← Quay lại trang sách

Vua Gia Long trước những mắt xanh

Nhà vua nghiện rượu mà rồi chừa hẳn, không thèm nhúng môi vào một giọt nào. - Ngài tự làm kỹ sư đóng lấy chiến thuyền giống như kiểu Tây.

Lịch sử cận đại nước ta, có một thời kỳ thuận tiện cho cuộc duy tân tự cường hơn cả, ấy là thời kỳ Gia Long thống nhất.

Hình như nhiều bà con ta đọc sử, có cảm tưởng như thế; cảm tưởng của người bộ hành giữa đại sa mạc Sahara, còn ngoảnh lại nhìn phía sau lưng biệt mù, tiếc sao ở đấy chẳng mọc lên mấy cây dừa hay là đặt cái máy nước.

Nhưng mà đời ấy có nhiều bề thuận tiện thật.

Trước mắt nhà vua trông thấy: những kỹ sư võ tướng Pháp do đức thầy Bá Lộc mộ sang, như các ông Chaigneau, Vannier, Ollivier, de Forçant v.v... đã vì ta đắp thành, đúc súng, luyện quân, đóng thuyền, nhất nhất theo lối mới; một phần lớn nhờ đấy mà nhà vua thắng được kẻ địch, dựng nên cơ đồ, có phải tài hay sức mạnh của Tây phương hơn mình, thật đã bày tỏ một cách rõ rệt. Nếu nhà vua muốn xây dựng lại tòa lâu đài Việt Nam theo kiểu tân thời ít nhiều, chính là lúc cơ hội khả vi và có đến tám chín phần mười, trông được thành hiệu.

Tình hình quốc tế cũng thuận tiện, vì lúc bấy giờ khắp cả Âu châu đang bận rộn với những cuộc chinh chiến của đại đế Nã Phá Luân, không rảnh rang lo nghĩ đến việc Đông Á.

Vả lại, chính nhà vua thông minh, có nhiều đức tính tốt để làm một bậc nhân chủ duy tân. Phần nhiều người Pháp đã giúp việc ngài hoặc có dịp gần gũi, cùng nhìn nhận như thế.

Chủ ý chúng tôi cốt nghiêng về phía ấy.

* * * * *

Ông cố Lelabrousse, làm chức linh mục ở địa phận Nam phần hồi cuối thế kỷ 18, được biết vua Gia Long một cách thân cận khi ngài còn là Nguyễn vương, vừa khởi binh ở Gia Định được ít lâu. Trước cặp mắt xanh của nhà truyền giáo này, chẳng những vua có tính can đảm cương quyết lạ thường, lại có trí sáng tài khéo, đến nỗi tháo tung một chiếc chiến thuyền Tây dương ra mò xem kiểu cách, rồi tự chế tạo lấy một chiếc mới, không khác tí nào.

Trong một bức thư đề ngày mùng 1 tháng 5 năm 1800, gửi về cho các ông giám đốc trường Tu nghiệp của hội Truyền giáo Ngoại quốc ở Paris, linh mục Lebabrousse tán dương đức tính tài năng vua Gia Long rất nhiều. (Ta nên để ý lúc cố Lelabrousse gửi thư về Tây, vua Gia Long cũng còn ở ngôi Nguyễn vương, nhưng cuộc tranh đoạt thiên hạ với nhà Tây Sơn đã nắm vững được cơ tất thắng. Giữa năm 1800 ấy; ngài thắng trận Thị Nại, rồi thu phục được kinh đô Phú Xuân, đến tháng 5 năm Nhâm Tuất, tức 1802 thì chính vị hoàng đế kỷ nguyên Gia Long).

Trước hết, cố Lelabrousse kể chuyện nhà vua cương quyét chừa rượu ra thế nào:

“Thuở còn trẻ tuổi, ngài có tật nghiện rượu, nhưng đến khi phải cầm đầu các việc chính trị binh cơ, trách nhiệm nhà nước nhất nhất quan hệ ở mình, thì ngài mạnh bạo chừa rượu ngay; chừa một cách quyết liệt, đến nỗi tự hậu không nhấm một giọt nào vào môi nữa.

Chính ngài thường nói:

- Tôi nghĩ ở đời không có thứ gì làm mất phẩm giá người ta nhiều cho bằng cái tật quá chén; không có thứ gì tai hại cho bằng rượu, khiến người ta hư hèn vô lực đủ đường; không có thứ gì tệ cho bằng rượu, sinh ra lắm sự lỗi lầm, lắm cảnh khốn đốn. Một thằng rượu chè say sưa chẳng nên cai quản sai khiến ai bao giờ. Con người ta, đến bản thân còn chẳng tự trị nổi, thì mong trị thiên hạ làm sao được?

