CHƯƠNG THỨ NĂM Lịch-sử Lạc-Việt (bài hai) -I. LẠC-VIỆT VỚI CÁC DÂN LÂN CẬN-
Địa điểm dân Lạc Việt ở, chúng ta đã thấy rõ, đó là vùng Giao Chỉ, Cửu Chân. Dân Lạc Việt cũng đã được lịch sử chứng minh là có bằng những sử liệu chắc chắn, và tỏ ra là họ đã có tổ chức ít nhiều. Nay thử nhìn vào các mối bang giao của họ cùng trình độ sinh sống của xã hội họ.
Qua lịch sử vắn vỏi của họ, dân Lạc Việt đã chung đụng với các dân lân cận về phía bắc, trước hết với bộ đội của "Thục vương tử", rồi với Triệu Đà và cuối cùng với Mã Viện.
1) Dân Lạc Việt với "Thục vương tử"
Trong cùng một đoạn văn nói về dân Lạc Việt, các quyển Giao châu ngoại vực ký, và Quảng châu ký đã giới thiệu một nhân vật hết sức khó hiểu dưới danh từ "Thục vương tử", (con vua Thục). Sách trước chép:
Về sau con vua Thục dẫn ba vạn quân đánh phá Lạc vương, Lạc hầu, bắt phục hết các Lạc tướng. Nhân đó con vua Thục xưng là An Dương vương. (Hậu Thục vương tử tương binh tam vạn lai thảo Lạc vương, Lạc hầu, phục chư Lạc tướng. Thục vương tử nhân xưng vi An Dương vương.) Sau vua Nam Việt là Úy Đà, cất quân đánh phá An Dương vương.
Để có thể so sánh và tìm hiểu, nên đọc thêm đoạn văn của Quảng châu ký nói về cùng một việc:
Về sau, con vua Thục đem quân đánh Lạc hầu, tự xưng là An Dương vương, cai trị huyện Phong Khê. Rồi vua Nam Việt là Úy Đà đánh phá An Dương vương, sai hai sứ giả đến coi sóc quận Giao Chỉ, Cửu Chân, đó là Âu Lạc vậy.
(Hậu Thục vương tử tương binh phạt Lạc hầu, tự xưng An Dương vương, trị Phong Khê huyện. Hậu Nam Việt vương, Úy Đà công phá An Dương vương, lập nhị sứ điển chủ Giao Chỉ, Cửu Chân, nhị quận, tức Âu Lạc dã.)
Đây cũng như trên kia, khi nói về dân Lạc Việt, hai đoạn văn giống nhau và ở đây càng thấy được rõ hơn rằng đoạn văn sau phát tích từ đoạn văn trước. Quảng châu ký đã lấy lại của Giao châu ngoại vực ký và giải thích thêm. Cả câu "lập nhị sứ điển chủ Giao Chỉ, Cửu Chân nhị quận" cũng là của Giao châu ngoại vực ký.
Phân tích mà coi, chúng ta nhận được trong đoạn văn trước hai sự kiện chính:
- Thục vương tử thắng dân Lạc Việt, tự xưng là An Dương vương.
- Triệu Đà thắng An Dương vương và cai trị Lạc Việt. Đoạn văn sau, chẳng những có cả hai sự kiện đó mà còn thêm:
- An Dương vương đóng đô ở Phong Khê.
- Giao Chỉ, Cửu Chân do sứ của Đà cai trị gọi là Âu Lac.
Để tìm hiểu mối liên lạc giữa Lạc vương và An Dương vương, trước hết nên đặt câu hỏi: "Có An Dương vương hay không đã?".
Theo tập truyền các học giả Việt-Nam, từ đầu đến hạ bán thế kỷ thứ 19, An Dương vương đã được mặc nhiên công nhận là có. Lê Tắc, trong An Nam chí lược (3), tác giả Việt sử lược (4), Lý Tế Xuyên trong Việt điện u linh tập (5), Quả Nghị lương chính Uy huệ Vương, Trần Thế Pháp trong Lĩnh nam trích quái (6), Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử ký Toàn thư (7), sử quán triều Nguyễn trong Cương mục (8), chẳng những không thắc mắc gì về tính cách lịch sử của An Dương vương, mà còn tô điểm cho nhân vật đó, không nhiều thì ít, bằng những nét kỳ quái, nào là được Cao Lổ giúp, được thần Kim Quy ủng hộ, nào là xây thành Cổ Loa lạ thường.
Nhưng bổng trong đám hòa nhạc nầy, có một vài nghịch thanh nổi lên, đó là lời của các ông Nguyễn Văn Siêu, Henri Maspero, Maspero nhất thiết chối rằng An Dương vương không phải là một nhân vật lịch sử. Thái độ dứt khoát của ông, tưởng cũng có thể phê bình một cách dứt khoát. Trong Thông báo ông đã nêu ra một lý luận quá ư đơn giản. Ông nói:
"Chuyện hoang đường An Dương vương dựa trên một đề tài quen biết: Vị anh hùng bị con gái và con rể lừa gạt lấy mất bùa thiêng rồi giết đi, và bùa thiêng đó đã giữ ông bất khả xâm phạm từ trước đến giờ." (9)
Nhưng xét thế, có thể nói được là xét quá vội. Người ta xét một cây cổ thụ, không phải chỉ nhìn vào cành lá của nó mà thôi, mà phải nhìn vào gốc. Những chi tiết thần thiêng trong chuyện An Dương vương chỉ mới được trùm phủ vào bởi các sách ma quái như Việt điện U linh tập và Lĩnh nam trích quái, chứ nếu xét đến các nguồn tài liệu như Giao châu ngoại vực ký hoặc Quảng châu ký thì An Dương vương đâu có được tô vẽ. Cho nên, không thể vì bộ áo mã bề ngoài mà nói rằng không có người thật ở trong.
Ông Nguyễn Văn Siêu (1789-1872) thắc mắc về những điều quan hệ hơn. Ông đánh dấu hỏi vào trên (thành vua "Thục"), trên tên Phong Khê. Ý ông đã được ông thu gọn vào trong bài ngũ ngôn sau đây:
Long thú di cung tại
Loa thành cổ lũy oanh
Như hà Giao Chỉ địa
Khước hữu Thục vương thành?
Bách Việt Tần sơ hiệu
Phong Khê Hán hậu danh,
Sử biên truyền trích quái
Tự điển hướng thùy minh?
Ngô Tất Tố đã dịch:
Cung xưa đóng đầu rồng
Lũy xua quanh ruột ốc
Làm sao đất Giao Chỉ
Lại có thành vua Thục?
Bạch Việt Tần quen gọi
Phong Khê Hán đặt ra
Sử theo lời trích quái
Ai tỏ sự sai ngoa?
Ở đây, tác giả Phuơng đình mạn hứng đã dựa vào địa lý và lịch sử để lập luận. Ông than phiền rất đúng về sự "Sử biên truyền trích quái", vì Đại Việt Sử ký Toàn thư, ở các thiên Hồng Bàng thị kỷ, và Thục kỷ, hầu hết đã chắp nối những gì có thể lượm được nơi tác phẩm của Trần Thế Pháp. Nhưng hỏi chúng ta có thể đồng ý hoàn toàn với Nguyễn Văn Siêu về các điểm khác không?
Kể ra ông đã theo sát lịch sử khi ông viết "Phong Khê Hán hậu danh". Thật vậy, Hậu Hán thư nói rõ là năm 43, khi Mã Viện đã thắng hai bà Trưng, ông đã tâu về Hán triều xin chia huyện Tây Vu ra làm hai là Phong Khê và Vọng Hải. (N.T.N.S., tập I, 747-3). Như thế, tên Phong Khê chưa có trước thế kỷ thứ I. Nhưng lại cũng có thể xảy ra rằng sử gia khi chép chuyện thời trước, đã dùng danh từ địa lý thông dụng trong thời của họ để chỉ cùng một địa điểm. Nói cách khác, vào thế kỷ thứ IV, tác giả của Quảng Châu ký, vì phải chép cho người của thế kỷ ông đọc, mà trọng thế kỷ ông cho An Dương vương đóng đô xưa hiện mang tên là Phong Khê, nên ông đã dùng địa danh Phong Khê để trình bày. Ngày nay, cũng có khi chúng ta nghe những câu "dân Lạc Việt xưa sống ở vùng Bắc Việt" và chúng ta không cho đó là sai, mặc dầu ai cũng biết rằng thời Lạc Việt chắc chắn tên Bắc Việt chưa xuất hiện. Bởi đó, nếu chỉ dựa vào tiếng Phong Khê mà bác bỏ chuyện An Dương vương, thiết tưởng chưa đủ lý.
