CHƯƠNG THỨ TƯ Lịch-sử Lạc-Việt (bài một) I. LẠC-VIỆT, CHỦ NHÂN VĂN HÓA ĐÔNG-SƠN
1) Chủ nhân văn hóa Đông-sơn thuộc giống Anh-đô-nê
Từ trước đến đây, chúng tôi đã trình bày sự việc, mặc chỉ rằng chủ nhân văn hóa Đông-sơn thuộc giống Anh-đô-nê. Có chỗ chúng tôi cũng đã nói đến vấn đề đó một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, nhưng chưa cắt nghĩa tại sao lại có thể nói như vậy. Bây giờ thiết nghĩ đã đến lúc phải đặt cho nó một căn bản vững vàng và chặt chẽ hơn.
a) Giống Anh-đô-nê gặp được trên đất Việt-Nam (nghĩa là trong đó có cả khu vực cổ Việt) trước và sau khi nền văn minh Đông-sơn xuất hiện. Người ta đã khám phá được di cốt của giống người đó ở Bắc-sơn, ở Hòa-bình, người ta đã khám phá được dấu tích của văn hóa họ trong nhiều trạm tiền sử ở hai vùng vừa nói, với những đặc tính rõ rệt mà các nhà tiền sử học đã gọi là nền văn minh Hòa-bình, nền văn minh Bắc-sơn. Mãi cho đến ngày nay, ở miền sơn cước Việt-Nam, vẫn còn tồn tại những người mà dòng giống, văn hóa, ngôn ngữ là của Anh-đô-nê. Đó là những người Mường và nhất là người Mọi. Nếu trước đã có và sau còn có, và đồng thời không có gì - bất cứ gì - có thể làm cho chúng ta liên tưởng rằng trong một thời, nói rõ hơn, thời Đông-sơn, giống Anh-đô-nê đã từ bỏ lãnh thổ Việt-Nam, và sau đó lại trở lại, nếu sự việc là như thế, thì ai cấm được chúng ta tin chắc rằng giống Anh-đô-nê đã truyền kế sinh sống ở vùng rừng núi Việt-Nam, cho mãi đến thời đại chúng ta.
Về vấn đề nầy, Olov Jansé chẳng hạn, đã nói: "Có lẽ rằng người Mọi, cũng như những người thuộc giống Anh-đô-nê, ví dụ người Dayak ở Bornéo, đã giữ lại trong tín ngưỡng của họ, những tập tục bắt nguồn từ thời đại Đông-sơn. Có những lễ nghi tôn giáo nầy còn được cử hành trong các dân đó nhắc lại những cảnh tượng được ghi lại trên những trống đồng lớn". (1)
b) Sự kiện vừa nói lại được chứng minh bởi nhiều yếu tố thuộc nhiều loại như đã đề cập đến một cách rải rác qua đoạn bàn về ý nghĩa văn hóa Đông-sơn. Chúng ta thấy được rằng chủ nhân văn hóa Đông-sơn thuộc giống Anh-đô-nê, vì người trong các hình vẽ là người Anh-đô-nê; những người đó phục sức theo kiểu người Anh-đô-nê; họ có nhà cửa giống nhà cửa của người Anh-đô-nê; họ có phong tục giống phong tục của người Anh-đô-nê. Bởi đó, không lạ gì khi thấy hầu hết các học giả nghiên cứu nền văn minh Đông-sơn, đều cho rằng người Đông-sơn là người Anh-đô-nê. Trong óc của Goloubew chẳng hạn, không còn có phân biệt nào giữa tiếng "người Đông-sơn" và người Anh-đô-nê. Sự đồng nhất hoàn toàn đó đã được diễn tả trong câu ông viết sau đây khi nói về văn minh đồ đồng: "Sứ mệnh lịch sử của "dân Đông-sơn" nằm trong cõi u minh. Chúng ta không biết được vào thời đại nào những người Anh-đô-nê đó đã thiết cư trên bờ sông Mã, cũng không biết họ đã kháng cự làm sao chống lại cuộc bành trướng Hoa-Việt".
