← Quay lại trang sách

II. SỬ LIỆU VỀ DÂN LẠC-VIỆT -

Dân Lạc-Việt không phải chỉ có một tiền sử, là nền văn minh trống đồng mà thôi, mà con có một lịch sử nữa, vì sử sách vẫn có chép về dân Lạc-Việt. Một điều nên chú ý, là lịch sử Lạc-Việt không bao giờ được chép bởi chính người Lạc-Việt, nhưng bởi người Trung quốc hay Việt-Nam. Khi người thuộc về một dân tộc khác chép về một dân khác, một điều thường xảy ra là sai lầm để có cơ hội xen vào, nhất là ở những danh từ riêng được phiên âm ra, vì những danh từ được phiên âm như vậy không có ý nghĩa gì trong thứ ngôn ngữ được dùng đến.

1) Sử liệu về dân Lạc-Việt

Ngoài câu "Lạc-Việt đồng cổ", mà chúng ta đã thấy ý nghĩa Hậu-Hán thư còn nói đến dân đó một lần nữa trong cùng một thiên (Mã-Viện truyện). Mã-Viện, sau khi dẹp xong hai bà Trưng và dư đảng, đã sữa đổi việc hành chánh và luật pháp ở bộ Giao chỉ. Về luật-pháp, sách của Phạm-Việp chép: Luật dân-Việt và Luật nhà Hán khác nhau đến mười điều. Ông bèn giải thích luật pháp cũ cho người Việt và bắt họ từ đó về sau phải giữ. Dân Lạc-Việt vâng theo các việc cũ của Mã tướng. (điều tấu Việt luật dự Hán luật bác giả thập dư sự. Dự Việt nhân minh cứu chế dĩ ước thúc chi tự hậu Lạc-Việt cử hành Mã tướng quân cố sự.) (13) Đoạn văn nầy nói lên sự khác nhau giữa dân của hai bà Trưng (thổ dân) và dân Trung-hoa. Thử tìm hiểu xem dân hai bà Trưng, hay dân Lạc-Việt này là thứ dân nào?

Kể ra, sử liệu về dân Lạc-Việt không được dồi dào gì. Trước hết, có lẽ phải nói đến đoạn văn danh tiếng của Giao châu ngoại vực ký đã được trích dẫn trong nhiều sử phẩm. Quyển Thủy kinh chú (thế kỷ thứ 6) đã lập lời của sách đó rằng: "Xưa, khi Giao-chỉ chưa thành quận huyện, đất đai có ruộng gọi là ruộng Lạc, ruộng đó tùy thủy triều lên xuống mà làm. Dân khẩn ruộng đó mà ăn, vì thế tất cả gọi là dân Lạc. Họ lập Lạc vương, Lạc hầu để coi quận huyện. Có nhiều Lạc tướng, có ấn đồng lụa xanh". (Giao chỉ tích hữu quận huyện chi thời, thổ địa hữu Lạc điền. Kỳ điền tòng thủy triều thượng hạ. Dân khẩn thực kỳ điền, nhận các vi Lạc dân. Thiết Lạc vương, Lạc hầu chủ chư quận huyện. Đa vi Lạc tướng, đồng ấn thanh thụ). (14) Đây có lẽ là tài liệu xưa và rõ hơn hết về dân Lạc-Việt. Quyển Giao châu ngoại vực ký, theo Aurousseau thì "chắc chắn phải xuất hiện vào đời Tấn (205-420) và có lẽ ở vào giữa đời đó". (15)

Còn một tài liệu khác nói về dân Lạc-Việt, đó là quyển Quảng Châu ký. Tư-Mã-Trinh khi chú giải Sử ký của Tư-Mã-Thiên đã trích dẫn sách vừa kể rằng: "Theo lời họ Đào thì Quảng Châu ký có nói: "Ở Giao-chỉ có ruộng Lạc, làm tùy thủy triều lên xuống. Người làm ruộng đó mà ăn gọi là Lạc hầu - tất cả các huyện - gọi là Lạc tướng, có ấn đồng lụa xanh" (Đào thị án Quảng Châu ký vân: Giao-chỉ hữu Lạc điền ngưỡng triều thủy thượng hạ. Nhân thực kỳ điền danh vi Lạc hầu chư huyện tự danh vi Lạc tướng đồng ấn thanh thụ). (16) Đoạn văn làm người ta đánh dấu hỏi ngay vào giá trị của nó, vì lời lẽ quá ư thiếu sót, lở dở. Đúng như Aurousseau đã phê phán, người ta phải đem so sánh với đoạn của Giao Châu ngoại vực ký mới hiểu được. Nói cách khác, Quảng Châu ký đã bắt nguồn từ Giao Châu ngoại vực ký, hay là cả hai sách nầy đã lấy lại của một nguồn sử liệu thứ ba nào đó nhưng nay đã mất tích, nhưng sách trước trích dẫn một cách cẩu thả, còn sách sau chép lại rõ ràng hơn. Giả thuyết chủ trương rằng sách trước đã bắt nguồn tự sách sau xem ra có căn cứ, vì Quảng Châu ký xuất hiện sau Giao Châu ngoại vực ký, hay sớm lắm cũng chỉ có thể đồng thời mà thôi. Về vấn đề nầy, Aurousseau đã ghi nhận rằng: "Có nhiều quyển Quảng Châu ký, nhưng đây có lẽ là của Cố Vi đời Tấn (205-420) hay là của Bùi Tuyên (thế kỷ V). Sách đó được trích dẫn bởi một người họ Đào, có thể là Đạo-Văn-Hàm, tác giả của một tác phẩm nhan đề là Giao Châu ký, rồi sau Tư-Mã-Trinh (thế kỷ VIII) đã lấy lại". (17)

Đoạn văn của Giao Châu ngoại vực ký còn được trích dẫn bởi nhiều sử gia người Việt. Người đã làm việc nầy trước hết là Lê Tắc, vào lối 1333. Trong An nam chí lược, ở thiên Cổ tích, tác giả chép: "Giao chỉ thành ký viết: Tích, vi hữu quận huyện thời, quán điền tùy triều thủy thượng hạ, khẩn kỳ điền giả, vi Lạc dân, thống kỳ dân giả vi Lạc vương, phó vương giả vi Lạc tướng". (18). Người đọc thấy ngay được do lai của đoạn nầy, tức là tự Giao châu ngoại vực ký, nhưng không khỏi thắc mắc, vì Lê Tắc đã thay đổi nhiều chỗ, ví dụ: quán điền (cho nước vào ruộng), thống kỳ dân (cai trị dân đó), phó vương giả (giúp vua) nhất là không nói gì đến Lạc hầu. Những thay đổi như thế, có thể do tự Lê Tắc, vì Lê Tắc có thể theo thói quen của các học giả thời xưa là chỉ trích dẫn một cách tự do, thuộc lòng, không quan tâm vì đến nguyên văn bao nhiêu, mà cũng có thể do tự tác giả của tập Giao chỉ thành ký.