Thắc mắc về "thành vua Thục" xét ra có căn cứ hơn.
Như hà Giao Chỉ địa
Khước hữu Thục vương thành?
Câu hỏi đó, Nguyễn Văn Siêu đã đặt thế cho tất cả các học giả về sau, vì không ai đọc đến chuyện vua Thục trong Toàn thư mà không khỏi thắc mắc. Người ta vừa thắc mắc về tiếng Thục vương, vừa về tiếng thành, vì thành đây, như ông Siêu hiểu và tất cả mọi người đều hiểu, là thành Cổ Loa (Loa thành cổ lũy oanh).
Về thành Cổ Loa, giải đáp có thể không khó khăn lắm. Ở địa điểm mà Toàn thư nói là An Dương vương đã xây thành Cổ Loa, thì các sử gia Việt Nam cũng là Ngô Quyền đã chọn để đóng đô. (chí thị, tru Kiều Công Tiễn, tự lập vi Vương, đô Loa thành, q.5, 20b). Loa thành, như thế, là một địa danh xuất hiện trong lịch sử với Lê Văn Hưu vào hạ bán thế kỷ 13. Hỏi địa danh đó thực sự chỉ một địa điểm tại đó có một thành gọi là Cổ Loa, hay chỉ là một địa danh suông, theo kiểu ngày nay người ta gọi nói Vọng phu chẳng hạn? Có lẽ chỉ là một địa danh suông, và rồi người ta bịa ra chuyện này chuyện khác để cắt nghĩa.
Nhưng sao người ta lại dùng chuyện Thục vương để cho đi đôi với Cổ Loa? Cổ Loa, theo như trên, thì ở Giao Chỉ, vậy sao vua Thục lại làm chủ nó? Vua Thục đó là ai? Ở đâu mà tới?
Theo Ngô Sĩ Liên, tiếng Thục đây phải hiểu là Ba Thục ở Trung quốc. Như thế, hỏi vua Thục làm sao lại có được một thành ở Giao chỉ? Chỗ bất ổn này đã được Cương mục nêu ra và giải đáp. Sách đó nói:
"Nước Thục, từ năm thứ năm hiệu Thân tỉnh nhà Chu (316 BC) đã bị Tần hủy diệt, lẽ nào còn có thể có vua? Huống hồ, lại bị cách bởi các nước Kiện Vi (nay thuộc Vân Nam), Dạ Lang, Cùng Tạc, Nhiễm Bàng (trước là Tây nam di, nay thuộc Vân Nam) trên một quảng đường dài hai ba vạn dặm, hỏi xa như thế, làm sao vua Thục băng được các nước kia để đến thôn tính Văn Lang? Sử củ chép, chắc vua Thục là Phán, lại nói An Dương vương họ là Thục, húy là Phán, người đất Ba Thục, như thế, có lẽ là ở vùng Tây bắc gần biên giới Văn Lang có một người họ Thục, và người ta cho đó là vua Thục chăng? Điều này chưa ai biết. Nhưng nói rằng vua Thục, lại nói người nước Ba Thục, thì không có." (10)
Nhận xét của Cương mục rất hợp lý. Sử quán triều Nguyễn đã đổ cái sai cho Cựu sử nghĩa là Đại Việt Sử ký Toàn thư của Ngô Sĩ Liên, nhưng tỏ ra họ cũng đã nhìn vào Lĩnh nam trích quái. Chi tiết "Thục vương tôn" không có trong Toàn thư mà có thể ngụ hàm trong chuyện thần Kim Qui của Trần Thế Pháp. Bắt đầu chuyện đó, văn gia họ Trần đã chép:
"Âu Lạc quốc An Dương vương, Ba Thục nhân, tính Thục, danh Phán. Nhân tiên tổ cầu Hùng vương chi nữ Mỵ Nương vi hôn bất đắc..." (11)
Chính chữ tiên tổ trong câu đó đã khiến Cương mục nói An Dương vương là cháu của Thục vương. Nhưng khi sử quán triều Nguyễn nói thế, họ biết rằng họ không đọc đến Giao châu ngoại vực ký hay Quảng châu ký, tức là những sử liệu giá trị về vấn đề Thục vương.
Bởi các sách sử Việt Nam đưa vào Lĩnh nam trích quái, mà sách này là một sáng tác văn chương, nên thiết tưởng không nên quá quan trọng hóa những chi tiết nó nói đến. Nó có thể dùng một danh từ lịch sử nào đó làm gia vị cho câu chuyện nó thuật, nhưng danh từ lịch sử đó liền bị hoang đường hóa một cách hết sức tự do bởi những nét sáng tạo. Trong chuyện thần Kim Quy, danh từ lịch sử là An Dương vương, nhưng ngoài tên đó ra, tất cả là tô điểm, là đầu voi đuôi chuột!
Nhận xét như vậy rồi, chúng ta hãy phân biệt rõ hơn về vấn đề An Dương vương. a) An Dương vương, trước tiên, là nhân vật lịch sử, vì cách thuật lại của các sách Giao châu ngoại vực ký và Quảng châu ký không có vẻ gì là tô vẽ, bịa đặt. b) Vì chuyện An Dương vương đã được các sách đó thuật vào trong cùng một loạt với các nhân vật lịch sử như Lạc vương, Triệu Đà.
An Dương vương ở đâu mà đến? Ông là con vua Thục, nhưng Thục này không phải là Ba Thục, mà là tên họ của một vua cai trị lân cận với Lạc vương.
An Dương vương đã có liên lạc gì với Lạc vương? Ông đã đem quân đến đánh Lạc vương. Ba vạn quân? Không chắc gì, nhưng số quân phải khá nhiều. Ông đã thắng Lạc vương rồi thay thế để cai trị Lạc Việt với danh hiệu An Dương vương (trước chỉ là con vua Thục), bỏ Lạc hầu, nhưng duy trì các Lạc tướng.
An Dương vương đã cai trị Lạc Việt bao giờ? Không ai biết được, "Con vua Thục" đã thôn tính Lạc Việt tự bao giờ, nhưng biết rằng ông cai trị đất đó cho đến khi bị Triệu Đà đánh bại.
Một điểm nữa nên bàn đến, đó là quốc hiệu Âu Lạc. Phải chăng An Dương vương đã đặt tên cho nước Lạc Việt là Âu Lạc? Một điều chắc chắn là không hề có một sử liệu nào nói đến việc đó, trừ Lĩnh nam trích quái. Vì vậy, nếu Lĩnh nam trích quái là sáng tỏ của tập truyền quốc hiệu Âu Lạc, và nếu đồng thời, những sử liệu thực sự lại nói khác, thì kết luận là chẳng những phải hoài nghi, mà còn phải loại bỏ tập truyền đó ra khỏi lịch sử. Trích quái nói quốc hiệu của An Dương vương là Âu Lạc, cũng một cách như nói thần Kim Quy cho An Dương vương cái móng thần để làm bùa! Còn Quảng châu ký thì nói "Úy Đà công phá An Dương vương, lập nhị sứ điển chủ Giao Chỉ, Cửu Chân nhị quận, tức Âu Lạc dã". Cứ lối này, Âu Lạc phải là một danh từ địa lý ghép cho các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, trong trường hop hai quận đó có các sứ của Triệu Đà đến cai trị, chứ không phải là một quốc hiệu dưới thời An Dương vương.
2) Triệu Đà với dân Lạc Việt
Sử liệu nói về sự Triệu Đà có liên lạc với dân Lạc Việt, chỉ có hai quyển Giao châu ngoại vực ký và Quảng châu ký như đã trích dẫn trên. Theo đó, Triệu Đà đã đánh thắng An Dương vương và cho sứ đến cai trị Lạc Việt. Thủy kinh chú (12) về sau, khi nói đến các sứ giả Nam Việt vương, đã gọi họ là Thái thú, nhưng thiết tưởng sự xưng hô này không làm giảm giá tính cách lịch sử của sự việc, vì Lệ Đào Nguyên (tác giả Thủy kinh chú) có thể dùng danh từ chỉ chức vụ của một thời sau (thế kỷ VI) để nói về một chức vụ tương đương trong một thời trước. Về sự các sách (Giao châu ngoại vực ký và Quảng châu ký gọi vùng dân Lạc Việt ở là Giao Chỉ và Cửu Chân, cũng có thể giải thích theo lối đó.