Về lời trích, chúng tôi chỉ hoàn toàn đồng ý với tác giả ở chỗ ông lẫn lộn "dân Đông-sơn" với giống Anh-đô-nê, vì hai tiếng chỉ một nghĩa. Cố nhiên chúng tôi không đành bó tay chịu rằng sứ mệnh lịch sử của (dân Đông-sơn) nằm trong cõi "u minh", vì chính trong bài nầy chúng tôi đang tìm cách đem ánh sáng vào cõi u minh đó. Ở đây chúng ta ghi nhận một điều là Goloubew đã lưu ý đến sự dị biệt giữa giống Anh-đô-nê và giống Hoa-Việt; hay nói cách khác người Việt-Nam không phải bắt nguồn từ giống Anh-đô-nê. Người ta có thể cho rằng nhận định được như thế không khó gì, vì ngày nay chẳng hạn, ai cũng thấy được sự dị biệt giữa người Việt-Nam và người Mọi.
Nhưng nếu nhận định sự dị biệt có thể dễ, thì sự theo đuổi hậu quả của nó lại tỏ ra không dễ bằng. Rất nhiều học giả đã nói rằng văn hóa Đông-sơn là văn hóa Việt-Nam, nghĩa là văn hóa Anh-đô-nê là văn hóa của tổ tiên chúng ta. Về điểm nầy, chúng ta thử đọc bài "Nguồn gốc Văn minh Việt-Nam" của Olov Jansé. Ông nhận rằng dân Đông-sơn thuộc giống Anh-đô-nê (xem lời trích dẫn trên), nhưng trong bài đó ông lại liệt văn minh Đông-sơn vào hạng văn minh Việt-Nam. Lời ông:
"Bây giờ chúng ta có thể phân biệt ba thời kỳ trong cuộc cấu tạo nền văn minh Việt-Nam. Mỗi thời kỳ được tiêu biểu bởi một nền kỹ nghệ đặc biệt.
- Trước tiên có thời kỳ Đông-sơn, kể đại lược thuộc khoảng từ năm 500 trước K.N., đến đầu kỷ nguyên...
- Thời kỳ thứ hai được tiêu biểu bởi thứ kỹ nghệ gọi là kỹ nghệ Lạch-trường, và đại để thuộc về ba thế kỷ đầu, trước và sau kỷ nguyên...
- "Sau nữa có một thời kỳ thứ ba cần phải ghi ở đây: Thời kỳ Óc-eo. Kỹ nghệ thời kỳ đó thuộc giai đoạn bắt đầu từ thế kỷ thứ hai trước Kỷ nguyên, đến thế kỷ thứ năm sau Kỷ nguyên..." (2)
Ý nghĩa của lời ông Olov Jansé thật lúng túng. Phải chăng ông muốn nói đến những yếu tố cấu tạo nên nền văn minh Việt-Nam ngày sau? Nếu vậy thì chắc gì các thứ kỹ nghệ Đông-sơn, Óc-eo đã đáng được đề cao, đang lúc đó ai cũng thấy rõ những yếu tố của nền văn minh Trung quốc và Chàm. Hay là ông muốn chỉ về kỹ nghệ của những thứ người đã sống trên cùng một lãnh thổ, sau nầy trở nên lãnh thổ của dân Việt-Nam. Nếu vậy, sao ông không kể Chàm và Khmer vào, vì đất Chàm và đất Thủy Chân-lạp về sau cũng đã trở thành lãnh thổ Việt-Nam? Sở dĩ ông Jansé lúng túng như thế, là vì ông không thấy thấu đáo ý nghĩa của những tiếng: Văn hóa Đông-sơn là của giống Anh-đô-nê.
2) Văn-hóa Đông-sơn là Văn-hóa Lạc-ViệtĐó cũng là một điều chúng tôi đã mặc nhận từ đầu. Rất nhiều học giả cũng đã nghĩ như vậy, mặc dầu chưa ai theo đuổi vấn đề cho đến cùng. Nhưng nếu sự nói "Văn hóa Đông-sơn là văn hóa Anh-đô-nê" là một điều đòi phải lưu ý, thì khi quả quyết văn hóa Đông-sơn là văn hóa Lạc-Việt, người ta càng có bổn phận phải giải thích.
