← Quay lại trang sách

CHƯƠNG THỨ SÁU VẤN ĐỀ NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT NAM-

Thiết tưởng đó là một vấn đề mọi người dân Việt Nam có quyền và có bổn phận đặt ra cho chính mình, và đó cũng là một vấn đề họ có quyền và có bổn phận phải đặt ra với tư cách là thành phần của một đoàn thể có tổ chức, của quốc gia Việt Nam. Vấn đề riêng và chung đó, chúng ta thử cố gắng tìm một câu giải đáp với tinh thần uống nước nhớ nguồn. Là một vấn đề quan trọng, tất nhiên chúng ta không thể làm một cách tắc trách, dễ dàng bằng lòng với những mẩu chuyện hoang khống giả tạo. Thái độ của một người quyết chí tìm nguồn, không phải là điềm nhiên ngồi trong nhà, để lắng tai nghe bất cứ ai ba hoa nói rằng nguồn ở chỗ này, ở chỗ khác, như "thiên thượng lai" chẳng hạn. Trái lại, phải ra đi, vượt thác trèo gềnh, không quản ngại công lao, gian hiểm.

Để tránh mệt nhọc, có thể có người nói rằng những mẩu chuyển tiên rồng hoang khống rất có thể nâng cao tinh thần, rất có thể làm cho đất nước vẻ vang. Nghe qua dường như có thể vậy, nhưng xét lại tưởng không sao có thể. Là hoang khống, những mẩu chuyện đó không có sức sống, mà không có sức sống là không thể di dưỡng. Người ta không thể ngửi hương nơi một bó hoa giấy, hoặc có thể tráng miệng với một quả cam ni lông.

Trong những trang trước đây, chúng tôi đã dựa vào di tích và sử liệu để trình bày cả một quá khứ của những người đã có cấu tạo một nền văn minh, đã gầy dựng nên một sự nghiệp trên non sông cổ Việt. Những người đó đã sinh sống nơi đây từ lâu, tại nơi đây, họ đã bỏ công khai phá để làm một chỗ ở, để tìm một thức ăn. Họ cũng đã có tổ chức ít nhiều lòng thương yêu đất nước. Có khi họ cũng đã vùng dậy để chống lại áp chế, để bênh vực tự do, như trường hợp của hai chị em bà Trưng chẳng hạn.

Nhưng, cũng đứng trên căn bản di tích và lịch sử, chúng tôi đã nói rằng, dầu những người đi trước đó đã đóng vai trên sân khấu cổ Việt, họ vẫn không phải là người Việt Nam chúng ta, họ cũng không phải là những kẻ đã thành lập nên quốc gia Việt Nam chúng ta. Họ có nền văn minh, nhưng nền văn minh đó là nền văn minh của họ, nó không giống nền văn minh Việt Nam. Họ đã gầy dựng một sự nghiệp nhưng sự nghiệp đó chỉ nằm trong khuôn khổ bộ lạc, thô lậu, hẹp hòi. Họ đã tranh đấu chống áp chế để bảo vệ tự do, nhưng tự do họ bảo vệ còn là một thứ tự do nằm ngoài khuôn khổ văn minh, nó hoang dã, nó cổ lỗ. Đối với người Việt Nam, tất những gì họ đã làm chỉ có thể tóm tắt lại trong điều này là họ đã sống trước người Việt Nam trên cùng một non sông sau này sẽ trở thành đất nước Việt Nam.

Vậy nếu người Việt Nam không phải do những người trước đó mà đến, thì hỏi họ đến từ đâu?

Trước khi đề cập đến vấn đề thiết yếu đó, thiết tưởng nên nhắc lại những câu trả lời đã có sẵn. Những câu giải đáp này, chúng tôi xin xếp thành hai loại, loại giải đáp của các sử gia chính thống, và loại giải đáp của các sử gia ngoại quốc.

I. NGUỒN GỐC VIỆT NAM THEO CÁC SỬ GIA CHÍNH THỐNG

Khi dùng tiếng sử gia chính thống, chúng tôi muốn nói đến những người đã viết chính sử như các quan ở các vương triều, những kẻ làm việc trong các sử quán, hay những tác giả theo cùng luận điệu như họ.

Hỏi, theo các sử gia chính thống, dân Việt Nam bắt nguồn từ đâu?