Các địa danh Giao Chỉ, Cửu Chân chỉ mới xuất hiện trong thời Hán, thời Triệu Đà chưa có: nhưng khi tác giả các sách kia chép chuyện, các danh từ đó đã được thông dụng rồi, và họ dùng các danh từ đó cho người đồng thời dễ hiểu.
Nơi đây, có một vấn đề xét cần phải bàn đến nữa, đó là nước Âu Lạc ở phía tây Nam Việt: Hỏi Âu Lạc này có phải Lạc Việt, như tác giả Quảng châu ký nghĩ không? Nếu phải, thì chúng ta còn có một chứng nữa về dây liên lạc giữa dân Lạc Việt và Triệu Đà, vì thời Triệu Đà, Sử ký của Tư Mã Thiên có nhắc đến tên đó và chỉ nhắc đến nước đó mà thôi.
Nguyên, Hán đế trách Triệu Đà sao không còn thần phục Trung quốc nữa, mà lại tự xưng là đế. Để tỏ tinh thần hòa giải và kính phục, Nam Việt vương nói sở dĩ mình xưng đế là vì chung quanh mình nhiều vua không ra gì mà cũng đã xưng vương. Lời Triệu Đà:
"Về phía đông, Mân Việt chỉ có nghìn người mà cũng xưng vương, về phía tây, Âu Lạc là một nước dân ở truồng, mà cũng xưng vương. Lão thần trộm xưng đế là để tự tìm chút vui cho mình thôi, chứ đâu có đám để cho Thiên vương nghe."
(Kỳ đông Mân Việt thiên nhân chứng hiệu xưng vương, kỳ tây Âu Lạc khỏa quốc diệc xưng vương. Lão thần vọng thiết đế hiệu liêu dĩ tự ngu, khỉ cảm dĩ văn Thiên vương.) (13)
Đây chúng ta chẳng những có chữ Lạc trong tiếng Âu Lạc để bắt chúng ta liên tưởng đến Lạc Việt, mà còn có một hướng hơi đúng đối với Phiên Ngung, kinh đô Nam Việt, vì Giao Chỉ vẫn tọa lạc về hướng tây nam Nam Việt. Không may, Tiền Hán thư không cho chúng ta nghĩ thế. Thuật lại cùng một việc như đoạn Sử ký nói trên, Ban Cổ chép:
"Phía tây có Tây Âu, dân một nửa ở truồng, cũng quay mặt về Nam mà xưng vương; phía đông có Mân Việt, dân chỉ có mấy nghìn người, cũng xưng vương; phía tây bắc có Trường Sa, dân còn chưa văn minh gì, cũng xưng vương; vì vậy lão phu mới dám xưng đế, là để tự tìm chút vui cho mình."
(Tây hữu Tây Âu, kỳ chúng bán ky, nam diện xưng vương; đông hữu Mân Việt, kỳ chúng sổ thiên nhân, diệt xưng vương; tây bắc hữu Trường Sa, kỳ bán man di, diệc xưng vương; lão phu cổ cảm vọng thiết đế hiệu liêu dĩ tự ngu.) (14)
Giả sử nước Âu Lạc nói trong Sử ký là nước Lạc Việt, thì chữ Lạc phải là chữ quan trọng, và khi Tiền Hán thư lặp lại, chữ đó phải được nói ra. Đàng này, trong Tiền Hán thư, người ta chỉ thấy tên nước là Tây Âu, và chữ Lạc đã rụng mất như một chữ không đáng kể. Đó là lý do bắt chúng ta không được kể Âu Lạc như là Lạc Việt.
3) Lạc Việt với nhà Hán
Thứ người đã chung đụng với dân Lạc Việt rõ hơn và nhiều hơn cả, đó là người Trung quốc. Triệu Đà đã buộc số phận Lạc Việt với Nam Việt, nên khi Nam Việt rơi vào tay nhà Hán, Lạc Việt cũng rơi theo.
Quả thế, một thời, Nam Việt là một nước phản loạn đối với Trung quốc. Nhà Tần đã đặt Triệu Đà làm quan ở Nam Hải, nhưng khi nhà Tần suy yếu, Triệu Đà đã tự tiện đứng dậy, xưng vương. Thời nhà Hán, Nam Việt vương đã nhượng bộ ít nhiều, nhưng vẫn giữ một nước riêng. Triệu Đà mất rồi, nhà Hán tính việc sáp nhập Nam Việt lại với Trung quốc, bèn gửi một tình nhân cũ của Thái hậu, lúc bấy giờ, đến Phiên Ngung, tên là An Quốc Thiếu Quý. Thiếu Quý được Thái hậu ủng hộ. Nhưng Tể tướng Nam Việt là Lữ Gia phản đối. Ông này cất quân, giết Hán sứ, giết Thái hậu, giết Ai vương, rồi đặt Kiến Đức (Vệ Dương vương) lên thay. Trung quốc sai Hàn Thiên Thu sang cứu viện Thiếu Quý, Thiên Thu cũng bị hại. Bấy giờ, Hán đề cử danh tướng Lộ Bác Đức, ban cho chức Phục Ba tướng quân để cùng với Lâu Thuyền tướng quân Dương Bộc và nhiều tướng khác sang đánh Phiên Ngung. Sử ký chép.
"Lâu Thuyền chọn một chỗ tiện lợi để đóng quân ở mặt đông nam, Phục Ba đóng ở mặt tây bắc. Gặp lúc trời tối, Lâu Thuyền thắng người Việt, phóng lửa đốt thành... Phục Ba dựng dinh, sai sứ giả chiêu mộ đầu hàng... Sáng hôm sau, trong thành đều hàng Phục Ba... Ban đêm Lữ Gia và Kiến Đức đã cùng với mấy trăm thuộc hạ bỏ trốn bằng thuyền đi về hướng tây... Hiệu úy Tư Mã Tô bắt được Kiến Đức..., viên Lang người Việt bắt được Lữ Gia... Thế là Nam Việt đã bị dẹp yên bèn lập ra chín quận." (15)
Chín quận đó là Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phổ, Châu Nhai, Đạm Nhĩ, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Trong số các quận đó, ba quận cuối thuộc về đất cổ Việt. Dân Lạc Việt nếu không định cư ở cả ba quận, thì ít ra cũng ở trong quận Giao Chỉ, Cửu Chân.
Nhưng, nhà Hán đã tổ chức quận huyện ngay sau khi thắng Nam Việt, hay là để một thời gian đã mới làm? Theo Trần Hán thư (16) thì việc tổ chức hành chánh đã bắt đầu từ năm Canh Ngọ năm thứ 6 hiệu Nguyễn đỉnh (III trước K.N.). Đứng đầu cả chín quận có một thứ sử, và mỗi quận có một thái thú.
Ở đất Lạc Việt, thái thú và các trưởng lại là người Trung quốc; nhưng tổ chức Lạc tướng vẫn tồn tại. Thủ kinh chú (16) nói hai bà Trưng là con gái của Lạc tướng, mà hai bà Trưng sống gần một thế kỷ rưỡi sau khi nhà Hán tổ chức lại đất Lạc Việt. Chẳng những các Lạc tướng còn tồn tại lâu, mà chừng như dân Lạc Việt cũng được sống tự do đời sống bán khai của họ, không mấy bị gò bó bởi luật pháp và lệ tục Trung quốc cho đến mãi sau cuộc nổi dậy của hai Bà.
II. ANH HÙNG LẠC VIỆT
Hai bà Trưng đã để lại cho hậu thế một gương phụ nữ quật cường hiếm có. Hai bà đã gây thơm danh cho nòi giống Lạc Việt và đã được sử sách Trung quốc nói đến một cách cảm phục. Tên hai bà là Trưng Trắc, chị, Trưng Nhị, em. Về hai bà, Hậu Hán thư chép:
"Ở Giao Chỉ có người đàn bà tên là Trưng Trắc và em gái tên là Trưng Nhị nổi lên làm loạn, đánh phá trong quận. Người man di ở các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phổ đều hưởng ứng, cướp phá hơn 60 thành ở Lĩnh ngoại. Trắc tự xưng vương."