a) Trong số những học giả cho rằng văn hóa Đông-sơn là của người Lạc-Việt, phải kể các ông Goloubew (1929), Đào-Duy-Anh (1950), La-Hương-Lâm (1953). Goloubew, trong bài nghiên cứu về "Thời đại đồ đồng ở Bắc-Việt và phía bắc Trung-Việt" đã tìm hiểu về thổ dân ở vùng Cửu-chân và trích dẫn những đoạn sử sách nói về dân Lạc-Việt để tả thứ thổ dân đó. Chẳng hạn ông đã dùng đến đoạn nầy H. Maspero nói về đất và dân Lạc-Việt: "Cả vùng đó hầu hết là đầm lầy và rừng rậm trong đó có nhiều voi, tây ngu, cọp và ở đó dân sống về nghề săn bắn và chài lưới. Dân nầy ăn thịt trăn, và thịt các thú rừng khác họ săn được nhờ những mũi tên có đầu xương nhọn. Họ còn sống bằng hoa mầu nghèo nàn của những đám rẫy họ đốt ở góc rừng trước mùa mưa đến không mất công cày tưới gì. Không hơn không kém, họ là thứ người ở chung quanh các trung tâm hành chánh, chịu ảnh hưởng của các Thái thú Trung-hoa nhất là Nhâm-Diên, và nhờ đó, kể từ mấy năm về trước, họ đã bắt đầu trồng trọt một cách đều đều, theo gương của những người kiều cư ở Giao-chỉ mà Nhâm-Diên đã đem vào đây" (4). Đoạn nầy, Maspero có đưa vào đúng sử liệu để mô tả dân Lạc-Việt hay không, điều đó chúng ta sẽ bàn đến sau, ở đây chỉ nên ghi nhận rằng khi Goloubew trích nó ra, ông cũng đã có ý nói rõ chủ nhân của văn hóa Đông-sơn là dân Lạc-Việt.
Ông La-Hương-Lâm, học giả Trung quốc, cũng hiểu như vậy. Trong quyển "Bách-Việt nguyên lưu dự Văn-hóa", ông đã dành một thiên cho vấn đề trống đồng (Đồng cổ chi chế tác cập kỳ văn thứ). Ông viết: "Người thuộc Việt tộc đã chế ra trống đồng để dùng, lại vì trống đồng rất thịnh ở dân Lạc-Việt, nên người ta còn gọi trống đồng Lạc-Việt". (Việt tộc chế dụng đồng cổ, hựu dĩ Lạc-Việt vi tối thịnh cố hựu xưng Lạc-Việt đồng cổ.) Để làm chứng lời ông có căn cứ lịch sử, ông nói tiếp: "Người Trung quốc, quan lại hay học giả, bắt đầu chú ý đến trống đồng là kể từ thời hậu Hán". Ở truyện Mã-Viện, trong quyển 54 của Hậu-Hán thư có chép: "Viện, cưỡi ngựa giỏi, nên có biệt danh là Mã, khi sang đánh Giao-chỉ, ông đã lượm được trống đồng Lạc-Việt, hèn đúc hình ngựa". (Viện hảo kỵ, thiện biệt danh Mã, chinh Giao-chỉ, đắc Lạc-Việt Đồng cổ, nãi chú vi mã thức). (5)
Còn ở Việt-Nam, như chúng ta đã thấy, Đào-Duy-Anh đã nhiều lần nói lên văn hóa Đông-sơn là của người Lạc-Việt nhất là trong các quyển Nguồn gốc dân tộc Việt-Nam và quyển Lịch-sử Việt-Nam. Chẳng những thế, ông còn dùng những hình vẽ trên trống đồng để cắt nghĩa chính tên Lạc-Việt. Chủ trương của ông nói rằng hình chim trên trống đồng là hình chim Lạc, đã bị nhiều học giả bác bỏ, nhưng chưa có ai chối sự dân Lạc-Việt là chủ nhân của văn hóa Đông-sơn (6).
b) Sự thực văn hóa Đông-sơn phải là văn hóa Lạc-Việt, vì càng phân tích các sự kiện, chúng ta càng gặp được nhiều trường hợp giữa hai bên. Chúng ta thử nhìn kỹ hơn tí nữa vào lời Hậu-Hán thư ông La-Hương-Lâm đã nhắc đến trên kia.