Vào thế kỷ 15, một tập truyện mới đã dần dần thay thế cho tập truyện Lạc vương, đó là Hùng vương. Dầu vậy, chính trong bộ Đại Việt sử ký Toàn thư, một bộ sử đã giúp một cách mãnh liệt hơn hết vào việc đặt Hùng vương lên đài danh dự, tác giả Ngô-Sĩ-Liên không thể bỏ hẳn những gì Giao Châu ngoại vực ký đã truyền lại. Về Hùng vương, mà ông đặt thay Lạc vương, ông chép: Vương đóng đô ở chỗ gọi là Văn Lang, lập quan văn, gọi là Lạc hầu, quan võ gọi là Lạc tướng. (19)

Qua các thế kỷ sau, đang khi Hùng vương vẫn giữ nguyên địa vị, các sử gia vẫn nhắc đến tổ chức của Lạc-Việt. Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, ở chỗ nói Hùng vương truyền 18 đời, đã dựa vào An nam chí nguyên của Cao-Hùng-Trưng (thế kỷ 17) mà chú rằng: Giao Chỉ chi địa, vi hữu quận huyện thời, hữu Lạc điền tùy thủy triều thượng hạ. Khẩn kỳ điên giả vi Lạc dân, thông kỳ dân giả vi Lạc vương, phó nhị giả vi Lạc tướng". (20)

Như thế, chúng ta thấy dân Lạc-Việt đã được các sử gia Trung quốc và Việt-Nam nói đến qua các thời đại, nhưng một điều đáng chú ý là xem chừng tất cả đều lặp đi lặp lại cùng một nguồn sử liệu, là Giao châu ngoại vực ký. Vậy, giá trị của nguồn sử liệu nầy, cũng là giá trị của tất cả các lặp lại kia. Trước hết, nên nghi nhận rằng sử liệu không phải đồng thời với biến cố. Biến cố xảy ra trước khi đất Giao chỉ chưa biến thành quận huyện Trung quốc, nghĩa là trước khi Lộ Bác Đức chinh phục Nam-Việt của họ Triệu và thôn tính vùng đất Lạc-Việt để lập ra 9 quận, nghĩa là trước năm III trước K.N. Về phần sử liệu, nó xuất hiện sớm lắm cũng vào thế kỷ thứ IV, tức là lối năm thế kỷ sau biến cố. Một quãng cách như vậy trong thời gian, khó mà bảo đảm được hoàn toàn tính cách xác quả của câu chuyện. Hơn nữa, sử liệu lại chỉ có một, khiến sử gia không biết dựa vào đâu để so sánh, cân nhắc, và giá trị của nó vì đó lại còn nhẹ thêm.

2) Ý nghĩa của sử liệu

Đọc xong đoạn văn của Giao châu ngoại vực ký, người ta chỉ chắc chắn được một điều: sự hiện hữu của một dân gọi là Lạc-Việt sống ở đất cổ Việt trước khi người Trung Hoa sang chiếm cứ. Về các điểm khác, thiết tưởng không chắc chắn bằng. Ta thử lần lượt xem.

Trước hết, về phương diện chính trị của Lạc-Việt, hỏi họ có tổ chức Vương, Hầu, Tướng tự bao giờ? Và tổ chức đó có phải thực sự là Vương, Hầu, Tướng không? Chú ý một tí, người đó sẽ nhận thấy được điều nầy là một tổ chức có Vương, Hầu, Tướng là một tổ chức có tôn ti đẳng cấp, có phân biệt văn ban, võ biền, nghĩa là một tổ chức của một xã hội đã lên đến một trình độ văn minh khá cao. Vậy chúng ta có thể tự hỏi dân Lạc-Việt bấy giờ đã đạt được trình độ đó chưa? Theo Léonard Aurousseau, thì phải trả lời là chưa. Học giả nầy đã muốn chủ trương rằng tổ chức Vương, Hầu, Tướng là của người Trung quốc đặt cho Lạc-Việt sau khi quan Tàu đã làm chủ đất đó. Do vậy khi dịch đoạn văn của Giao châu ngoại vực ký nói trên, ông đã xen vào những chữ cần thiết để bắt người đọc hiểu theo nghĩa đó. Ông viết: (Khi chính phủ Trung quốc đã chiếm xứ nầy và đã tổ chức thành quận, thì) đặt ra Lạc vương và Lạc hầu để cai trị các huyện trong quận. Ở các huyện có nhiều Lạc tướng. Các Lạc tướng nhận (ở chính phủ Trung quốc) ấn đồng, lụa xanh. Le Gouvernement chinois (ayant conquis le pays et l'ayant organisé en commanderies) institua un roi lo et des seigneurs lo pour gouverner l'ensemble des préfectures de la commanderie dans les préfectures; il y a beaucoup de chefs lo. Les chefs lo recevaient (de l'administration chinoise) un seau de cuivre et bande verte. (21) Dịch như Aurousseau, hỏi có cần thiết và đúng không? Cứ lời văn của Giao châu ngoại vực ký thiết tưởng không có gì bắt buộc phải có những câu xen vào. Còn chữ Hán "nhân các vi Lạc dân, thiết Lạc vương, Lạc hầu" rất có thể dịch là "vì vậy mọi người đều gọi là dân Lạc; họ thiết lập Lạc vương, Lạc hầu..." Xen vào như Aurousseau là một dụng ý đòi phải có một lý do chính đáng của sự kiện lịch sử. Nhưng hỏi lý do đó tìm ở đâu? Ở thói quen của nhà Hán? nghĩa là nhà Hán chiếm được đất nào liền lập quận huyện và đặt Vương, Hầu, Tướng để cai trị? Thực sự nhà Hán không có thói quen đó.