(Hữu giao chỉ nữ tử Trưng Trắc, cập nữ đệ Trưng Nhị phản công đầu kỳ quận. Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phổ man di giải ứng chi, khẩu lược Lĩnh ngoại lục thập dư thành. Trắc tự lập vi Vương.) (18)
Theo sử liệu này, hai bà Trưng đã nổi dậy trong quận Giao Chỉ. Ở các quận khác, người man di đã theo gương hai bà đứng lên chống đánh người Tàu. Cả ở Giao Chỉ, cả ở các nơi, những thành bị đánh phá như thế có đến hơn 60. Các quận khác, không ai xưng vương, chỉ có ở quận Giao Chỉ, Trưng Trắc xưng Vương mà thôi.
1) Nguyên nhân của cuộc khởi nghĩa
Đoạn này không cho biết nguyên nhân của cuộc nổi dậy. Nhưng dựa vào hoàn cảnh chính trị Trung quốc bấy giờ, chúng ta cũng thấy được đó là sự thay đổi trong chính sách nhà Hán. Bấy giờ, nhà Tây Hán mới chấm dứt với loạn Vương Mãng (năm 23) và nhà Đông Hán lên thay. Nhà Tây Hán là một nhà chinh phục, lo việc mở rộng đất đai, hơn là bắt ép dân vào khuôn khổ chặt chẽ. Chính sách của họ vì đó mà có phần rộng rãi, cởi mở. Hơn nữa, những đại diện của họ ở Lạc Việt lại là những người đầy lòng nhân đạo, đã không bóc lột, lại cố gắng giáo hóa nhân dân. Những thái thú như Tích Quang ở Giao Chỉ, Nhâm Diên ở Cửu Chân là những người đã để lại tiếng tốt ở người dân bản xứ.
Nhà Đông Hán vừa trải qua kinh nghiệm của một thời đại loạn nên lo lắng nhiều trong việc củng cố quyền bính. Các nhà chức trách có bổn phận phải bắt dân địa phương giữ luật pháp chu đáo, đến cả các man di cũng vậy. Trong tình trạng đó, Thái thú Tô Định, sang Giao Chỉ 9 năm sau khi nhà Đông Hán lên cầm quyền, đã tỏ ra cứng rắn. Vừa thiếu khôn khéo lại vừa tham lam, Tô Định đã chạm trán với chí khí hùng dũng của hai bà Trưng.
Vào thế kỷ VIII, Thái tử Hiền đã nói rõ nguyên nhân đó khi chú thích đoạn Hậu Hán thư trên. Ông viết:
"Thái thú Giao Chỉ là Tô Định lấy pháp luật trói buộc, nên Trắc tức giận, làm phản." (Giao Chỉ Thái thú Tô Định dĩ pháp thẳng chi, Trắc oán nộ, cố phản.)
Nguyên nhân vừa nói, cũng cắt nghĩa cho chúng ta sự kiện các dân man di mau chóng hưởng ứng cuộc nổi dậy của hai Bà. Trong thời xa xưa như vậy, vận động một cuộc khởi nghĩa trong một vùng rộng lớn gồm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phổ, cần phải mất công mất thì giờ nhiều mà chưa chắc đã thành công. Còn hai bà Trưng, không vận động gì hết mà man di các nơi đều đồng một lòng đứng dậy. Đó chắc chắn phải là do một duyên cớ chung, gây nên bởi một lòng công phẩn chung: chính sách nghiêm nhặt hơn của nhà Đông Hán.
Nhưng tại sao bắt giữ luật pháp - dĩ pháp thẳng chi - lại có thể làm cớ cho những nổi công phẩn mạnh đến thế? Người ta có thể lấy làm lạ nếu xét về những dân văn minh ngày nay, nhưng chắc không có ai ngạc nhiên khi nhận định rằng đây là nói về dân Lạc Việt vào thế kỷ I. Đã quen với thói tự do phóng túng ở chỗ rừng núi, khe động, đã quen với đời sống rất giản dị, rất gần với thiên nhiên, dân Lạc Việt sẽ vùng vẫy trước mọi hình thức gò bó của văn minh, cũng như của luật pháp, huống hồ khi luật pháp lại được đem áp dụng bởi một người tàn nhẫn và người ta thấy họ liều chết để chống lại.
Nhưng ngoài nguyên nhân ép giữ luật pháp đó, tập truyền Việt Nam lại còn thêm vào một số lý do nữa cho cuộc nổi dậy của hai bà Trưng. Từ thế kỷ 13, các sử gia Việt Nam, đã đặt Trưng vương vào hàng các vua thuộc truyền thống quốc sử, và họ cho hai Bà đã vì nợ nước thù chồng mà khởi nghĩa.
Vì nợ nước, họ hiểu ngầm trong việc người Trung quốc đã sang xâm lăng lĩnh thổ Việt Nam, và người Việt Nam phải đánh đuổi đi. Vấn đề này hư thực thế nào, chúng tôi sẽ bàn đến trong chương nói về "Vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam" (19). Ở đây xin xét riêng về tập truyền nói bà Trưng Trắc thù chồng.
Ngô Sĩ Liên đã viết:
"Canh tí (40), năm đầu (năm thứ 16 hiệu Kiến Vũ nhà Hán), mùa xuân, tháng hai, vương đau lòng vì Tô Định lấy chính pháp ràng buộc, lại căm thù vì Định đã giết mất chồng, bèn cùng em gái là Nhị cử binh đánh phá châu trị."
(Canh tí, nguyên niên, Hán Kiến Vũ thập lục niên, xuân, nhị nguyệt, vương khổ Thái thú Tô Định thẳng dĩ chính, cập thù Định chi sát kỳ phu, nài dự kỳ muội Nhị, cử binh công hãm châu trị.) (20)
Bà Trắc thù chồng, vì Tô Định đã giết chồng bà. Chồng bà bị giết bao giờ? Theo đây thì phải bị giết trước khi bà nổi dậy, và ít nhất là trong năm Canh tí (40). Hỏi có thực sự như vậy không? Và chồng bà là ai đã?
Ngô Sĩ Liên sẽ trả lời một cách dễ dàng rằng chồng bà Trưng là "Thi Sách, người huyện Châu-Diên". Rồi chú thêm rằng: "Thi Sách cũng là con Lạc tướng, con trai nhà tướng kết hôn với nhau". Sao mà ông biết được rõ thế? Ngược về trước, chúng ta thấy có sách đã nói thế Việt điện U linh tập chép: "Bà (Trắc) được gả cho Thi Sách, người huyện Châu Diên. Thi Sách là người có sức mạnh, trọng hào khí, tiếng đồn khắp nơi, bị thứ sử Tô Định dùng kế giết đi". (21) Những điều đó học giả Việt Nam, đã học được ở sử sách Trung quốc, nhất là Hậu Hán thư. Chú thích đoạn văn của Phạm Việp đã trích trên, Thái tử Hiền cho biết:
"Trưng Trắc là con gái Lạc tướng huyện Mê Linh được gả làm vợ một người huyện Châu Diên là Thi Sách, bà rất hùng dũng."
(Trưng Trắc giả, Mê Linh huyện Lạc tướng chi nữ dã, giá vi Châu Diên nhân Thi Sách thê, thậm hùng dũng.) (22)
Nên chú ý điều này: mặc dầu lời chú nằm trong bản văn của Hậu Hán thư, - in bằng cỡ chữ nhỏ hơn - nhưng không phải là đồng thời. Phạm Việp chép vào thế kỷ thứ 5, mà Thái tử Hiền chỉ chú vào thế kỷ thứ 8. Một điều cần chú ý nữa, là ở lối chữ của Thái tử Hiền, tính cách hùng dũng ăn về Trưng Trắc; còn ở Việt điện U linh tập, tính cách đó hiển nhiên được đem về chồng bà. Đọc vào câu Hán văn của Lý Tế Xuyên sau đây càng thấy rõ chỗ đó:
"Tị (Trắc) đích Châu Diên huyện nhân Thi Sách, hữu dũng lực, thượng hào khí, thứ sử Tô Định thiết pháp hãm chi." (23)
Bây giờ thử hỏi đọc vào Hậu Hán thư với lời chú như vậy, đã phải là cùng đường tìm kiếm chưa? Chưa, vì căn cứ vào lời văn của Thái tử Hiền, người ta biết được ông đã lấy ở một nguồn khác Thủy kinh chú. Tác giả sách này, vào thế kỷ thứ 6, đã qua vùng Mê Linh, và đã ghi lại những điều nghe thấy. Lệ Đào Nguyên - nói về chồng bà Trắc rằng:
"Con trai của Lạc tướng Châu Diên tên là Thi, đã hỏi con gái Lạc tướng Mê Linh tên là Trưng Trắc làm vợ. Trắc là người can đảm, hùng dũng, cùng Thi nổi dậy làm giặc. Mã Viện đem quân sang đánh, Trắc và Khi chạy vào Cẩm Khê."