Muốn hiểu rõ ý nghĩa hơn, thiết tưởng nên trích dài thêm tí nữa: "Viện cưỡi ngựa giỏi, nên có biệt danh là Mã. Khi sang đánh Giao-chỉ, ông đã lượm được trống đồng Lạc-Việt, bèn đem đúc ngựa dâng vua, nhân đó tờ biểu có nói: Đi trên trời không gì bằng rồng, đi dưới đất không gì bằng ngựa". (7)
Trước hết người độc nhận ngay được rằng chú ý của tác giả (Phạm-Việp) ở đây không phải là về trống đồng, hay bàn về dân Lạc-Việt, mà trái lại chỉ có ý giải thích tiếng Mã, đứng trước tiếng Viện mà thôi. Khi nhắc đến sự kiện trống đồng Lạc-Việt, Phạm-Việp đã làm phận sự của một người cầm bút, dùng một câu chuyện sẵn có để điểm xuyết cho một ý kiến: Con ngựa trong đời sống của Phục ba Tướng quân. Nói thế nghĩa là nêu lên rằng, nếu tác giả Hậu-Hán thư có dụng ý tô vẽ cho tên Mã-Viện, tác giả đó chắc chắn không bịa đặt hay thêm bớt gì về sự kiện trống đồng Lạc-Việt.
Đoạn vừa trích lại còn cho biết điều nầy là trống đồng không phải ít. Mã-Viện đã dùng trống đồng lấy được để đúc ngựa đồng, mà một con ngựa đồng thế tất nhiều trống đồng. Đàng khác, chúng ta có thể nghĩ rằng, số trống đồng bị người Tàu chiếm đoạt chỉ là một phần của trống đồng dân Lạc-Việt làm ra; như thế số trống đồng ở dân Lạc-Việt phải nhiều.
Sau hết câu chuyện chẳng những làm chứng sự hiện hữu của một dân Lạc-Việt có trống đồng, mà còn nói rõ dân đó ở đâu trong thời nào. Địa điểm được trình bày là Giao-chỉ, hay nói cho đúng hơn chiến trường Giao-chỉ. Mã-Viện đã khởi chiến ở quận Giao-chỉ, thắng Hai-Bà-Trưng, rồi đuổi theo dư đảng của Hai-Bà-Trưng vào đến vùng Cửu-chân. Thời gian trong đó việc Mã-Viện đánh Hai-Bà-Trưng diễn ra, đó là thượng bán thế kỷ thứ I, hay nếu muốn rõ hơn nữa, là từ năm 42 đến 44.
Nay nếu đem những điều nói trên so sánh với các sự kiện nhận được về văn hóa Đông-sơn, để tìm một kết luận:
Hậu-Hán thư ................... Đông-sơn
cho biết: - Vật liệu: đồng cổ ........................... : - trống đồng
- Địa điểm: chiến trường Giao-chỉ ..... : - Đông-sơn (thuộc Cửu-chân)
- Thời gian: 42-44 .............................. : - thời Vương-mãng (thời Hán)
- Chủ nhân: Lạc-Việt ...................... : - thuộc giống Anh-đô-nê
Như vậy, kết quả của việc so sánh chỉ có thể rằng dân Lạc-Việt chủ nhân của văn hóa Đông-sơn.
3) Chim của trống đồng là chim "Lạc"...Nhưng thiết tưởng không gì sẽ nối kết văn minh Đông-sơn lại với dân Lạc-Việt một cách mạnh mẽ cho bằng nếu thực sự giống chim vật tổ được hình dung trên các trống đồng là chim Lạc. Bấy giờ văn minh Đông-sơn và dân Lạc-Việt sẽ đi đôi với nhau chẳng khác gì người với tên, và nếu nói đến tên cũng là nói đến người, thì nói đến văn minh Đông-sơn cũng là nói đến dân Lạc-Việt. Điều quan hệ là chim vật tổ đó có phải chim Lạc hay không.