Nếu tổ chức Vương, Hầu, Tướng không phải do nhà Hán thiết lập, vì nhà Hán không có thói quen đó và vì nó đã có trước khi nhà Hán đến, thì tại sao nó lại đầy dẫy mầu sắc Trung quốc đến thế? Nhà Hán không lập Vương, Hầu, Tướng ở những nơi họ mới chiếm cứ, nhưng những tiếng Vương, Hầu, Tướng là tiếng Trung quốc, và tổ chức đó ai cũng biết là tổ chức phát xuất từ Trung quốc. Muốn giải quyết khó khăn nầy, chúng ta có thể nghĩ rằng: trước khi bị Trung quốc đến cai trị, người Lạc-Việt đã có một tổ chức khá phát triển, gồm có một người đứng đầu và nhiều người giúp việc cai trị; tổ chức đó, khi các sử gia Trung quốc muốn mô tả, họ đã dùng những danh từ tương đương trong ngôn ngữ Trung quốc, gọi người đứng đầu là Vương, gọi các thứ bậc giúp việc là Hầu, là Tướng. Hỏi các danh từ Vương, Hầu, Tướng có diễn đúng sự thật của tổ chức Lạc-Việt không? Điều đó chúng tôi không biết, và có lẽ cũng không ai có thể biết.

III. TỪ LẠC VƯƠNG RA HÙNG VƯƠNG

Nghiên cứu lịch sử Việt-Nam không ai mà không khỏi thắc mắc về triều đại Hùng-vương, và tự hỏi sao chức Lạc-vương lại bị thay thế. Sự thay thế nầy có phải là một sự sai lầm vô ý, hay là một sửa chữa hữu ý để cho danh từ mang một ý nghĩa, và câu chuyện đượm vẻ oai hùng? Để đáp lại những câu hỏi như thế, cần phải giải gỡ dần dần.

1) Một thay đổi hữu ý

Trên kia, có lần chúng tôi đã đặc biệt lưu ý đến sự kiện dân Lạc-Việt không hề tự chép lấy lịch sử của họ, mà việc đó lại do người Trung quốc làm, nên các danh từ riêng trở thành vô nghĩa trong Hán ngữ. Những danh từ riêng đó, chỉ là những danh từ phiên âm, vì thế, hễ chữ Hán nào có cùng một âm đều có thể đem dùng. Người ta sẽ không lạ gì khi thấy chữ Lạc, một tiếng phiên âm, đã được chép bằng nhiều chữ đồng âm khác nhau:

Sử ký

Hậu Hán Thư ___

Quảng Châu ký ___

Cương mục ___

Lĩnh năm trích quái

Toàn thư ___

Quảng châu ký

An nam chí lược ___

Nhưng không phải ai cũng hiểu rằng chữ Lạc chỉ là một tiếng phiên âm, nên có kẻ khi đọc đến chữ "Lạc điền", "Lạc dân", "Lạc vương" v.v... sẽ lấy làm vô nghĩa, khó hiểu. Bởi vô nghĩa, khó hiểu, họ tìm cách để hiểu, để thoát chỗ bí, mà không phải là không có lối thoát, đối với họ. Về cách viết chữ Lạc của Sử ký, hay của Toàn thư, lối thoát thật khó thấy, nhưng với chữ Lạc của Quảng châu ký làm gì mà không tìm được một cách giải thích hợp lý. Không phải chữ Lạc rất giống chữ Hùng đó sao? . Mà chữ Hùng đặt lên trước các tiếng dân, vương, chẳng hạn, thì ý nghĩa tốt đẹp biết dường nào! kêu biết bao! Lý luận như vừa phác, chắc chắn đã là lý luận của Thẩm Hoài Viễn, tác giả của Nam Việt chí (thế kỷ 5), vì ông đã thay chữ Hùng vào chỗ chữ Lạc, khi lặp lại hầu như nguyên văn đoạn văn của Giao châu ngoại vực ký nói về dân Lạc-Việt. Nhưng để dẫn chữ Hùng vào cần phải có những lối đưa đường, nên tác giả tạo nên một đoạn văn dài hơn. Thẩm Hoài Viễn nói: "Đất Giao chỉ rất mầu mỡ, người ta di dân đến ở, chính họ là kẻ đầu tiên khai khẩn đất nầy. Đất đen và xổi, hơi xông lên mùi hùng. Vì vậy người ta gọi ruộng đó là hùng điền, dân đó là hùng dân. Có quân tướng gọi là hùng vương; vương có kẻ giúp gọi là hùng hầu. Đất thì chia cho các hùng tướng".

Cố gắng của Thẩm Hoài Viễn để gỡ trí khôn ra khỏi một ngõ bí đó, xem ra may mắn, nhưng lại không được mọi người chấp nhận hoàn toàn. Vì nó trái với căn cứ lịch sử quá rõ rệt. Nhưng cũng có kẻ chẳng những là hoan nghênh mà còn đi tuột sang thái cực bên kia, nói rằng chính chữ Hùng là căn bản rồi sau mới bị các sử gia viết lầm ra chữ Lạc. Nói như thế, thiết tưởng không gì sai lạc cho bằng. Cứ nhìn vào sử sách, người ta thấy được tiếng Lạc-Việt đã được nói đến từ lâu trước, từ thế kỷ I trước K.N. (với Sử ký) rồi những tiếng Lạc vương, Lạc hầu, Lạc tướng cũng đã xuất hiện từ thế kỷ IV; đang lúc những tiếng Hùng vương, Hùng hầu, Hùng tướng vào thế kỷ V mới ra đời, mà lại chỉ là một cách giải thích (không đúng chỗ) cho một đoạn văn có trước.