(Châu Diên Lạc tướng tử danh Thi, sách Mê Linh Lạc tướng nữ danh Trưng Trắc vi thê. Trắc vi nhân hữu đảm dũng, tương Thi khởi tặc. Mã Viện tương binh thảo, Trắc Thi tẩu nhập Cẩm Khê.) (24)
Theo câu vừa dẫn không sao hiểu được rằng tên của chồng bà Trắc là Thi Sách, mà nhất định tên đó chỉ có thể là Thi. Huệ Đống đã giải thích rõ điểm này rằng:
"Cứu Triệu Nhất Thanh viết Sách thê do ngôn thú thê. Phạm sứ tác: "Giá vi Châu Diên nhân Thi Sách thê" mậu hỉ. Án Thủy kinh chú ngôn: "tưởng Thi", ngôn "Trắc, Thi", minh chỉ danh Thi".
(Xét Triệu Nhất Thanh nói: "sách thê" còn có nghĩa là cưới vợ"; các sử học Phạm chép "Gả làm vợ người Châu Diên là Thi Sách" là sai. Xem Thủy kinh chú thấy nói: "tưởng Thi" rồi nói "Trắc, Thi" chỉ rõ rằng tên ông đó là Thi.) (25)
Những đoạn văn trên đây, làm chứng về tên của chồng bà Trắc, đồng thời cũng cho biết rằng bà Trắc nổi dậy không phải là vì thù chồng. Ngô Sĩ Liên nói bà thù chồng, vì chồng bà bị Tô Định giết, nhưng này sử liệu cho biết rõ là Tô Định không hề giết chồng bà Trắc. Khi bà Trắc nổi dậy rồi và Tô Định đã bị đuổi về rồi, Thi vẫn còn sống cộng tác với vợ trong cuộc sống khởi nghĩa. Mãi đến lúc Mã Viện đem quân sang đánh, ông mới cùng vợ chạy vào Cẩm Khê.
2) Phạm vi hoạt động của hai bà Trưng
Kết quả của cuộc nổi dậy cũng cần phải xác định. Nhiều học giả đã nhận lầm hai bà Trưng đã đánh phá hơn 60 hay là 65 thành. Vậy thử hỏi hai bà Trưng đã hoạt động được bao nhiêu?
Hoạt động của hai bà Trưng thể có xét về phạm vi địa lý và về hiệu lực. Không thể nói được là hai bà Trưng đã đánh phá hết tất cả hơn 60 thành của lĩnh ngoại. Theo Hậu Hán thư, thì hai Bà chỉ "công đầu kỳ quận", nghĩa là đánh phá trong quận của hai Bà, quận Giao Chỉ ấy, mà chưa hề ai nghĩ rằng hơn 60 thành nổi dậy là thuộc về quận Giao Chỉ. Chúng ta phải phân biệt như Phạm Việp là bà Trưng "công đầu" Giao Chỉ, và dân man di "khẩu lược" các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phổ, và nói chung lại ở Lĩnh ngoại, có chừng hơn 60 thành bị đánh phá.
Các cuộc khởi nghĩa bùng lên và tan rã nói rỏ nó không được điều khiển bởi một thủ lĩnh chung. Sở dĩ khắp nơi đều đứng dậy trong một lúc, là vì một nguyên nhân chung như đã nói trên; nhưng tại sao nó thất bại mau chóng như thế? Đó là vì không có lực lượng lớn. Mỗi nơi hoạt động riêng, nên mỗi nơi dễ bị quân đội địa phương của Trung quốc đánh dẹp. Chúng ta nhận được ngay điều này là, Mã Viện chỉ sang bình định Giao Chỉ, còn các nơi như Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phổ đã tan ra trước. Mã Viện có vào Cửu Chân, nhưng đó là vì dư đảng của hai bà Trưng chạy vào. Trong cuộc khởi nghĩa rầm rộ và rộng rãi đó chỉ hai bà Trưng là kéo dài được một thời gian, nên danh tiếng của cuộc khởi nghĩa thuộc về hai Bà.
3) Hai bà Trưng với Mã Viện
Nhưng quyền thế của hai Bà trên dân Lạc Việt không được lâu bền. Vào năm 42, một vị anh hùng Trung quốc, Mã Viện, đã được đề cử đi dẹp các nữ anh hùng Lạc Việt. Mã Viện bấy giờ, không phải chỉ là một tướng lão luyện, mà còn là kẻ mới thắng giặc Lý Quảng ở Hoàn Thành. Sở dĩ Hán đế phải cậy đến một người tài cao như thế, không phải chỉ vì tình trạng ở Giao Chỉ trầm trọng mà thôi, mà cũng là do hoàn cảnh chung. Triều Hán vừa mới bị lung lay dưới thời Vương Mãng, và bấy giờ nhiều nơi vẫn còn chống lại nhà vua. Bởi vậy, đối với loạn Giao Chỉ, vua Quang Võ (25-57) phải chọn một người cầm quân thế nào cho chắc chắn phần thắng.
Khi đã định chọn Mã Viện đi chinh phạt Giao Chỉ, vua Hán tặng cho ông chức Phục Ba tướng quân, một chức như Hán Võ đế (140-87 B.C.) đã tặng Lộ Bác Đức 150 năm trước, khi ông này khởi binh đi đánh Nam Việt. Cùng đi với Mã Viện có Phó tướng Lưu Long, Lâu Thuyền Tướng quân Đoàn Chí. Đoàn Chí không may đến Hợp Phổ bị bệnh chết và Viện phải kiêm gánh cả công việc. Quân dưới quyền ông có đến 20 vạn, đến Hợp Phổ thêm 12.000 tinh binh Giao Chỉ nữa và ông dẫn tất cả dọc theo bờ núi, phát xẻ hơn 1000 dặm đường, để tìm đến đối diện với quân hai vợ chồng Trưng Trắc và cô Trưng Nhị! Hậu Hán thư thuật lại cuộc chạm trán đầu tiên của lực lượng hai bên rằng:
"Năm thứ 18 (hiệu Kiếu Vũ nhà Hán - năm 42), mùa xuân, quân đến vùng Lãng Bạc, đánh phá được giặc, chém giết được mấy nghìn đầu. Những kẻ lần lượt xin hàng, kể được hơn vạn người. Viện đuổi theo bọn Trưng Trắc đến Cẩm Khê, đánh thắng mấy trận, giặc phải tan chạy."
(Thập bát niên, xuân, quân chí Lãng Bạc thượng, dự tặc chiến phá chi, trảm thủ sổ thiên. Cấp hàng giả, vạn dư nhân. Viện truy Trưng Trắc đẵng chí Cẩm Khê, sổ bại chi, tặc toại tán tẩu.) (26)
Thắng ở Giao Chỉ, Mã Viện cố đuổi theo dư đảng của hai bà Trưng là bọn Đô Dương. Ông lùng bắt họ từ Vô Công đến Cư Phong ở quận Cửu Chân, giết được hơn năm nghìn người.
Xong về mặt quân sự, ông quay về việc củng cố quyền bính Trung quốc. Qua huyện nào, ông cũng xây đắp thành quách. Ông tâu Hán để xin chia huyện Tây Vu, vì huyện đó "có ba vạn hai nghìn nhà" và từ nơi cương giới xa nhất đến huyện lỵ có đến hơn nghìn dặm. "Hán đế bằng lòng chia ra làm Phong Khê và Vọng Hải. Ông còn dạy dân đặc cừ, khai mương dẫn nước, làm lợi cho dân. Sau hết, ông đem luật pháp Trung quốc giải thích cho dân Lạc Việt, và họ nghe lời ông.