Đọc tác phẩm của họ, như các quyển Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, như Việt sử tiêu án, hay Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, chúng ta không gặp được một câu trả lời trực tiếp. Họ không nói ra trắng trợn, nhưng họ chén sử Việt với một niềm tin tưởng vững chắc là dân Việt Nam giống như ngày nay, đã có từ lâu, và lâu lắm. Từ thời xa xuôi đó dân Việt Nam chẳng những đã sinh sống trên đất cổ Việt, mà cũng đã tổ chức thành một quốc gia riêng biệt, có đầy đủ chủ quyền tối cao, có một cơ cấu khá chặt chẽ. Họ không cho biết dân Việt Nam thuộc về giống người nào, hay tại sao họ đến ở đây. Họ không nói dân Việt Nam có giống dân Trung Hoa hay không, hoặc có phải từ dân Trung Hoa mà đến không. Về các vị vua cai trị dân Việt Nam trong thời cổ đó, họ đã dùng một vài danh từ bắt nguồn từ thời thái cổ của lịch sử Trung quốc, như Thần nông, Viêm đế, hay từ thời khai sử như Hoàng đế, hay trong thời đã có lịch sự rõ rệt, như Triệu Đà. Ý của họ có lẽ muốn nói lên rằng quyền bính của các vua Việt Nam cũng phát tích bởi cùng một gốc như các vua Trung Hoa, mặc dầu không bao giờ họ nói rõ điều đó. Để có thể lĩnh hội tư tưởng họ về nguồn gốc Việt Nam, xét nên chia ra làm hai mục, mục quốc thống, và mục lĩnh thổ.

1) Quốc thống Việt Nam

Theo Ngô Sĩ Liên, thì lịch sử Việt Nam (hay Đại Việt) bắt đầu với "cháu ba đời Viêm đế họ Thần nông là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi", rồi đến Ngũ Lĩnh "lấy Vụ tiên nữ sinh ra Lộc Tục" và Đế Nghi làm vua Trung quốc, còn Lộc Tục làm vua Việt Nam với hiệu là Kinh Dương vương, rồi Lộc Tục "lấy con gái chúa Động Đình là Thần Long sinh ra Lạc Long Quân". Người Việt thường có tập truyền nói họ là "con rồng cháu tiên", gốc tích từ đó. (1)

Thiết tưởng, không cần phải dừng để phê bình tính cách lịch sử của một mẫu chuyện như thế, vì nó hiển nhiên là một mẫu chuyện hoang đường, nhưng xét dụng ý của Ngô Sĩ Liên khi ông đặt nó vào đầu bộ Đại Việt sử toàn thư (hay Toàn thư) thì thấy ông muốn nêu lên rằng ngay từ khi Trung quốc phát sinh, nước Việt Nam cũng đã phát sinh hoặc là hơn thế nữa, nước Việt Nam còn may mắn hơn Trung quốc nhiều, vì Lộc Tục thánh trí, thông minh, đức độ, lại không thèm nhận ngai vàng của Trung quốc mà sung sướng làm vua Việt Nam.

Từ nguồn gốc cao thiêng này, Ngô Sĩ Liêng đã khỉ sự quốc thống Việt Nam. Quốc thống sẽ từ Lạc Long Quân qua các vua gọi là Hùng vương. Và Hùng vương cũng là những nhân vật khác thường. Vua Hùng vương thứ nhất là con tướng của Lạc Long Quân và Âu Cơ, bà này đã sinh ra một bọc trứng, bọc trứng nẩy nở ra một trăm trai, trong số đó năm mươi người theo cha xuống biển vì là rồng, và năm mươi người theo mẹ lên núi vì là tiên. Có đến 18 đời vua Hùng vương như vậy. Theo Ngô Sĩ Liên thì từ khi Kinh Dương vương khỉ sự Hồng Bàng thị cho đến hết đời Hùng vương thứ 18, đếm được tất cả 2.622 năm. Như thế, tính ra quốc thống Việt Nam đã phát khởi từ năm 2.879 trước Kỷ nguyên. Đây nữa, chừng như Ngô Sĩ Liên cũng muốn cho Việt Nam vượt Trung quốc. Thật vậy, sử Trung quốc khi nói về các vua đầu tiên của họ, chỉ nói rõ năm kể từ thời phục hy mà đi, nghĩa là từ năm 2.858, ấy thế mà sử Việt Nam đã có thể nói rõ năm kể từ 2.876! (2)