2) Vinh dự của một sự sai lạc

Trong những kẻ (rất ít) đã chấp nhận hoàn toàn đoạn văn của Thẩm Hoài Viễn có tác giả của Thái bình hoàn vũ ký, một tập sách xuất hiện vào thế kỷ thứ 10. Tập đó đã hai lần lặp lại lời của Nam Việt chí. (23)

Sử gia Việt-Nam không trích dẫn một cách mù quáng đối với đoạn văn của Thẩm Hoài Viễn. Lê Văn Hữu không nói gì đến vấn đề Lạc-Việt, nên không có thái độ nào. Lê Tắc thì theo tập truyện của Giao châu ngoại vực ký, chỉ nói đến Lạc vương, Lạc tướng (24). Đến Lý Tế Xuyên, trong Việt điện u linh tập (1939) mới thấy dùng đến chuyện Hùng vương, nhưng bên cạnh danh từ đó, người ta lại thấy ngay tước hiệu Lạc hầu (2). Tác giả Việt sử lược (chép lối 1377) chỉ nói đến Hùng vương, mà không động đến Lạc vương, hay Lạc hầu, nhưng lại giải nghĩa tiếng đó không giống như Thẩm Hoài Viễn đã làm. Đây lời Việt sử lược: "Gia ninh bộ hữu dị nhân, yên, năng dĩ huyền thuật phục chư bộ lạc, tự xưng Hùng vương, đô ư Văn Lang hiệu Văn Lang quốc, dĩ thuần chất tục, kết thẳng vi chính, truyền thập bát thế, gia xưng Hùng vương". (Bộ Gia ninh có người khác thường, có tài dùng huyền thuật bắt các bộ lạc khác phải phục, tự xưng là Hùng vương, đóng đô ở Văn Lang, gọi nước là Văn Lang, phong tục chất phác, dùng lối kết dây để cai trị, truyền được 18 đời, đều gọi là Hùng vương". (26) Ở đây, vua nước Văn Lang (sic) sở dĩ gọi là Hùng vương, là không phải vì cai trị dân Hùng, mà chính là bởi vua có phong độ một con người hùng, có tài dùng huyền thuật. Có lẽ Việt sử lược đem ra một lối giải thích khác, vì sách đó theo một tập truyền khác với của Nam Việt chí. Nhưng yếu tố của sự dị biệt thấy được ở chỗ sách đó nói Giao chỉ có 15 bộ lạc, ở chỗ Hùng vương lập một nước Văn Lang, mà nhất là ở chỗ Hùng vương truyền kế 18 đời. Các yếu tố đó là những sáng tạo do một giấc mơ vĩ đại kết lại bởi sự tác giả đã đọc nhiều sách, sử ký có, tiểu thuyết có. Nhưng nếu muốn biết chuyện nào đã ảnh hưởng nhiều hơn cả trên đầu óc của tác giả Việt sử lược, người ta không phải là không có hướng để tìm. Cái hướng phải nhìn vào đã được chỉ rõ trong câu kế theo đoạn vừa trích. Câu đó nói: "Việt Câu Tiển thường khiển sứ lai dụ, Hùng vương cự chi". Câu Tiển là một nhân vật lịch sử, được nói đến ở Sử ký của Tư Mã Thiên ở chương 41 (27) và trước chuyện Câu Tiển, độc giả đã gặp được chuyện nước Sở (chương 40) và nước Sở có Hùng vương. Đọc vào Sử ký và rồi đọc vào Việt sử lược, ai cũng thấy chữ Hùng ở sách trước, không giống chữ Hùng ở sách sau. Dầu sao, hai cũng là Hùng, và nếu sự dùng chữ đồng âm khác nhau để ghi lại một danh từ riêng đã không phải là một sự ít thấy (xem gương chữ Lạc) nơi các học giả nghiêm nghị, thì chúng ta sẽ không lạ gì khi thấy hiện tượng đó ở một tác giả đầy óc mơ hồ như của Việt sử lược. Và Hùng vương nước Sở có 18 đời! Đoạn Sử ký nói về Hùng vương như sau: "... Hùng Dịch sống dưới đời Chu Thành vương (1115-1079). Bấy giờ vua tiến cử con cái của quan văn võ có công với nhà Chu, nên phong cho Hùng Dịch làm chủ vùng man di đất Sở. Khi phong, vua dùng tước tử, tước nam, lấy tên đất mà phong. Còn Hoa thị (họ Hoa, họ cai trị Trung quốc) thì ở Đan Dương. Tước tử đất Sở là Hùng Dịch (1122-1079) cùng với tước Công nước Lỗ là Bá Cầm (1115-1062), Khang thúc tử nước Vệ là Mẩu (1115-1079), Tấn là Nhiếp (1102), Thái công tử nước Tề là Xã cấp hầu (1122-1079) đều làm quan dưới thời Thành vương.

"Hùng Dịch sinh Hùng Nghệ (1078-1053)

"Hùng Nghệ sinh Hùng Đán (1052-1002)

"Hùng Đán sinh Hùng Thăng (1001-947)

"Hùng Thăng lấy em là Hùng Dương (946-888) nối vị,

"Hùng Dương sinh Hùng Cừ (887-878)

"Hùng Cừ sinh ba con trai. Bấy giờ Di vương (894-879) nhà Chu suy vi, trong số chư hầu có kẻ không triều cống lại còn đem quân đánh nhau. Hùng Cừ giữ được vùng Giang Hán rất yên ổn, bèn cất quân đánh Dung. Khi đến đất Ngạc, Hùng Cừ nói: "Ta là người man di không đáng xưng hiệu thụy như ở Trung quốc. Ông bèn lập con cả ông là Khang làm Câu đàn vương, con thứ là Hồng làm Ngạc vương, con út là Cháp Tì làm Việt Chương vương. Các đất đó đều ở trên sông thuộc đất Sở man. Đến thời Lệ vương nhà Chu (878-842) vua bạo ngược. Hùng Cừ sợ vua đánh Sở bèn bỏ kẻ kế vị và đặt Hùng Mậu Khang nhưng Mậu Khang chết sớm, và Hùng Cừ cũng chết. Con là Hùng Chí kế vị. Hùng Chí bị người em giết chết mà lên thay, gọi là Hùng Diên (876-848).

