết để đề ra những nghị quyết có tầm quan trọng hàng đầu.
Vài năm sau, Đảng thừa nhận công khai là đã phạm những sai lầm nghiêm trọng ở Đại hội IV. Tuy nhiên, nhà sử học hoàn toàn không lệ thuộc phe phái nào có thể đặt ra câu hỏi: Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ liệu đã có thế làm khác được không? Phán xét về sau bao giờ cũng dễ dàng hơn, nhất là phán xét một cách sơ lược không phân tích, một khi mà tấn kịch lịch sử đã diễn xong tất cả các hồi của nó; tốt hơn là chúng ta thử tìm ra những nguyên nhân chính đã dẫn đến việc thông qua một chính sách mà sau đó đã tỏ ra tai hại, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế.
Từ năm 1939, năm khởi đầu của cuộc Đại chiến thế giới lần thứ II cho đến năm 1955, nước Việt Nam bị tách rời hoàn toàn với phần còn lại của thế giới. Từ 1955 đến 1975, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ có những quan hệ quốc tế duy nhất với các nước xã hội chủ nghĩa, trước hết là Liên Xô và Trung Quốc; các nước này, chính họ cũng đang bị tụt hậu ghê gớm về mặt công nghệ so với thế giới tư bản, mặc dù Liên Xô có một số thành tựu ngoạn mục. Đối mặt với sự xâm lược của Mỹ, với sự thù nghịch chung của các nước tư bản chủ nghĩa (trừ Ấn Độ và Thụy Điển), với sự tẩy chay của các nước láng giềng ở Đông Nam Á, năm 1975 nước Việt Nam được hoàn toàn giải phóng chỉ có thể hướng về các nước xã hội chủ nghĩa mà thôi.
Đối với đại đa số nhân dân Việt Nam, chủ nghĩa tư bản chỉ có thể gợi lên một quá khứ thuộc địa lâu dài, với tất cả những bất công, tàn bạo của nó và những sự khủng khiếp của một cuộc chiến tranh dã man. Đối diện với phe tư bản chủ nghĩa luôn luôn đe dọa, tất nhiên người ta phải tìm chỗ dựa và sự ủng hộ trong phe xã hội chủ nghĩa.
Đối lập với con đường phát triển tư bản chủ nghĩa là con đường xã hội chủ nghĩa đã được các nước anh em khai phá một cách thành công. Đối với nước Nga Sa hoàng lạc hậu, vài ba chục năm dưới chế độ xã hội chủ nghĩa đã đủ để trở thành một siêu cường đè bẹp được chủ nghĩa phát xít. Đối với Trung Quốc, một nước đã gần như bị biến thành thuộc địa, việc chọn con đường xã hội chủ nghĩa và gia nhập cộng đồng các nước xã hội chủ nghĩa đã đủ để làm cho họ nhanh chóng nổi lên như một đại cường quốc thế giới. Việc Đại hội IV Đảng Cộng sản Việt Nam dứt khoát chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa, kiên quyết bác bỏ mọi gợi ý khác để mở ra con đường đi tới tương lai, cũng như để giải quyết những khó khăn thúc bách trước mắt, điều đó nằm trong lô gích của sự vật.
Từ những năm 30 đến những năm 80, các nhà lãnh đạo của phong trào dân tộc, những người vốn chỉ biết cuộc sống bí mật, những năm dài trong các nhà lao và các căn cứ du kích, chịu đựng những thiếu thốn và đau khổ không bút nào tả xiết, họ đã sống, hoàn toàn bị cách biệt với những đột biến xã hội- lịch sử đã làm thay đổi triệt để bộ mặt của thế giới - kết quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Trung thành đi theo mô hình phát triển của Liên Xô, họ chỉ có thể làm cho đất nước càng bị cô lập thêm đối với quốc tế, và tự khép mình trong một cái khung ý thức hệ cứng nhắc, ít thuận lợi cho những thay đổi.