Có người như Claude Madrolle, không hề nghĩ đến việc tiếng Lạc có thể là tên một loài chim. Theo ông, chữ Lạc cũng là chữ lão, vì nếu dùng cách phiên âm theo cách đọc của người Trung-hoa thì chữ Lạc cũng là lo và chữ lão cũng là lo. Bởi đó, sau khi đã chủ trương rằng dân Việt-Nam bắt từ hai gốc, gốc thổ dân, và gốc do thứ người từ miền Học-lão (Hok-lo) mà đến, ông bàn đến chữ Lạc trong tiếng Lạc-Việt. Ông nói:
"Tiếng đã quá quen biết với chúng ta đó, các sách Trung-hoa dùng để chỉ vị vua và các tướng cùng dân ở Bắc-kỳ, nghĩa là dân annamites, và chúng ta cũng dùng hùa theo như vậy. Tuy nhiên, trong cách xưng hô chung đó, có một chỗ chúng tôi cho là không được ổn, đó là vì tiếng phiên âm lo cũng gặp tiếng Hok-lo, tổ tiên của dân Hải-Hậu... (8)
Thế rồi, ông khoan khoái nói tiếp: "Sự trùng hợp đó làm sáng tỏ công trình nghiên cứu của chúng tôi. Thực ra người Lạc ở châu thổ không còn phải là dân annamites, nhưng là dân Hok-lô của nước Việt, gọi là Hải-Hậu". Nói cho đúng, không có gì đáng cho Madrolle khoan khoái lắm, vì nếu hai tiếng Lạc và lão được người Tây phương phiên âm ra bằng cùng một chữ lo, nhưng chắc gì khi đọc lên hai tiếng nầy đã có cùng một âm như nhau, chứng cớ là không hề ai đã dùng chữ lão để thay thế cho chữ Lạc và gọi dân Lạc-Việt là Lão-Việt chẳng hạn.
Đối với ông Đào-Duy-Anh, thì không những chữ Lạc là tên chỉ một giống chim, mà còn quả quyết rằng thứ chim được hình dung trên trống đồng là chính chim Lạc. Đoạn then chốt ông viết về vấn đề nầy đọc như sau:
"Xem những hình thuyền chạm trên thân trống đồng Ngọc-lũ, người ta lại thấy rõ rằng đó là thuyền đi biển có cột buồm và bánh lái mũi. Những điểm ấy khiến chúng ta thấy rằng những người đúc trống ấy - người Lạc-Việt - tất đã từng vượt biển. Những chim Hậu điểu ấy, người ta thấy khác trên trống đồng, chính là chim tô tem của những người chủ nhân của trống đồng ấy, tức là người Lạc-Việt. Tìm ý nghĩ chữ hay là họ, tục tên thị tộc của người Lạc-Việt, chúng ta thấy chữ ấy chỉ một loài Hậu điểu ở vùng Giang-Nam. Xã hội học cho chúng ta biết rằng các thị tộc ở xã hội nguyên thủy thường lấy tên vật tổ mà đặt tên. Như thế thì chữ Lạc chính là tên vật tổ, tức loài chim hậu điểu mà chúng ta thấy hình dung trên trống đồng Ngọc-lũ. (9)
Xét mà xem, chúng ta nhận được hai ý kiến trong lời của Đào-Duy-Anh: Chim vật tổ của dân Đông-sơn là một thứ Hậu điều gọi là Lạc, và dân Lạc-Việt đã từ vùng Giang-Nam di cư đến cổ Việt bằng đường biển. Về điểm thứ hai, chúng tôi sẽ bàn đến trong những chương sau, nay chỉ nhìn kỹ vào điểm thứ nhất.