"Hùng Diên sinh Hùng Dũng (847-838)

"Năm thứ sáu của Hùng Dũng, người nước Chu làm loạn đánh đuổi Lệ vương chạy ra đất Trệ. Hùng Dũng được 10 năm thì mất, đặt em lên tức là Hùng Nghiêm (837-828). Hùng Nghiêm được 10 năm thì mất, có bốn con trai: Con đầu là Bá Sương, con thứ hai là Trọng Tuyết, con thứ ba là Thúc Kham, con sau hết là Quý Tuần. Khi Hưng Nghiêm mất, người kế vị là Hùng Sương (827-823). Năm đầu của Hùng Sương đến năm thứ sáu thì mất, ba em ông tranh nhau địa vị. Trọng Tuyết chết. Thúc Kham bỏ đi tị nạn ở đất Bốc, em út là Quý Tuần lên, gọi là Hùng Tuần (821-800). Năm Hùng Tuần thứ 16, Trịnh Hoàng Công (806-771) được phong ở đất Trịnh. Năm thứ 22, Hùng Tuần chết, con là Hùng Ngạc (799-791) thế. Được chín năm, Hùng Ngạc mất, con là Hùng Nghi lên thay, đó là Nhược Ngao (790-764). Nhược Ngao trị được 20 năm thì U vương (781-771) nhà Chu bị bọn Khuyển Nhung giết. Nhà Chu dời đô về đông, và Tương Công nhà Tần (777-766) bắt đầu được kể vào sổ chư hầu. Năm 27, Nhược Ngao mất, con là Hùng Khản lên, đó là Tiêu Ngao (763-758). Được sáu năm, Tiêu Ngao mất, con là Hùng Tuận lên, đó là Phần Mạo (757-741). Phần Mạo năm thứ 13, nhà Tấn bắt đầu làm loạn, lấy việc Khúc Óc làm lý do. Phần Mạo được 17 năm thì mất, em là Hùng Thông giết con của Phần Mạo rồi lên thay, đó là Võ vương nước Sở (740-690). (28)

Đoạn sử nầy cho biết rằng nước Sở bên cạnh nước Việt của Câu Tiển (496-465) có 18 đời vua:

1. Hùng Dịch 1122... ... 8. Hùng Chí 877...

2. Hùng Nghệ 1078... ... 9. Hùng Diên 876...

3. Hùng Đán 1052... .... 10. Hùng Dũng 847...

4. Hùng Thăng 1001... ... 11. Hùng Nghiêm 837...

5. Hùng Dưỡng 946... ... 12. Hùng Sương 827...

6. Hùng Cừ 887... ... 13. Hùng Tuần 821...

7. Hùng Mậu Khang 877... ... 14. Hùng Ngạc 799...

15. Hùng Nghi 790... .... 16. Hùng Khản 763...

17. Hùng Tuận 757... .... 18. Hùng Thông 740-690

Người ta có thể thắc mắc tại sao tác giả Việt sử lược lại liên kết chuyện Hùng vương, hết từ năm 690 trước K.N. với chuyện Câu Tiển, một người chỉ bắt đầu làm vua nước Việt vào năm 496 trước K.N.? Thiết tưởng thắc mắc nầy không cần nêu ra, vì sự vật quay cuồng trong giấc mơ vĩ đại của tác giả và như vậy tên tuổi, địa điểm, và thời gian có thể liên kết với nhau một cách vô cùng tự do.

Nhưng một mình Nam Việt chí cũng chưa phải là nguồn gốc của Hùng vương trong Việt sử, mà một mình Việt sử lược cũng chưa phải. Tham bác cả hai tập truyền đó lại một cách thâm thiết, làm thế nào Hùng vương do Lạc vương mà ra, cũng là Hùng vương do nước Sở mà ra, bấy giờ học giả Việt-Nam mới yên lòng. Con người đã bắt đầu công cuộc to tác đó có lẽ là tác giả của Lĩnh nam trích quái, xuất hiện vào thượng bán thế kỷ thứ 15. Ở đây, sự việc sẽ được chắp nối một cách tự do và quái dị! Dẫn đầu một loạt những chuyện "trâu ma thần rắn" (29) là chuyện họ Hồng Bàng, tức là chuyện nói về Hùng vương. Thử đọc qua câu chuyện đó:

"Cháu ba đời Viêm để họ Thần nông tên là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi, rồi đi Nam Tuần đến Ngũ Lĩnh gặp Vụ tiên nữ, sinh lòng yêu mến, cưới về làm vợ, sinh ra Lộc Tục, dung mạo đoan chính và rất thông minh. Đế Minh lấy làm lạ cho nối ngôi, nhưng Lộc Tục nhường cho anh. Đế Minh lại lập Đế Nghi làm vua cai trị phương Bắc, cho Lộc Tục làm Kinh Dương vương, cai trị phương nam, đặt tên nước là Xích quỉ.

" Kinh Dương vương xuống Thủy phủ cưới con gái vua Động Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm, tức là Lạc Long quân. Lạc Long quân thay cha trị nước còn Kinh Dương vương không biết đi đâu...

"Lạc Long quân... thấy nàng Âu Cơ (Ái thê của Đế Lai, ông nầy là con của Đế Nghi) ở một mình, dung mạo tuyệt đẹp nên yêu quá mới hóa ra một chàng trai trẻ mỹ lệ... Âu Cơ trông thấy, lòng cũng xiêu theo. Long quân bèn rước nàng về núi Long trang. Âu Cơ ăn ở với Lạc Long quân được một năm sinh ra một bọc trứng, cho là điềm không hay đem bỏ ra ngoài đồng nội. Hơn bảy ngày, trong bọc nở ra 100 trứng, mỗi trứng là một người con trai. Nàng đem về nuôi nấng, không phải cho ăn cho bú gì mà chúng cứ tự nhiên lớn lên, trí dũng song toàn, ai cũng úy phục...

!... Âu Cơ cùng với 50 người con trai ở tại Phong Châu (bấy giờ là huyện Bạch Hạc) tự suy tôn người hùng trưởng lên làm vua, gọi là Hùng vương, lấy tên nước là Văn Lang... đặt các em làm tướng võ, tướng văn, tướng văn gọi là Lạc hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng...

"Trăm người con trai là thủy tổ của Bách Việt vậy." (30)

Trong chuyện nầy, không cần phải chú ý lắm, chúng ta cũng nhận được những yếu tố của tập truyền Việt sử lược về Hùng vương và tạp truyền Giao châu ngoại vực ký về Lạc hầu, Lạc tướng. Tính cách tưởng tượng của câu chuyện thật là rõ rệt. Ngoài ra nó còn mang dấu vết đồi phong bại tục nữa. Nói cho thật, về các nhân vật Kinh Dương vương, Lạc Long quân, không phải tác giả của Lĩnh nam trích quái đã tự bịa ra, nhưng đã lấy ở chuyện Liễu nghị của Lý Triều Uy đời Đường. Chắp nối tất cả các phần ấy lại ở đây, tác giả có lẽ chỉ nhắm vào câu kết luận cuối cùng, tức là giải thích một cách hài hước tiếng Bách Việt.