Những điều vừa nói, các sử gia Việt Nam đã lặp lại của sử sách Trung quốc, hầu như nguyên văn. Dầu vậy, có một chỗ hai đàng không được giống nhau, đó là về cái chết của hai Bà. Hậu Hán thư nói một cách gọn ghẽ rằng: "Tháng giêng, năm sau (năm 42), Viện chém Trưng Trắc, Trưng Nhị, gửi đầu về Lạc Dương".
(Minh niên, chính nguyệt, trảm Trưng Trắc, Trưng Nhị, truyền thủ Lạc Dương.)
Tập truyền Việt Nam không muốn thế. Các học giả nói về hai bà phần nhiều tìm cách tránh sự thật trắng trợn đó, vì nó không ăn nhịp với lòng họ tôn kính hai bà. Đã đem hai bà vào sổ các vua Việt Nam, họ muốn cho cái chết của hai bà phải oanh liệt hơn là chạy trốn vào hang động, bị bắt và bị giết, và đầu phải gửi sang Tàu.
Theo sát Hậu Hán thư, có lẽ chỉ có Lê Tắc và tác giả Việt sử lược. Lê Tắc chép An Nam chí lược khi ông đã bỏ Việt Nam, trốn sang ở bên Trung quốc để nhìn vào lịch sử Việt Nam (hay ông cho là của Việt Nam). Lê Tắc viết: "Năm Kiến Vũ thứ 19, Mã Viện chém yêu tặc là Trưng Nhị và đánh luôn cả dư đảng, bọn Đô Dương. Đến huyện Cư Phong, bọn này đầu hàng". (Thập cửu niên, Mã Viện trảm Trưng Nhị yêu tặc, kích kỳ dư đảng Đô Dương đằng, chí Cư Phong huyện hàng chi.) Việt sử lược nói: "Năm thứ 19, Trắc càng ngày càng kiệt cùng bèn bỏ chạy và bị Viện giết". (Thập cửu niên, Trắc ích khổn, toại tẩu, vi Viện sở sát.)
Đến lượt Lĩnh nam trích quái, câu chuyện bắt đầu khác. Sau khi nói một cách dứt khoát rằng hai bà "thế cô bị hảm chết ở Lãng Bạc", sách đó thêm rằng "Có kẻ nói: Hai bà lên Hy sơn rồi không biết đi đâu". Toàn thư cũng nói với giọng úp mở: "Trưng nữ vương và em là Trưng nhị chống đánh quân Hán, nhưng vì thế cô, cả hai bị hảm chết".
Việt sử tiên án của Ngô Thời Sĩ nói: "Xét quân hai bà Trưng bị thua chạy đến núi Hy sơn, rồi không biết đi đâu. Trong đền thờ hai bà Trưng, những đồ thờ tự tất cả đều sơn đen, tuyệt không có sơn đỏ, dân địa phương không dám mặc áo đỏ, những khi đến yết cáo, ai có mặc áo đỏ đều cởi bỏ đi, không ai dám xúc phạm đến cấm lệ. Tục truyền rằng Trưng vương chết vì việc binh đao, nên kiêng sắc đỏ vì giống như máu". (27) Đầu đoạn này lặp lại luận điệu của Trích quái, nó cũng cho người đọc liên tưởng đến một cảnh chết lưu huyết.
Cương mục cũng không nói rõ gì hơn: "Trưng vương và em gái chống với quân Hán bị binh lính bỏ trốn, lại thế cô, cả hai thất trận chết". (28)
Vì những sách sử trên không đủ can đảm lặp lại hết lời của Hậu Hán thư, và dùng những tiếng không dứt khoát, khi nói đến cái chết hai bà Trưng, nên Đại Nam Quốc sử diễn ca đã không ngần ngại phổ biến trong dân gian những câu như:
Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo,
Chị em thất thế cùng liều với sông! (29)
Và để tô điểm thêm tí nữa cho anh hùng, Tiên đàm Nguyễn Tường Phượng đã viết trong báo Tri Tân (30) trong dịp kỷ niệm hai bà rằng: "Chị em Trưng vương thất thế phải gieo mình xuống cửa sông Hát giang mà tự tận". Thật là quá xa với sự thật.
III. ĐỜI SỐNG CỦA DÂN LẠC VIỆT DƯỚI THỜI HÁN
Về việc đời sống của dân Lạc Việt được tiết lộ bởi các hình vẽ trên những "trống đồng Lạc Việt", chúng tôi đã bàn tới trong những bài "Tiền sử Lạc Việt" (31). Đây chúng tôi xin trình bày một vài sử liệu đề cập đến cùng một vấn đề. Toàn thư có nhắc qua một ít nét trong đoạn sau:
"Năm đó là năm Kỷ sửu, năm thứ năm hiệu Kiến Vũ (29) của vua Quang Vũ nhà Hán (25-57), Tích Quang, người Hán Trung, ở Giao Chỉ, dạy lễ nghĩa cho dân nhà Hán đặt Nhâm Diên làm Thái Thú Cửu Chân. Diên là người đất Uyên. Dân Cửu Chân quen nghề đánh cá, săn bắn, không làm việc cày cấy. Diên bèn dạy dân phở ruộng, hằng năm cày bừa trồng trọt, trăm họ được no đủ... Những kẻ nghèo không tiền làm lễ cưới, thì Diên bắt từ các trưởng lại mà xuống mỗi người phải bớt bổng lộc để giúp đỡ. Cùng một lúc có đến hai nghìn người cưới vợ. Ông làm việc được bốn năm thì phải triệu về. Người Cửu Chân lập đền kính ông, và sinh con ra họ đặt tên là Nhâm. Ở Lĩnh Nam Văn Phong bắt đầu từ hai Thái Thú đó."
(Đương thời Hán Quang Vũ, Kiến Vũ ngũ niên, Kỷ Sửu dã, Tích Quang, Hán Trung nhân, tại Giao Chỉ, giáo dân dĩ lễ nghĩa. Phục Dĩ Nhâm Diên vi Cửu Chân Thái Thú. Diên Uyên nhân dã. Cửu Chân tục dĩ điếu xạ vi nghiệp, bất sự canh chủng. Diên nãi giáo dân khẩn tịch, tuế tuế canh chủng, bách tính sung cấp. Bần dân vô sính lễ giả, Diên lệnh trưởng lại dĩ hạ tỉnh bổng lộc dĩ chẩn trợ chi. Đồng thời thú giả nhị thiên nhân. Thị sứ tứ niên, triệu hồi. Cửu Chân nhân vị chi lập từ. Kỳ sinh tử trứ danh giai viết Nhâm yên. Lĩnh Nam văn phong thĩ nhi thủ yên.) (32)
Đoạn văn vừa kể đã được một số người căn cứ vào để tả đời sống của dân Lạc Việt. Nhưng để cho việc nghiên cứu được vững vàng hơn, chúng ta thử đọc thêm sử liệu đã được dùng làm nguồn cho đoạn văn đó. Hậu Hán thư ở chuyện Nhâm Diên, chép rằng:
"Đầu thời Kiến Vũ (25-55)... Vua hạ chiếu đặt Nhâm Diên làm Thái Thú Cửu Chân... Tục Cửu Chân làm nghề săn bắn chứ không biết dùng bò để cày. (Sách Đông quan Hán ký nói rằng: Tục Cửu Chân là đốt cỏ rồi gieo giống làm ruộng. Sách Tiền (Hán) Thư nói: Thời họ Triệu, Đô Úy Sưu Túc sang dạy người ta dùng bò để cày bừa.) Dân thường phải mua lúa Giao Chỉ mỗi lần bị thiếu thốn. Diên bèn truyền đục các thứ điền khí, dạy cho họ khẩn ruộng, ruộng đất trù mật mỗi năm một rộng thêm; trăm họ được đầy đủ. Dân Lạc Việt lại không có phép cưới hỏi, mọi người, ưa dâm dật, không quen thói sống chung với nhau, nên không biết tình cha con, không biết đạo vợ chồng. Vì vậy, Diên gửi thư đi các huyện thuộc quyền ông, truyền cho mọi người đàn ông từ 20 đến 50 tuổi, đàn bà từ 15 đến 40 tuổi, tất tùy tuổi tác mà cười hỏi nhau. Về phần những kẻ nghèo khó không có sính lễ, thì ông ra lệnh cho các viên chức, từ trưởng lại trở xuống, phải bớt bổng lộc để giúp đỡ. Nhờ đó, cùng một lúc, có đến hơn hai nghìn người cười hỏi. Năm đó, gió mùa thuận tiết, lúa mạ được mùa, con đẻ ra biết họ biết dòng, người nào cũng nói: Tôi mà có được đứa con đó, là nhờ ông Nhâm. Nhiều người lấy tên Nhâm đặt cho con cái...