Chúng ta nhận được rằng Ngô Sĩ Liên là một người yêu nước, mà vì yêu nước như vậy nên ông muốn cho nước ông có một nguồn gốc vững vàng từ nghìn xưa, ăn lấn cả lân bang khổng lồ là Trung quốc. Nhưng có lẽ cũng vì quá yêu nước mà ông dễ dàng chấp nhận cả những điều chướng tai gai mắt, đến nỗi làm ngạc nhiên những người đồng chí hướng với ông. Vua Tự Đức, chẳng hạn, đã không ngần ngại kết án nặng lời tham vọng của ông, và ra lệnh cắt bớt tính cách xa xưa giả tạo của quốc thống Việt Nam. Nhân dịp ban phép chép bộ Cương mục, vua tuyên bố:

"Việc Kinh Dương vương là Lạc Long Quân mà sử cũ đã chép, hoặc có, hoặc không, dầu có đi nữa, không thảo luận đến là hơn, vậy mà sử cũ nhất luật chép bằng chữ lớn, và trong chỗ chép đó lại phần nhiều mò mẫm những chuyện trâu ma thần rắn (ngưu quỷ xà thần), những thuyết hoang đường quái dị, không hợp lẽ thường. Bởi đó theo nguyên tắc "xã quái tồn thường" (bỏ việc quái dị, giữ việc bình thường) của nhà làm sử, hỏi có thể chép như thế được không?

Vậy cho phép bộ Việt sử Thông giám Cương mục nầy được phép bắt đầu từ Hùng vương để nêu quốc thống ta là trước từ đó. (3)

Tự Đức đã đánh dấu một bước tiến trong việc nhận xét nguồn gốc Việt nam, nhưng vua chưa đủ can đảm để xóa bỏ hết những gì quái dị mà Ngô Sĩ Liên đã thêm vào chính sử. Vua nói rất đúng rằng các chuyện Kinh Dương vương, Lạc Long Quân là "trâu ma thần rắn", nhưng hỏi chuyện Hùng vương là gì khác nếu không phải là con cái của "trâu ma thần rắn", của loài đẻ trứng mà ra? Sở dĩ vua và các quan của sử quán không thấy rõ chỗ thiếu chuyên nhất trong lý luận của họ, đó có lẽ là vì chuyện Hùng vương có nói đến một dọc những vua kế truyền nhau lâu dài. Nhưng một mẫu chuyện phóng tác có thể kéo dài lịch đại các vua tưởng tượng ra đến bao nhiêu mà chẳng được.

Vào thế kỷ 13, Lê Văn Hưu không có tham vọng quốc thống không mộng như Ngô Sĩ Liên và Tự Đức, thực tế hơn, ông đã bắt đầu bộ Đại Việt sử ký của ông với Triệu Đà, cho công việc của viên hiệu úy nhà Tần đã đặt nền móng của đất nước chúng ta. Phải chăng ý của Lê Văn Hưu là nói rằng nước Việt Nam đã có cùng một nguồn với Trung quốc, và rồi tách ra khỏi nước đó để lập thành một quốc gia riêng? Để có thể trả lời câu hỏi nầy, tưởng nên đọc lời bàn của ông sau chương Triệu Võ Đế. Ông viết:

"... Triệu Võ Đế mở mang được nước Việt ta mà tự làm Hoàng đế nước mình, để cùng nhà Hán chống chọi. Chép là đế là vì mở đầu ra cơ nghiệp đế Vương ở ta, công ấy kể thật là lớn. Những người làm vua nước Việt về sau nên bắt chước Triệu Võ giữ vững bờ cõi, đặt ra quân quốc, có đường lối giao thiệp với lân bang, dùng chữ nhân để duy trì ngôi cả, thì sẽ bão toàn được đất nước, người Tàu không còn lăm le dòm ngó được nữa. (4)

Phân tích đoạn văn nầy, chúng ta thấy được những điều sau đây:

a) Triệu Võ Đế sáng lập và mở mang nước Việt ta,

b) Thời Triệu đế, nước Việt ta đã độc lập đối với người Tàu,

c) Nước Tàu có kẻ thù dòm ngó nước Việt ta.

Theo đó, chưa có thể có một câu trả lời dứt khoát, nhưng nếu đem lời bàn bổ túc cho những gì Lê Văn Hưu đã thuật về Triệu Võ Đế, chúng ta sẽ lĩnh hội được ý kiến ông một cách đầy đủ. Ở chuyện thuật, thấy phát hiện hai sự kiện nầy:

a) Triệu Đà là quan nhà Tần,

b) Theo kế của Nhâm Ngao, ông nổi dậy lập nước Nam Việt ở quận Nam Hải của nhà Tần,

Vậy, chúng ta có thể nói rằng theo Lê Văn Hưu, gốc tích của nước Việt Nam (Đại Việt) là từ Trung Quốc, vì nước đó được gầy dựng bởi một người Trung Quốc, trên một phần đất Trung Quốc.