Nhưng, không phải nhờ tập Lĩnh nam trích quái mà tập truyền Hùng vương đã được bất hủ hóa trong trí óc người Việt. Tác phẩm đã làm việc đó, chính là bộ Đại Việt sử ký Toàn thư của Ngô Sĩ Liên. Trong Toàn thư, ông Liên không có công sáng tác câu chuyện, nhưng sáng kiến của ông lại không ai bì kịp - mà có lẽ cũng không ai muốn cạnh tranh với ông ở chỗ đó - đó là lấy chuyện quái dị làm chuyện sử. Quả thế, bộ sử của ông mở đầu với thiên "Hồng Bàng thị kỷ" gồm các đời Kinh Dương, Lạc Long quân, Hùng vương. Về Kinh Dương vương, ông long trọng giới thiệu: "Húy Lộc-Tục, Thần nông thị chi hậu dã". Rồi với một cách rõ ràng, chắc chắn như bao nhiêu đời vua khác, ông chép:

"Nhâm tuất, nguyên niên. Sơ Viêm đế thân nông thị tam thế tôn Đế Minh sinh Đế Nghi, ký nhi nam tuần chí Ngũ lĩnh, tiếp đắc Vụ Tiên nữ, sinh vương..." (31)

Vì chuyện của Lĩnh nam trích quái đã được lịch sử hóa, và có Kinh Dương vương có một tuế thứ, ta thử hỏi Nhâm tuất nói đó là năm nào? Muốn biết, tưởng không khó lắm. Cuối thiên Hồng Bàng thi, Ngô Sĩ Liên đã cho biết năm cuối cùng của triều đại, và đồng thời cũng cho biết số năm các vua trong triều đại đã cai trị dân. Ông chép:

"Tự Kinh Dương vương, Nhâm tuất, thụ phong, dự Đế Nghi đồng thời, truyền chí Hùng vương quí thế, đương Chu Noãn vương, ngũ thập thất niên, Quý mão, chung. Cai nhị thiên lục bách nhị thập nhị niên". Dịch: Từ khi Kinh Dương vương thụ phong, là Nhâm tuất, đồng thời với Đế Nghi, đến năm Quý mão, đời Hùng vương cuối cùng là hết, tức là vào năm 57 đời Chu Noãn vương. Tất cả là 2622 năm. (32)

Năm 57 niên hiệu Noãn vương nhà Chu, tức là năm Quý mão, 258 trước K.N. Đem niên biểu nầy cộng với tổng số năm của họ Hồng Bàng, chúng ta có (2622 - 258) 2880 năm; như vậy năm Nhâm tuất chỉ có thể là năm 2879 trước K.N. Thật là một con số khổng lồ, vượt cả truyền thuyết của lịch sử Trung quốc bắt đầu với vua Phục Hi, cai trị từ 2858 đến 2737!

Các chi tiết khác về Kinh Dương vương, và cả cuộc đời của Lạc Long quân đã được Ngô Sĩ Liên lược lại của Lĩnh nam trích quái. Riêng về chuyện Hùng vương, ông không những lấy ở chuyện Hồng Bàng mà thôi, mà còn dùng nhiều chuyện khác nữa, như Đổng thiên vương, Bạch Trĩ, Tản viên. Ông cho tất cả đó là những sử liệu tốt, chỉ nghi ngờ đôi tí về Sơn tinh, Thủy tinh kể cũng quái đản thật. Tin sách quá, chẳng bằng không sách. Thật ra đây chỉ là để truyền lại một điều đáng nghi" (33). Còn những chuyện như đẻ trăm trứng, ông cho là có thể có thật. Đây luận điệu của ông:

"Trong thời Trời Đất mới khai sinh, có những giống do khí hóa thành, như họ Bàn Cổ chẳng hạn. Có giống do khí hóa, rồi mới có giống do hình hóa, nhưng giống nào mà không bởi hai khí âm dương. Kinh Dịch chép: Trời đất ấp ủ, vạn vật hóa thành, trai gái chung tình, vạn vật hóa sinh. Bởi đó có chồng có vợ, rồi mới có cha, có con; có cha, có con, rồi mới có vua có tôi. Nhưng thánh hiền sinh ra tất khác với người thường. Vì thế, do mệnh trời, nên một trứng né mà sinh ra nhà Thương, đạp vào dấu chân người khổng lồ mà sinh ra nhà Chu. Đó đều là chép sự thực cả: Dòng dõi họ Thần nông là Đế Minh gặp được Vụ Tiên nữ mà sinh ra Kinh Dương vương, đó là thủy tổ của Bách Việt. Vua lấy con gái Đế Lai mà sinh dục có điểm lành trăm trai, vì thế mà có thể gây dựng cơ đồ nước Việt ta."

Với những lý luận như thế, Ngô Sĩ Liên không thể không tin chắc vào chuyện Hùng vương vì thế ông đã nghiêm nghị chép:

"Hùng vương là con Lạc Long Quân, đóng đô ở Phong Châu. Khi Hùng vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang, chia nước làm 15 bộ, là Giao Chỉ, Châu Nhai, Võ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thương, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Võ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức, giao cho thần thuộc, còn bộ Văn Lang thì dùng làm kinh đô. Vua lập quan văn là Lạc hầu, quan võ là Lạc tướng; con trai vua là quan Lang, con gái là Mỵ Nương, người giúp việc là Phó Chính, cứ đời đời cha truyền con nối, là Phụ đạo. Các đời vua đều gọi là Hùng vương."