Ý kiến chim Lạc là chim Hậu điểu đã bị ông Văn Tân đả kích kịch liệt. Ông Văn Tân chứng minh quan điểm của ông bằng một loạt những trích dẫn hết sách nầy đến sách khác. Tự điển Khang Hy cho biết chim Lạc là chim Dục kỳ. Tự Điển Từ Hải cho biết chim Dục-kỳ là chim Cù-dục, tức là thứ sáo đen hay là oethiopsar cristatellus. Dò trong quyển Les Oiseaux de la Chine, của Armand David và Gustalet, ông thấy oethiopsar cristatellus cũng là acridotheres cristatellus, nghĩa là sáo đèn, và trong quyển Les Oiseaux de l'Indochine cũng thấy như thế. Và ông Khải thắng kết luận: Chim sáo đâu phải là Hậu điểu! (10)
Trên đường lý luận có vẻ rất chặt chẽ của Văn Tân, có lẽ ông đã được hướng dẫn bởi một tư tưởng vừa nẩy ra trong óc ông mà chưa rõ rệt. Vẫn tin rằng dân Lạc-Việt là tổ tiên của dân Việt-Nam, nhưng lại nhận được rằng phong tục của dân Việt-Nam không giống phong tục của dân Lạc-Việt, ông có minh chứng rằng cái mà người ta thường nói là vật tổ của dân Lạc-Việt đó không đúng với sự thật. Ý ông là cổ làm sao để có thể đem cái mà ông thấy nơi dân Việt-Nam, tức là sự trọng kính con rồng, để gán cho dân Lạc-Việt. Theo dõi các chứng cứ ông trình bày người ta có cảm tưởng chừng như ông toàn thắng, và con chim Lạc không bao giờ có thể là những con chim được hình dung trong các trống đồng. Nhưng nếu trong lý luận của ông, có xen vào những chỗ hở hang và người ta có thể minh chứng, cũng một cách rất chặt chẽ, rằng chim lạc là một loài hậu điểu giống như những chim trống đồng, hỏi ông có đủ can đảm mà nhận sự thật, nghĩa là nhận rằng dân Việt mà nhận sự thật, nghĩa là nhận rằng dân Lạc-Việt khác với dân Việt-Nam và vì thế không phải là tổ tiên của dân Việt-Nam không?
Sự thực, ông Hà-Văn-Tần đã tố cáo rằng lý luận của ông Văn-Tân là không đúng, và lên tiếng bênh ông Đào-Duy-Anh. Trước, ông quả quyết rằng Lạc không phải là chim sáo, nói:
"Luận điểm của ông Văn-Tân co thể tóm tắt vào trong mấy mệnh đề sau:
1. Chim Lạc là chim Dục-kỳ
2. Chim Dục-kỳ là chim Cù-dục
3. Chim Cù-dục là chim Sáo.
Do đó, ông kết luận rằng chim Lạc là chim Sáo. (11)
Chúng tôi đồng ý với ông Văn-Tân ở mệnh đề thứ nhất: Chim Lạc là chim Dục-kỳ... Chúng tôi lại đồng ý với ông Văn-Tân ở mệnh đề thứ ba: Chim Cù-dục là chim Sáo... Những điều chứng mình của ông hoàn toàn chính xác... nhưng chúng tôi không hiểu tại sao ông Văn-Tân đã bỏ qua mệnh đề thứ hai của ông là Chim Dục-kỳ tức là chim Cù-dục... Từ-Hải chẳng những không hề chép Dục-kỳ là Cù-dục như ông Văn-Tân nói mà ngay cả chữ Dục-kỳ cũng không một chỗ nào trong Từ-Hải chép đến. Chúng ta không thể bằng vào giữa chim Dục-kỳ và chim Cù-dục có một phần tên giống nhau là chữ dục mà cho rằng hai loài chim nầy là một... nên chúng ta có thể kết luận rằng chim Lạc không phải là chim Sáo".
Vậy để cho biết chim Lạc là chim gì, ông tra các sách Khang-Hy tự điển, Từ-Hải, Từ Nguyên, và đều thấy nói chim Lạc là một "loài chim nước (thủy điểu), giống chim Nghịch, nhưng cổ ngắn, bụng và cánh tím trắng, lưng màu xanh lục, Giang-Đông gọi là chim Ô-bạo". Xem Từ-Hải, ông thấy chim Nghịch là chim Thương quát hay bạch đỉnh hạc, hay Grus lencachen, tức là một giống Hậu điểu thuộc loài cò. Ông còn dẫn thêm nhiều chứng nữa về chim Nghịch và tất cả đó cho phép ông kết luận: "Theo sự hiểu biết nông cạn của chúng tôi, chúng tôi thấy rằng thuyết tô-tem chim Lạc vẫn có giá trị một giả thuyết." (12)
Đối với chúng tôi, thiết tưởng không có gì ngăn trở chúng ta nghĩ rằng thứ chim được vẽ trên các trống đồng rất có thể là chim Lạc. Những thứ chim đó là giống chân cao mỏ dài nhưng cổ vắn, thật giống như lời tả gặp được trong các tự điển về chim Lạc nói rằng nó "giống chim Nghịch nhưng cổ vắn". Như thế, văn minh trống đồng càng thuộc về dân Lạc-Việt một cách chắc chắn hơn.