Tổng kết các ý kiến của các sử gia chính thống về nguồn gốc dân tộc Việt Nam, chúng ta thấy có ba chủ trương. Ngô Sĩ Liên đã đặt khởi điểm ở chỗ xa nhất, trong địa hạt hoang khống của tưởng tượng. Lê Văn Hưu đã chọn chỗ gần nhất, ở Nam Việt của Triệu Đà, còn vua Tự Đức và sử quán triều Nguyễn thì ở chỗ chiết trung, xa hơn Triệu Đà, mà gần hơn Kinh Dương vương.

Nhưng quốc thống không phải chỉ là khởi điểm, mà chính là chủ quyền của một quốc gia kế truyền đời nầy đến đời khác trường kỳ lịch sử. Các sử gia chính thống đã cho quốc thống của họ qua những triều đại nào? Lần giở Hán thư, chúng ta thấy nó qua từ Hùng Vương An Dương Vương rồi Triệu Đà, rồi Trưng Nữ, rồi Sĩ Vương rồi Tiền Lý Nam Đế, rồi Triệu Việt Vương, rồi Hậu Lý Nam Đế, trước khi đến Tiền Ngô Vương. Một điều đáng chú ý là Mai Thúc Loan cũng xưng đế, vậy mà Ngô Sĩ Liên vẫn gọi ông là giặc, chứ không liệt vào sổ triều đại.

Duyệt lại dọc bài những triều đại vừa kể, sử quán triều Nguyễn chỉ gạc có triều đại Sĩ Vương. Vua Tự Đức phê: "Sĩ Nhiếp chỉ là một thái thú của nhà Hán mà thôi, lại xu thời, khéo tìm cách tự tiện, không có tài mạnh, mưu xa gì cả, đến nổi hai đời đã hỏng, có gì đáng khen. Sử cũ cho rằng Úy Đà cũng không hơn được, thật là nói quá lời". (5) Và Cương Mục lặng lẽ liệt Sĩ Nhiếp vào hàng thái thú Giao Chỉ, như bao nhiêu thái thú khác. Không kể những chuyện hoàn toàn giả tạo như chuyện Triệu Việt Vương, những triều đại khác làm thế nào để có thể nối kết với nhau được? Hỏi nhà Triệu Nam Việt móc làm sao được vào chuyện nổi dậy của hai bà Trưng của Lạc Việt, và hai bà Trưng của Lạc Việt nầy có liên hệ gì với Lý Bí? v.v... Những lần nổi dậy xưng vương xưng đế vừa kể chẳng khác gì như những cô đảo rải rác giữa đại dương không có thống thuộc gì với nhau.

2) Lĩnh thổ Việt Nam?

Quan niệm của các sử gia chính thống thật là mơ hồ khi nói về phạm vi lĩnh thổ họ gán cho quốc gia Việt Nam, trong đầu. Những địa danh họ nói đến là Xích Quỉ, lĩnh thổ của Kinh Dương Vương, là Văn Lang, lĩnh thổ của Hùng Vương, là Nam Việt, lĩnh thổ của Triệu Đà.

Xích Quỉ ở đâu? Toàn thư của Ngô Sĩ Liên không cho biết. Người ta có thể tìm thấy nơi vương hiệu của Lộc Tục: Kinh Dương Vương. Theo vương hiệu nầy, có thể hiểu được rằng Lộc Tục là vua của các châu Kinh và Dương. Kinh và Dương là hai châu trong vùng Cửu Châu nguyên khởi của Trung Quốc. Kinh Thư ở thiên "Vũ Cống" có nói đến phạm vi của hai châu nầy như sau:

a) Về Châu Kinh:

"Châu Kinh ăn từ núi Kinh đến núi Hoành, Sông Giang, sông Hán chảy ra bể uy vệ như quan vào triều. Ba ngành sông Giang đều dẫn nước. Sông Đà, Sông Tiềm, chảy thuận giòng. Đất ở Đầm Vân cày được, đất Đầm Mộng trồng trọt được. Ở đây đất ẩm bùn, thuộc hạng tám, thuế hạng ba.

b) Về Châu Dương:

Giữa sông Hoài và biển có châu Dương. Ở Bành Lễ có hồ, vịt trời hay đậu ở đó. Tam Giang chia nước chảy ra biển. Hồ Chấn bị bao vây tứ phía. Tre mỏng, tre dày đều mọc tại đây. Ở đây cỏ cao và thanh, cây cối rất lớn. Đất thì ẩm và bùn, đất thuộc hạng chín, thuế hạng sáu, hạng bảy. (6)

Theo đó, Lộc Tục đã cai trị ở vùng Dương Tử Giang và Hoài Hà, cả một khu vực bao la không có biên giới nào nhất định, chỉ có sông to núi lớn làm mốc. Dầu vậy, đất Kinh, đất Dương trong Kinh Thư không bao giờ bao hàm những chỗ như núi Tản Viên, sông Nhị Hà, hay dãy Trường Sơn.