Khi chép như vậy, không phải ông chỉ lấy lại của Lĩnh nam trích quái, mà ông còn sửa chữa, hoặc giải thích thêm, cho biết rằng ông là một người học rộng và cẩn thận, chỉ một điều là không biết phận biệt chuyện thật với chuyện bịa, nên lúng túng. Ở chữ Lạc tướng chẳng hạn, ông đã chú thích: "hậu thác vị Hùng tướng: (về sau làm ra Hùng tướng). Hỏi sao ông phê bình Hùng tướng là "thác", mà về Hùng vương ông lại không nói gì? Đó là vì Hùng vương vừa có trong Nam Việt chí, vừa có trong Việt sử lược, lại vừa có trong sử nước Sở. Thật vậy, Ngô Sĩ Liên đã căn cứ vào sử nước Sở (trong Sử ký của Tư Mã Thiên) để sửa chữa những sai lầm của Lĩnh nam trích quái. Sách nầy ở chuyện Đổng thiên vương, nói rằng người lạ xuất hiện ở làng Phù Đổng để đánh bại quân nhà Ân là vào đời Hùng vương thứ ba. Ngô Sĩ Liên thấy không hợp với chuyện Hùng vương nước Sở, vì ở nước Sở, đến đời Hùng Cừ, tức là Hùng vương thứ sáu mới có loạn, nên trong Toàn thư ông đã chép: "Hùng vương lục thế, Võ Ninh bộ, Phù Đổng hương, hữu phú gia ông sinh nhi v.v...". Sự sửa chữa nầy càng làm chứng rõ rệt chuyện Hùng vương, với 18 đời vua, trong sử Việt-Nam, là đã bắt nguồn từ sử Tàu, ở thiên nói về nước Sở.

Bởi Ngô Sĩ Liên đã lịch sử hóa chuyện Hùng vương nên từ đó người Việt đã kể chuyện đó như là một chuyện thật. Đến cả sử quán triều Nguyễn và vua Tự Đức cũng tin như thế. Họ có thể bác các chuyện Kinh Dương vương, Lạc Long Quân, nhưng không dám nói gì về Hùng vương. Sau khi đã đọc đề nghị của Sử quán về việc phê bình Hồng Bàng thị kỹ của Ngô Sĩ Liên, vua xuống dụ rằng:

"Bộ Việt sử Thông giám Cương mục nầy, cho phép bắt đầu từ đời Hùng vương để nêu rõ quốc thống nước Việt ta là khỉ sự từ đó. Còn hai niên kỷ Kinh Dương vương và Lạc Long Quân thể chuẩn cho chua phụ vào sau đời Hùng vương đi hợp với nghĩa "dĩ nghi, truyền nghi." (33)

Thế là tập truyền Hùng vương cứ tồn tại, mặc dầu nước của Hùng vương đó trị bị nghi ngờ. Chẳng những sử quán triều Nguyễn bác bỏ hai đời vua "quái đản" kia, mà còn đánh một dấu hỏi lớn vào lãnh thổ nói là của Hùng vương. Họ không tin nước Văn Lang (sic) rộng đến thế, và họ thẳng thắn cẩn án:

"... Thế tổ Cao hoàng đế ta đại định thần châu, thống nhất toàn cõi nước Việt, đông đến biển cả, tây đến Vân Nam, đến Cao Man, bắc đến Lưỡng Quảng, diện tích của nước chưa bao giờ rộng bằng, vậy mà giáp giới cũng chưa bao giờ đến hồ Động Đình cùng nước Ba Thục. Nay, khi cổ sử chép nước Văn Lang tây giáp Ba Thục, bắc giap Động Đình chẳng là xa sự thật lắm sao? Động Đình giáp Hồ Nam, Hồ Bắc, thật bởi sự ở phía bắc Bách Việt, mà Ba Thục với Văn Lang còn bị cách Tuấn Điền (nay thuộc Vân Nam) không liền đất nhau. Vậy chẳng qua là sử cũ chép quá phô trương đó thôi."

" Hơn nữa, mười lăm bộ kể ra đó đều ở phía nam Giao Chỉ và Châu Viên, tuyệt đối không một bộ nào ở đất Trung Hoa cả. Bởi vậy, sự sai lầm về lời cựu sử quả quyết đã có thể minh chứng được." (38)

Chẳng những thế, người ta còn có thể quả quyết được rằng trong lịch sử, vào thời trước thế kỷ III trước K.N. không có một nước nào gọi là nước Văn Lang, và tên của các bộ được Toàn thư nhắc đến đều là tên những quận, huyện của đất cổ Việt xuất hiện sau thế kỷ II trước K.N.

Nước Văn Lang của Toàn thư chỉ gồm những địa danh trong nước mà cương giới mà Ngô Sĩ Liên định cho, lại bắt nó nằm một phần lớn bên Tàu, do đó Henry Maspero đã nghĩ ra rằng, có lẽ người đầu tiên phân định lãnh vực cho Văn Lang, đã lầm chữ đó với chữ Dạ Lang cũ, vì nước Dạ Lang mới có thể có một biên thùy tương tự. Người ta có thể lầm dễ dàng hai chữ đó, vì trong chữ Hán, hai chữ đó có vẻ giống nhau:

Văn Lang

Dạ Lang

Sự làm lẫn như thế, không phải chỉ ở địa hạt ức đoán, mà đã xảy ra thực sự. Ví dụ, đang khi Thái bình hoàn vũ ký chép: "Phong Châu là đất của Dạ Lang; vì ở cương giới huyện Tân Xương ngày nay có một con sông gọi là Dạ Lang khế". (q. 39, 9b), thì quyển Thông điển lại chép: "Phong Châu là đất của Văn Lang" rồi chú rằng "Có một con sông gọi là Văn Lang". (39)

Giúp cho sự sai lầm như vừa nói, có lẽ còn có yếu tố nầy nữa: Sách Lâm ấp ký nói rằng ở huyện Châu Ngô tại Nhật Nam có một giống người mới gọi là "Văn Lang dã nhân". Tên của giống người nầy đã được dùng để đặt cho một con sông nhỏ ở phía nam huyện, gọi là Văn Lang cứu. (40) Thế rồi, có lẽ vì Châu Ngô ít nghe đến mà Thương Ngô thì quá quen, nên tác giả của Thái bình dư lãm (41) chẳng hạn lặp lại chuyện đó lại nói là dân mọi Văn Lang ở Thương Ngô, và tên của họ được dùng đặt cho một con sông ở phía nam quận. Vậy người đọc muốn biết xem Văn Lang ở đâu, tất nhiên họ tìm ở phía nam quận Thương Ngô, là Giao Chỉ.

Đàng khác, nhìn kỹ vào xuất xứ của 14 bộ kia của nước Văn Lang tưởng tượng này, người ta thấy được đó là những địa danh tương đối mới.

Giao Chỉ, chỉ mới thấy đời Hán, với tính cách tên quận.

(Tống thư, 38, 202).

Châu Diên là một tên huyện đời Đường.