Sự khẳng định chủ nghĩa quốc tế vô sản chỉ thuộc về lĩnh vực chính trị; trên bình diện kinh tế, Đại hội IV của Đảng Cộng sản Việt Nam với dự án về một nền kinh tế quốc dân độc lập, với đầy đủ mọi khu vực của một nền kinh tế hiện đại, không tham gia sự phân công quốc tế về lao động, không hội nhập nền kinh tế thế giới, kể cả với cộng đồng SEV. Ngay ở châu Âu khối SEV là một tập hợp gồm những nền kinh tế quốc gia độc lập không mảy may hội nhập với nhau. Nước Việt Nam tiếp nhận một khoản viện trợ lớn của các nước xã hội chủ nghĩa khác, nhất là của Liên Xô và Trung Quốc - viện trợ song phương chứ không phải đa phương, bao gồm hầu như toàn bộ các hàng nhập cần thiết. Viện trợ rất quan trọng này và tình trạng chiến tranh đã che khuất sự cần thiết phải quay sang phía thị trường tư bản thế giới. Việc làm quen muộn màng với thị trường thế giới đã kìm hãm đáng kể sự phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, những sai lầm quan trọng nhất, như Đại hội VI của Đảng mười năm sau đã nhận định là thuộc về chính sách kinh tế đối nội. Sai lầm và ảo tưởng. Sai lầm ở chỗ cho rằng có thể vượt qua tình trạng lạc hậu về xã hội-kinh tế bằng cách chuyển thẳng sang nền ''sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa'', bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, và do đó tìm cách xóa bỏ càng nhanh càng tốt mọi hình thức kinh tế tư nhân, gia đình, tư bản chủ nghĩa; ngay cả những hợp tác xã cũng chỉ được coi là những cấu trúc quá độ vì lý tưởng là chuyển mọi hình thái kinh tế dưới sự điều hành và quản lý trực tiếp của Nhà nước. Hậu quả là đã dựng lên cả một bộ máy quan liêu đồ sộ, quyết định tất cả, cho đến những chi tiết nhỏ nhặt nhất, một sự tập trung hóa đến quá quắt, không dành chút quyền chủ động nào cho lãnh đạo các tỉnh, các xí nghiệp, cũng như cho cá nhân, từng đơn vị, từng cá nhân chỉ có mỗi một việc là chờ đợi các cấp Trung ương cấp cho mình các khoản tài chính các nguyên liệu các chỉ tiêu kế hoạch, quyết định tiền lương, giá cả và số lương cho nhân viên. Chế độ này, vài năm sau sẽ bị lên án là chế độ bao cấp (Nhà nước cung cấp tất cả). Ảo tưởng là ở chỗ cho rằng với chế độ này, có thể đốt cháy các giai đoạn, thúc đẩy một sự phát triển tăng tốc: những chỉ tiêu của năm 1980, năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 đã chứng tỏ tham vọng đó: 21 triệu tấn lương thực, 10 triệu tấn than, và về tất cả mọi mặt đều như thế. Rất nhiều dự án lớn được đưa ra nghiên cứu: Liên hợp gang thép, các ngành công nghiệp nặng được ưu tiên, xây dựng thủ đô mới, cải tạo nhanh chóng 500 huyện trong cả nước thành 500 trung tâm nông-công nghiệp, mỗi trung tâm có một hạ tầng cấu trúc hiện đại về tất cả mọi lĩnh vực, di dân hàng loạt lên các miền núi, khai hoang gấp các vùng hoang hóa.
Ngay từ 1977, toàn thể các bộ máy của Đảng và của Nhà nước, cũng như các tổ chức quần chúng - Phụ nữ, Thanh niên, Công đoàn, Mặt trận Tổ quốc, đều được huy động cho một chiến dịch rầm rộ nhằm xóa bỏ tư tưởng, cải tạo các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa ở Sài Gòn thành xí nghiệp quốc doanh hoặc liên doanh, đưa tất cả nông dân miền Nam vào các hợp tác xã nông nghiệp; những hợp tác xã đã có ở miền Bắc phải nhanh chóng tiến lên quy mô công xã. Nhiều nông trường quốc doanh lớn được thành lập để phục vụ như những đơn vị tiên phong trong ngành nông nghiệp.