"Trước kia trong thời Bình để (từ năm 1 đến năm 5) có Tich Quang, người Hán Trung, làm Thái Thú Giao Chỉ, lấy lễ nghĩa dạy cho dân man di ăn ở, tiếng giáo hóa cũng lừng lẫy như ông Diên. Vào cuối thời Vương Mãng (9-23) ông đóng cửa biên cảnh lại để chống giữ. Khi Kiến Vũ mới lên, sai sứ sang cống hiến, được phong làm Giám Thủy Hầu.
"Đất Lĩnh Nam giữ phong tục Trung Hoa, bắt đầu từ hai vị Thái Thú đó. Diên cai trị 4 năm, được gọi về Lạc Dương, vì có bệnh nên được lưu lại, và rồi sai đi làm lệnh ở Thu Dương. Quan dân quận Cửu Chân lập đền thờ ông khi ông còn sống."
(Kiến Vũ Sơ... chiếu trung vi Cửu Chân Thái Thú. Cửu Chân tục dĩ xạ lạp vi nghiệp, bất tri ngưu canh. Đông quan Hán ký viết: Cửu Chân tục thiên thảo chương Tiền thư viết: Sửu Túc Đô Úy Triệu quá giáo nhân ngưu canh dã.) Dân thường cáo dịch Giao Chỉ mỗi trí khổn phạp Diên nãi lệnh chú tác điền khí, giáo chi khẩn tịch, điền trù tuế tuế khai quảng, bách tính sung cấp. Hựu Lạc Việt chi dân vô giá thú lễ pháp. Các nhân dân hiếu, vô thích đối thất, bất thức phụ tử chi tình, phu phụ chi đạo. Diên nãi di thứ thuộc huyện, các sử nam niên nhị thập chí ngũ thập, nữ niên thập ngũ chí tứ thập giai dĩ niên xỉ tương phối. Kỳ bần vô lễ sính, lệnh trưởng lại dĩ hạ, các tỉnh bổng lộc dĩ chẩn trợ chi. Đồng thời tương thú giả nhị thiên dư nhân. Thị tuế phong vũ thuận kiết, cốc giá phong diễn. Kỳ sản tử giả, thĩ tri chủng tính. Hàm viết: Sở ngã hữu thị tử giả, Nhâm quân dã. Đa đánh tử vi Nhâm...)
(Sơ Bình đế thời, Hán trung Tích Quang vi Giao Chỉ thái thú giáo đạo dân di, tiệm dĩ lễ nghĩa, hóa thanh mâu ư Diên. Vương Mãng mạt, bế cảnh cự thủ. Kiến Vũ sơ, khiến sứ cống hiến, phong Giám thủy hầu. Lĩnh nam Hoa phong thỉ ư nhị thú yên.)
(Diên thị sự tứ niên, trưng chỉ Lạc Dương, dĩ bệnh kê lưu, tả chuyển Thu Dương lệnh. Cửu Chân lại nhân sinh vi lập từ.) (33)
Dựa vào những điều nói trong đoạn văn của Hậu Hán thư, chúng ta biết được:
a) Về mặt dân cư, Giao Chỉ và Cửu Chân không giống nhau khi nói về Cửu Chân, tác giả không phân biệt di với hoa gì, có lẽ vì ở đó đại đa số dân là Lạc Việt; còn khi nói đến Giao Chỉ, thì nói rõ là "giáo đạo dân di", có lẽ vì ở đó người Trung Hoa sang định cư đã đông, nên phải phân biệt hai thứ người.
b) Về mặt làm ăn, vào đầu thế kỷ I, Giao Chỉ đã sản xuất nhiều lúa, lúa này không những dư ăn cho người Giao Chỉ mà còn có để bán cho người Cửu Chân. Không rõ ai đã làm ra lúa đó, người Trung Hoa sang khai thác, hay là thổ dân được người Tàu chỉ bảo cho. Một điều chắc, đó là dân Cửu Chân bấy giờ vẫn chưa biết canh tác, chỉ biết lối đốt rẫy và săn bắn. Toàn thư đã nói "điếu xạ", nghĩa là câu cá và săn bắn, đó có lẽ cũng vì luôn miệng mà thêm chữ "điếu" vào chứ không phải là vì khám phá được một sự thật lịch sử mới.
c) Về mặt phong tục, dân Lạc Việt trước thời Tích Quang (ở Giao Chỉ) và Nhâm Diên (ở Cửu Chân) còn là một dân hết sức lạc hậu. Chúng ta có thể nghĩ rằng nhà chép sử Trung quốc có thể nhấn mạnh đôi tí tính cách lạc hậu đó để nâng cao công trạng giáo hóa của các thái thú vừa kể; nhưng cho rằng có việc phóng đại đó đi nữa, tính cách lạc hậu cũng vẫn có và có với một độ rất cao, họ chưa có gì gọi là cương thường luân lý.
Ở đây, một nhận xét cần phải được nêu ra: Công việc của Tích Quang, Nhâm Diên cũng có thể gọi được là "dĩ pháp thẳng chi", sao dân Lạc Việt không vùng vẫy, mà xem ra lại biết ơn những kẻ chủ trương? Xét kỹ, sự bắt buộc do hai thái thú Quang, Diên chủ trương không phải là một bắt buộc có tính cách pháp lý, mà chỉ có tính cách luân lý. Nói cách khác, Quang, Diên dạy cho dân biết cách tổ chức, biết cách sắp đặt cho có nề nếp xứng đáng, những điều dân vẫn làm một cách bừa bãi trước kia. Còn Tô Định sau này đem ép dân giữ luật pháp Trung Hoa mà luật pháp đó họ chưa biết đến, cũng không hề muốn có!
Cũng nên chú ý điều này nữa là những tiết lộ của sử sách về đời sống dân Lạc Việt này đã không có gì mâu thuẩn với những nét các hình vẽ trên trống đồng cho biết, mà lại còn phù hợp nữa là khác.
Dầu vậy, người đọc có thể nhận được rằng đoạn nầy tỏ ra không phù hợp với đoạn văn của Giao Châu ngoại vực ký đã trích trên. Trong đoạn văn đó, có những câu nầy: "Giao Chỉ tích hữu quận huyện thi thời, thổ địa hữu Lạc điền, kỳ điền tòng triều thủy thượng hạ. Dân khẩn thực kỳ điền, nhân các vị Lạc dân". Thế, xem ra dân Lạc Việt đã có một nền nông nghiệp khá phát triển, vì ruộng họ đã có điền, có thổ, và điền thổ đó nằm ở những nơi có nước thủy triều lên xuống, nghĩa là nằm ở miền xuôi. Đàng khác, chừng như họ đã có thể dựa vào nghề nông để sống, vì dân "khẩn thực kỳ điền". Vậy, lẽ nào đến thời Nhâm Diên, họ vẫn còn lạc hậu như Hậu Hán thư cho biết?
Trên kia, chúng tôi cũng đã có nhận xét rằng: "... Tài liệu lại chỉ có một, khiến sử gia không biết dựa vào đâu để so sánh cân nhắc, và giá trị của nó vì đó lại còn nhẹ hơn". Đó là vì chúng tôi chú trọng cách riêng vào vấn đề chính trị, nghĩa là tổ chức vương, hầu, tướng. Nhưng về phần nông nghiệp của dân Lạc Việt, Giao Châu ngoại vực ký, đâu phải là sử liệu độc nhất. Lại chúng tôi cũng đã nói rằng sử liệu "xuất hiện sớm lắm cũng vào thế kỷ thứ tư, tức là lối năm thế kỷ trước biến cố. Một quảng cách như vậy trong thời gian khó mà bảo đảm được hoàn toàn tính cách xác quả của nó". Hơn nữa chính trong những câu vừa dẫn lại đó không phải là không có chỗ đáng hoài nghi.