Vũ Ninh là tên một huyện của quận Vũ Bình lập ra năm 271.

Phúc Lộc, tên châu lập ra năm 663. (Nguyên hòa quận huyện chí 38, 4a).

Việt Thường, tên một huyện, viết đời Tấn (Tống thư, 38, 21b) viết đời Đường.

Ninh Hải, tên quận đời Lương (Thái bình hoàn vũ ký, 171, 9b).

Dương Tuyền, tên của đời Đường.

Lục Hải, không có đâu hết, có lẽ viết lầm chữ Lục Lương.

Vũ Định, tên huyện đời Trần, lập năm 271.

Hoài Hoan, tên huyện đời Đường.

Cửu Chân, tên quận đời Hán.

Bình Văn, không có đâu hết.

Tân Hưng, tên huyện lập năm 271.

Cửu Đức, tên quận đời Tống.

Như vậy, tính cách giả tạo của tất cả câu chuyện Hùng vương đã trở thành hiển nhiên, và thứ dân đầu tiên lịch sử nói đến ở cổ Việt chỉ có thể là dân Lạc Việt, với người đứng đầu là Lạc vương.

CHÚ THÍCH

1. Olov Jansé, "Việt-Nam, Carrefour de Peuples et de Civilisations", France-Asie, 165, tháng 1-2-1961, trang 1650.

2. Victor Goloubew, "L'Âge du Bronze au Tonkin et du Nord-Annam" BEFEO, XXIX, trang 40.

3. Olov Jansé, "Nguồn gốc văn minh Việt-Nam", Đại học Huế, 1961, trang 6.

4. Henri Maspéro, "Études d'Histoire d'Annam, V. Expédition de Ma Yuan", BEFEO, XVIII, trang 23.

5. La Hương Lâm, Bách Việt Nguyên lưu dự Văn hóa, Trung Hoa Văn hóa xuất bản, Hongkong, 1953, trang 128.

6. Đào Duy Anh, Nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, Thế giới Hà-nội, 1950; và Lịch sử Việt-Nam, Nhà xuất bản Sử học, Hà-nội, 1958.

7. Phạm Việp, Hậu Hán thư, quyển 54, trong Nhị thập Ngũ sử, trang 747.

8. Claude Madrolle, "Le Tonkin Ancien", BEFEO, XL, trang 315.

9. Đào Duy Anh, Nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, trong Lịch sử Việt-Nam. Nhà xuất bản Sử học, Hà-nội, 1958, trang 83-84.

10. Văn Tân, "Vài ý kiến đối với nhận định của Đào Duy Anh về vấn đề tô-tem của người Việt nguyên thủy". Tập san Nghiên cứu Lịch sử, số 2, tháng 4-1959, trang 16-18.

11. Trong bài vừa dẫn, Văn Tân chủ trương rằng: "Theo tôi, thì tô-tem của người Việt nguyên thủy là một thứ rồng rắn. Rồng rắn theo ngôn ngữ Việt-Nam không phải là con rồng và con rắn, mà là một giống bò sát nhất định nào đó", trang 21.

12. Hà Văn Tân, "Trở lại vấn đề tô-tem của người Việt", Tập san Nghiên cứu Lịch sử, số 4, tháng 6, 1959, trang 66-79.

13. Phạm Việp, Hậu Hán thư, quyển 54, trang 747, cột 2.

14. Lệ Đào Nguyên, Thủy Kinh chú, quyển 37, tờ 4b.

15. Léonard Aurousseau, "La première Conquête chinoise des Pays annamites", BEFEO, XXIXI, trang 209, cước chú 2.

16. Tư Mã Thiên, Sử ký, quyển 113, trong bộ Nhị Thập Ngũ Sử, trang 252, cột 1.

17. Aurousseau, bài vừa dẫn, trang 213.

18. Lê Tắc, An nam Chí lược, Ủy ban Phiên dịch Sử liệu, Đại học Huế, 1961, phần Hán văn, trang 24.

19. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử ký Toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 1, tờ 3a.

20. Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, tiền biên, quyển 1, tờ 2b.

21. Aurousseau, bài đã dẫn, trang 211.

22. Thái bình hoàn vũ ký, ở quyển 170, tờ 9a, trích lại quyển Nam Việt chí, của Thẩm Hoài Viễn, nay không còn. Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, ở bài "Lạc vương hay Hùng vương", trong Tri Tân, số 96, ngày 20 tháng 5, 1943, trang 404-405 và 420-421.

23. Thái bình hoàn vũ ký, quyển 170, tờ 9a và 10a.

24. Lê Tắc, An nam Chí lược, trang 39.

25. Lý Tế Xuyên, Việt Điên U Linh Tập, bản dịch của ông Lê Hữu Mục, Khai trí, 1960, trang 109.

26. Việt sử lược, quyển 1, tờ 2a.

27. Tư Mã Thiên, Sử ký, quyển 41, trang 146.

28. Tư Mã Thiên, Sử ký, quyển 40, trang 141, cột 3.

29. Lời của vua Tự Đức ở Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, quyển thử, tờ 9b.

30. Trần Thế Pháp, Lĩnh nam Trích quái, bản dịch của ông Lê Hữu Mục, Khai trí, 1960, trang 43-45.

31. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử ký Toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 1, tờ b.

32. Ngô Sĩ Liên, sách vừa dẫn, quyển 1, tờ 5b.

33. Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, tiền biên, quyển 1, tờ 5b.

34. Ngô Sĩ Liên, sách đã dẫn, quyển 1, tờ 2ab.

35. Ngô Sĩ Liên, sách đã dẫn, quyển 1, tờ 3a.

36. Ngô Sĩ Liên, sách đã dẫn, quyển 1, tờ 3b.

37. Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục.

38. Sách vừa dẫn, tiền biên, quyển 1, tờ 4a.

39. Thông điển, quyển 184, tờ 25b.

40. Lệ Đào Nguyên, Thủy Kinh chú, quyển 36, tờ 24a.

41. Thái bình dư lãm, quyển 172, tờ 116.

42. Henri Maspéro, "Études d'Histoire d'Annam, IV. Le Royaume de Văn Lang", BEFEO, XVIII, trang 4-6. Xem chương "Hành chánh cổ Việt trong thời Bắc thuộc" ở sau.

43. Nguyễn Phương, "Lịch sử Lạc Việt", Bách khoa, số 196-197.