Bởi thế, ngài thường xuống chỉ dụ khuyên bảo tất cả quan dân tướng sĩ không được say rượu; ai vi lệnh thì bị trừng phạt rất nghiêm.

Nội một việc ấy, đủ tỏ ra vua Gia Long có đức tính tự cường hiếm hoi. Tuy chừa rượu không phải là một việc trọng đại cho bằng ý chí sửa đổi một nước, nhưng chẳng phải ai muốn cũng làm được, huống chi lại là vua chúa. Ở thời đại quân chủ độc tôn, một người phú quý đến thế, bỗng dưng gác chén đập be, cả quyết chừa rượu, cho tới một giọt cũng không để thấm môi, thiết tưởng ai cùng phải cho là một sự ít thấy trong lịch sử đế vương, và nếu không có chí tự cường đáo để, chắc không làm nổi”.

Đã thế, nhà vua còn có tài trí lạ thường nữa, cứ theo sự biết của ông cố Lelabrousse, cũng trong bức thư vừa kể trên đây:

“Thiên tư nhà vua cũng tốt, không kém gì tâm tính; trí khôn nhanh nhẹn, thâu suốt, dù những việc rắc rối nhất hạng, ngài chỉ trông thoáng là hiểu ngay. Lại có khiếu nhớ lạ lùng, phàm sự gì qua mắt có thể ghi mãi trong trí không quên, cũng như trông thấy điều gì mới lạ đều có thể bắt chước một cách dễ dàng tự nhiên.

Các xưởng đóng chiến thuyền trong xứ và các quân cảng, ngài xếp đặt chỉnh tề, đồ sộ, người ngoại quốc đến xem phải động lòng kính phục, nếu cả Âu châu được trông thấy thì cả Âu châu cũng phải khen ngợi. Một bên bài trí la liệt những súng trường, những thần công, đại bác đủ hạng, những giã pháo, những xe chở súng, những viên đạn lớn nhỏ đủ cỡ v. v... phần nhiều sánh với các kiểu súng đạn tốt nhất ở Tây phương, bắt quá chỉ thua kém vẻ đẹp mà thôi. Một bên thì đỗ chi chít những chiến thuyền không biết cơ man nào mà đếm, to có, nhỏ có, chiếc nào chế tạo trông cũng có vẻ hùng vĩ khá sợ. Tất cả những chiến thuyền binh khi ấy toàn là công trình của ông vua hiếu động và đa tài, đa nghệ.

Sáng ra, mặt trời vừa mọc, ngài từ trong cung đi ra quân cảng trông nom làm việc, cứ đến bữa ăn mới về. Nhiều khi ở lại suốt ngày chỉ bảo các quan, mỗi người coi một sở, làm một việc. Vua tôi ngồi chung một bàn. Không có cảnh tượng nào ngoạn mục cho bằng trông thấy hàng nghìn hàng vạn con người cùng hăng hái làm công việc, ở trước mắt nhà vua. Chính ngài trông nom hết thảy, có lúc thân hành đo từng miếng ván, định cả thước tấc nữa.

Ngài đã chế tạo được những chiến thuyền theo kiểu Âu Tây, mà chỉ dùng rặt tay thợ bản xứ.

Thoạt tiên, ngài mua một chiếc tàu Tây đã cũ đem về tháo tung ra từng mảnh để xem cách thức chế tạo. Thế rồi tự tay ráp lại, y nguyên hình thức cũ, ráp khéo đến nỗi xem chiếc tàu lại có vẻ đẹp hơn lúc trước.

Sự thành công ấy làm cho nhà vua nức lòng phấn chí, nhất định ra tay đóng hẳn một chiếc mới nguyên.

Mà ngài làm được thật tình.

Sau lại đóng thêm hai chiếc nữa.

Cả bốn chiếc tàu này đi tới đâu cũng làm nên oai danh hiển hách cho nhà vua.

Công cuộc chế tạo lại mau chóng không ngờ, chiếc nào cũng đóng không ngoài ba tháng đã hoàn thành; có chiếc lại còn chóng hơn.

Tuy thế, những chiến thuyền ấy đều to tát lực lưỡng; mỗi chiếc có thể chở 300 thủy binh và đặt 26 cỗ súng đại bác; có chiếc đặt tới 36 khẩu.

Ba chiếc do ba vị thủy quan Pháp cai quản, còn chiếc thứ tư thì nhà vua tự cai quản lấy, tức là chiếc mới hạ thủy gần đây.

Các ông ở bên Tây nghe nói ông vua nước Nam có thể chỉ huy được một chiếc tàu chiến đóng theo kiểu Tây tất lấy làm lạ vô cùng; nhưng các ông còn kinh ngạc nhiều hơn nữa nếu như các ông được chứng kiến mọi sự kiến thiết xứ này.