Thật vậy, nói chung về mặt giá trị lịch sử, Giao Châu ngoại vực ký không sao so sánh được với Hậu Hán thư. Riêng về vấn đề đời sống dân Lạc Việt, chuyện Nhâm Diên chứa đựng một số những nét độc đáo tỏ ra mẫu chuyện không phải đã được thuật một cách khách sáo. Đàng khác, như vừa nói trên, những tiết lộ của Hậu Hán thư ăn khớp với những tiết lộ của các hình vẽ trên trống đồng.
Về phần Giao Châu ngoại vực ký, người đọc rất dễ có cảm tưởng rằng tác giả đã lúng túng với một tiếng mình không hiểu, tiếng Lạc, nên đã giải thích quanh co với những chi tiết nông nghiệp quen biết, như trong xã hội nông nghiệp Trung Hoa. Mục đích của tác giả là làm sao đem tiếng Lạc vào các yếu tố chính của xã hội, như đất ruộng đã làm ăn, như dân cư, rồi như vương, hầu, tướng. Vì thế, nếu không có một tài liệu nào khác chắc chắn hơn, thiết tưởng theo Hầu Hán thư sẽ có nhiều may mắn gần sự thật lịch sử.
IV. DÂN LẠC VIỆT TỪ NHÀ HÁN VỀ SAU
Sau thời Hán, tên Lạc Việt không còn được nói đến nữa: Sử sách không cắt nghĩa rõ hiện tượng nhưng xét chung, không phải là không thể hiểu được. Theo đà tiến triển của việc cai trị nhà Hán và các đời sau, dân Lạc Việt dần dần đã mất tính cách của một dân riêng, một phần do sự đồng hóa rất khó nhọc và rất chậm rãi với văn hóa Trung quốc (sự đồng hóa này không bao giờ thành), phần khác do sự gia tăng càng ngày càng đông hơn của người Tàu đến lập nghiệp ở Giao Chỉ, Cửu Chân, khiến cho thổ dân cuối cùng trở thành thiểu số; phần khác nữa, thổ dân lại có tính đố kỵ với văn minh phương Bắc nên cố tránh những chỗ có người Tàu lập cư để rút vào xa hơn - có lẽ không xa lắm - trong chỗ rừng hoang cây rậm, để sống mãi cuộc đời tự do phóng khoáng của giống người man di. Vì lẽ đó, các nhà viết sử về sau sẽ gọi họ là hạng người Liêu ở miền núi, để phân biệt với hạng người con cháu của dân Trung quốc đến định cư.
Tại sao lại có thể nói dân Liêu là con cháu của người Lạc Việt? Đó là vì dân Liêu, tổ tiên dân Mường ngày nay, đã duy trì được những đặc tính của dân Lạc Việt. Họ vẫn tôn trọng trống đồng; họ vẫn giữ thói thờ vật tổ, không nhiều thì ít.
Về việc thờ trống đồng, Bùi Ân đã chép trong Quảng Châu ký về dân Liêu rằng:
"Lý Liêu chú đồng vi cổ. Cổ duy cao đại vi quý, diện khoát trượng dư. Sơ thành, huyện ư đình. Khắc thần trí tửu, chiêu trí đồng loại. Lại giả dinh môn. Hào phú tử nữ dĩ kim ngân vi dại soa dĩ khấu cổ, khấu cảnh lưu di chủ nhân dã." (35) Lê Tắc về sau đã lấy lại đoạn này với một ít thay đổi nhỏ. ("Liêu tử kích đồng cổ, dĩ cao đại giả vi quý Cổ sơ thành, trí trưởng đình, thiết tửu chiêu đồng loại. Lại giả dinh môn. Hào phú nữ tử dĩ kim ngân soa kích cổ, cánh tức lưu dữ chủ nhân.") (36) Điều đáng chú ý là cùng với việc tôn trọng trống đồng nơi dân Liêu, tác giả của An Nam chí lược còn nói đến những thói quen khác như: "Ở trong hang đá, hầm đất, hoặc ở chuồng, ở ổ, hay uống rượu cần, thích đánh giặc, phần đông biết dùng cung nõ" (giai cư nham khốc, hoặc lỗ sào, ẩm lư tửu, hiếu chiến đích, đa thao nỗ).
Những đặc tính của dân Lạc Việt và dân Liêu như vừa mô tả, xê xích cũng còn là những đặc tính của dân Mường, dân Mọi rõ hơn cả là việc uống rượu cần, việc kính trống đồng, việc trang điểm bằng lông chim (trong lễ mai táng). Như thế, thảo nào, sau khi khảo sát văn hóa Đông sơn, các ông H. Marneff và L. Bezaver đã có thể viết: "Xem đó thì biết, những người xưa ở vùng này, một đàng có tộc thuộc với người Dayak và Baltak, đàng khác họ có tộc thuộc với người Mường. Vậy họ phải được cấu tạo bởi một căn bản Anh-đô-nê".
V. DÂN LẠC VIỆT VỚI DÂN VIỆT NAM
Trong khi trình bày tiền sử và lịch sử Lạc Việt, một vấn đề đã dần dần thành hình, đó là: dân Lạc Việt có phải là dân Việt Nam không? Một câu hỏi như thế đã được giải đáp trong bài "Tiến trình hình thành dân tộc Việt Nam" (Đại học số 32) nhưng đây thiết tưởng phải bàn đến một cách thiết thực hơn.
1) Ý kiến các học giả từ trước đến nay
Có người nói rõ, có người chỉ mặc nhận, nhưng hầu hết các học giả xưa nay đều nghĩ rằng dân Lạc Việt là tổ tiên dân Việt Nam.
Đối với các nhà nho đó là một vấn đề chẳng những không cần bàn cải, mà còn không được phép nêu ra, và ngay việc nêu ra đã là một điều bất kính đối với tiền nhân rồi.
Quả thế, các sử gia chính thống đã kể hai bà Trưng vào số các nhà vua kế truyền quốc thống Việt Nam. Lê Văn Hưu nói: "Trưng Trắc, Trưng Nhị là những người đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng 65 thành ở ngoài Ngũ Lĩnh đều vâng, lập nước, làm vua dễ như trở bàn tay. Đủ rõ hình thế nước ta có thể gây nên cơ nghiệp, Bá Vương". Ngô Sĩ Liên bàn thêm: "Bà Trưng giận sự tàn ngược của viên thái thú nhà Hán, vung cánh hô một tiếng mà quốc thống nước Việt ta đã suýt gây lại được". Và vua Tự Đức đã phê vào Cương mục rằng: "Hai bà Trưng là hạng người mặc váy cài thoa, vậy mà có lòng hùng, làm nên nghĩa lớn, rung động đến cả Hán triều. Dầu là thế yếu, vận non, cũng đã đủ làm cho lòng người hăng hái, soi sáng sử xanh. Kìa đám đàn ông râu mày đành chịu mặt dày, khép áo thờ kẻ khác, há không xấu hổ đến chết được sao!".
Gần đây hơn, khi các sử gia Tây phương nghiên cứu lịch sử Việt Nam, họ cũng không nghĩ đến sự khác nhau có thể có giữa dân Lạc Việt và dân Việt Nam. Henry Maspero, Léonard Aurousseau, đều không ngần ngại lập luận trên tư tưởng cho rằng hai dân tộc là một. Các nhà chép sử Việt Nam của thế kỷ hai mươi kể ra ít khi nghĩ đến vấn đề nguồn gốc dân tộc, và nếu có dịp nhắc đến cũng chỉ lập lại luận điệu cũ. Chẳng những vậy, có người con quả quyết một cách táo bạo rằng người Việt Nam là con cháu của các giống Mê-la-nê và Anh-đô-nê.
2) Dân Lạc Việt khác dân Việt Nam
Nhưng, như đã thấy được trong khi khảo sát nền văn minh Lạc Việt, dân Việt Nam không giống dân Lạc Việt về nhiều phương diện: Không giống về phong tục, không giống về tôn giáo, không giống về nhân chủng.
Về phong tục, dân Lạc Việt thuộc về cùng một loạt với dân thuộc giống Anh-đô-nê, như