Đến Hùng Vương, lãnh thổ lại hơi khác. Nước Văn Lang có những giáp giới do Toàn Thư định, tức là "đông giáp Nam Hải, tây giáp Ba Thục, bắc giáp hồ Động Đình, nam giáp Hồ Tôn, nghĩa là Chiêm Thành". (7) Nói cho đúng giáp giới của Văn Lang không được Toàn Thư chép bằng chữ lớn, mà chỉ chép bằng chữ nhỏ. Hình thức trình bày đó có nghĩa như một lời chú thích. Dầu sao, lời chú thích nầy và những chỗ tương tự khác đều được đoán là của chính Ngô Sĩ Liên, vì không có một dấu tích gì cho biết rằng một người nào khác về sau đã làm việc đó. Theo những đường biên thùy vừa kể, thì Văn Lang thật là một nước to lớn, chẳng những gồm đất cổ Việt mà còn bao hàm cả miền Nam Hoa lên cho đến sông Dương Tử.

Về nước Nam Việt, ai cũng biết là của Triệu Đà thiết lập ở quận Nam Hải vào năm 207 trước Kỷ Nguyên, và rồi thôn nhập các quận Quế Lâm cùng Tượng nữa vào lĩnh thổ đó. Nước Nam Việt, như thế, là trùm cả vùng lưỡng Quảng ngày nay. Hỏi Nam Việt có gồm cả đất cổ Việt nữa không? Như đã thấy trong đoạn lịch sử Lạc Việt, về sau Triệu Đà đã dùng võ lực chinh phục đất cổ Việt.

3) Nhận xét

Chủ trương quốc thống xa xưa của các sử gia chính thống không thể nào đứng vững được. Sự thất thế của quan niệm họ chẳng những phát hiện ở bản tính của những mẫu chuyện hoang đường họ đưa vào làm nền tảng, ví dụ chuyện Hùng Vương mà chúng tôi đã đề cập đến ở chương lịch sử Lạc Việt, mà còn ở lĩnh thổ họ nói là của Việt Nam. Nếu Việt Nam quả thật đã có từ thời những vị vua họ gọi là Kinh Dương Vương, Hùng Vương, thì sao Kinh Dương Vương lại cai trị một nơi, mà Hùng Vương lại cai trị một nơi? Mà nếu Triệu Đà cũng nằm trong quốc thống đó nữa, thì sao họ lại kể Triệu Đà như là một vị anh hùng khai quốc, chứ không phải là một người phục quốc? Hỏi lĩnh thổ Nam Việt không phải nằm trong phạm vi của nước Văn Lang họ tưởng tượng ra sao? Hay là họ bất nhất trong quan niệm của họ?

Và rồi, nếu cho rằng Lý Bí, Ngô Quyền, cũng là những người nối dõi quốc thống của Triệu Đà ở Nam Việt, thì chẳng hóa ra cho vua nước nầy nối dõi quốc thống của vua nước khác sao? Giả sử lấy lẽ rằng Triệu Đà có lần đã chinh phục đất cổ Việt, nên về sau hễ ai làm vua cổ Việt đều nối dõi quốc thống của Triệu Đà, thì rõ ràng là thất lý. Khi Triệu Đà chiếm đất cổ Việt, ông có thể nói đất đó là của ông, "nhưng hỏi người cổ Việt có thể trở ngược lại gọi đất Nam Việt là của mình không? Nếu làm thế thì thật là quá ngây ngô. Việc đó chẳng khác gì trong thời Pháp thuộc, người Việt Nam sang bên Pháp và xưng xe rằng đây là "nước Việt ta vậy". Đã vậy còn có chỗ hớ hênh nầy nữa, là nước Nam Việt bị tiêu diệt những từ năm III trước Kỷ nguyên, mà Lý Bí thì mãi đến năm 541 mới nổi dậy và Ngô Quyền mãi đến năm 939 mới xưng vương. Như thế, thật khó mà nói được họ đã nối dõi quốc thống.