Nhà vua có trí thức quán xuyến cả mọi việc, có tư cách làm được cả mọi việc. Ngài có tài riêng về phần chi tiết. Những điều tôi có thể kể ra đây cho các ông nghe, chỉ gọi là để các ông biết đại cương thế thôi.

Sau hết, nhà vua có tính chăm chỉ hết sức. Ban đêm ngài ít ngủ, đọc sách rất nhiều; việc gì cũng tò mò muốn biết và cần cù hiếu học đáo để. Trong điện ngài ở, có nhiều bộ sách của người Pháp soạn, dạy về các khoa kiến trúc, xây thành, đắp lũy v.v...

Ngài để luôn bên mình, năng mở ra xem những hình vẽ kiểu mẫu rồi cố bắt chước làm theo. Mỗi ngày thấy ngài tấn tới lên mãi. Tóm lại, ông vua này là một bậc nhân quân vĩ đại nhất xứ Đàng Trong nước Nam từ trước đến giờ”.

Trong số những người Pháp được trọng dụng, cai quản chiến thuyền, hai người có danh vọng nhất, là J. B. Chaigneau tức Nguyễn văn Thắng, chúa tàu Long, và Vannier tức Nguyễn văn Chấn chúa tàu Phụng.

Hai ông này cùng ở trong bọn hơn hai chục người Pháp do đức thầy Bá Đa Lộc mộ sang tán trợ Nguyễn vương buổi đầu, có nhiều công lao.

Bởi vậy, khi vua Gia Long lập nên đế nghiệp, hai ông và một vài đồng bối được kể vào bậc công thần khai quốc, làm quan tại triều. Nhà vua cho mỗi người một phủ đệ riêng, 50 tên lính hầu, mỗi tháng cấp bổng lộc khá hậu, khi vào chầu chỉ vái, không phải lạy lục như các bạn đồng liêu bản xứ.

Ông Chaigneau có người con trai đầu lòng tên là Michel Đức, hồi nhỏ thường được theo cha vào trong cung điện triều kiến nhà vua. Sau lớn lên, Michel Đức cùng cha trở về ở luôn bên Pháp, rồi viết sách “Souvenirs de Huế” (xuất bản tại Paris năm 1867), tự thuật mọi sự kiến văn kỷ niệm ở nước Nam, nhất là về đời Gia Long.

Tác giả vẽ hình dung ông vua này cho chúng ta thấy là một người giản dị, hòa nhã, hiểu rõ dân tình, lúc nào cũng vui vẻ tự nhiên, từ lời nói đến cử chỉ cũng thế.

Một hôm, ông Chaigneau vào chầu trong nội, dắt cả cậu con đi theo. Lúc ấy Michel Đức, mới độ bảy tám tuổi, thông minh và thạo tiếng Việt Nam. Trước khi ở nhà đi, y hẳn cha mẹ đã dặn bảo đại khái lễ phép tâu gởi trước mặt Ngài ngự ra thế nào.

Khi đến trước vua Gia Long, cậu đứng vòng tay cung kính và nói rất chững chạc, rõ ràng:

- Cung chúc thiên tử vạn tuế! Vạn vạn tuế!

Tiếng cười của nhà vua vang động cả một góc điện. Không phải cười vì thấy cậu bé tí hon đã tập nghi lễ triều đình, chỉ buồn cười vì nghe hai tiếng “thiên tử”. Ngài vỗ vai cậu và nói:

- Ồ! Cả mi nữa, mi cũng nghĩ ta là con trời! Chắc hẳn không phải ba mi dạy mi điều đó, vì thuở nay ông chẳng hề nói với ta vô nghĩa, vô lý như thế bao giờ... Ta đây con trời à?...

Nhà vua nói và đưa mắt nhìn ông Chaigneau. Hai người cùng cười. Cậu Đức chả hiểu thế nào, cũng bật cười theo. Đoạn, ngài nói tiếp:

- Với những người gọi ta là thiên tử, ta vẫn thường nói ta cũng như ai, do cha mẹ sinh thành, cha là đàn ông, mẹ là đàn bà, cha ta với mẹ ta...

Chỗ này, nhà vua vừa nói vừa ra hiệu, như giảng bài nam nữ sinh lý, mà ngài nói một cách tự nhiên minh bạch quá, đến nỗi về sau Michel Đức viết sách, không dám chép lại y nguyên “thánh chỉ” vì e có độc giả đạo đức cho là sống sượng.

Người con ông Chaigneau được hiểu biết nhiều về tài năng, nhân phẩm vua Gia Long và công việc nước Nam đời ấy, một phần nhờ được mục kích, thân cận, một phần nhờ sự quan sát của cha góp vào.

Thì ra, nhà vua không phải không biết nước Pháp là nước hùng cường văn minh; không phải không biết nước Anh Cát Lợi đang liếc mắt tham vọng ở miền Đông Á, có thể nói tình thế quốc tế và cái cơ mạnh được yếu thua của thiên hạ lúc bấy giờ ra sao, hình như ngài rõ biết cả, chỉ trừ ra nước mình. Michel Đức viết:

- “Vua Gia Long được tôn sùng là bậc người hiền năng nhất nước. Ngài có những tư cách thiết yếu, tới trình độ cao của một nhà cầm quyền cai trị quốc gia. Phàm những kế hoạch đã nghĩ chín chắn thì cương quyết và kiên nhẫn theo đuổi làm cho đến cùng, khiến cho đức thầy Bá Đa Lộc cùng các người Pháp sang giúp việc nước Nam đều nói rằng, ông vua ấy, ví phỏng cho cầm đầu một nước bên Âu châu cũng chẳng thất cách tí nào (ce souverain n’aurait été nullement déplacé à la tête d’une nation européenne).

Trong lúc hoạn nạn, bôn ba, ngài đã biết phán đoán người ta và mọi sự vật rất đúng; vì cho liên lạc thân mật với đức thầy Bá Đa Lộc, cho nên ngài tập nhiễm tư tưởng Pháp.

Việc triều đình Louis XVI tiếp đãi Hoàng tử Cảnh ân cần tử tế, vua Gia Long ghi nhớ mãi không quên. Hồi đó, Pháp đình đã định phát bao nhiêu quân nhu chiến thuyền sang giúp, chiểu theo điều ước 1787, nhưng rồi có những sự biến cố xảy đến bất ngờ, thành ra viện binh hứa hẹn ấy không qua đến nơi; tuy thế mặc lòng, vua Gia Long cũng nhớ ơn chính phủ nước Pháp đã có hảo ý đối với mình. Nói tóm một câu, ngài rất sẵn lòng tốt với nước Pháp; nhìn nhận nước Pháp hùng cường và có độ lượng, nên ngài muốn xử lại cho được vừa lòng, chẳng những vì cớ hai xứ đã kết mối bang giao, lại còn vì cớ ngài lỡ ngại người Anh Cát Lợi.

Nhà vua thường vui miệng nói rằng: Giờ ta là bạn của người Phú Lãng Sa, tất những kẻ xâm lược kia (trỏ vào người Anh) chả dám mưu toan làm sự gì có hại cho ta được”.

Về mặt phong hóa, nhất là tục lệ thờ cúng tổ tiên và những thói mê tín, vua Gia Long thật có kiến thức hợp lý, không chịu tin nhảm hay cố chấp như tất cả người mình đương thời.

Chúng ta mở sách “Sử ký truyền giáo ở Đàng trong nước Nam” (Histoire de la mỉssion en Cochinchine) của ông Launay, quyển thứ 3, trang 320-322, đọc bức thư đức thầy Bá Đa Lộc viết cho ông Letondal ngày 47 Août 1789 thì biết.

Hẳn ai cũng nhớ chuyện lúc Nguyễn vương mới khởi binh ở Gia Định, thường bị Tây Sơn đánh thua luôn, năm 1784, phải nhờ đức thầy Bá Đa Lộc đem Hoàng tử Cảnh và quốc ấn sang Pháp cầu viện. Nhiều nỗi trắc trở giữa đường, khiến cuộc Đông - Tây vãng phản này hết gần sáu năm. Cảm sự chăm nom dạy dỗ, Hoàng tử theo đạo và thờ đức thầy như bậc sư phụ. Giữa năm 1789, thầy trò mới về đến Gia Định là nơi căn cứ của Nguyễn vương lúc bấy giờ...

Quả thật, như mấy chuyện đã kể, vua Gia Long là bậc nhân chủ có tài năng mới, tư tưởng mới là hiểu việc thế giới ít nhiều; sự ấy cố nhiên nhờ ảnh hưởng cảm hóa của ông Bá Đa Lộc và những người Pháp đến giúp ngài một phần rất lớn.

Phải chi nhà vua ta cũng có thông minh và tính cương quyết sửa sang việc nước theo gương Âu - Tây, mà chính ngài đã nhìn biết là hùng cường văn minh, cũng như ngài biết rượu có hại mà cương quyết chừa bỏ vậy, được thế thì hay cho lịch sử ta biết bao!

Đời sáng nghiệp của vua Gia Long có hai giai đoạn trước sau khác nhau, người đọc sử với trí phán đoán tất phải để ý:

Lúc còn phải tranh hành thiên hạ với họ Tây Sơn, ngài cầu viện nước Pháp và nhờ nhân tài Pháp giúp sức, từ chiến thuyền binh pháp cho tới khí giới thành trì, nhất nhất chế tạo tổ chức theo lối mới, kỳ đánh ngã kẻ địch, thu lại nghiệp nhà mới nghe.