Vương Dương Minh đi qua cửa?
Lê Quý Đôn, một nhà bác học đời Lê. Chu Thuận Thủy không lạy. Sĩ phu ta chỉ đến hỏi về tướng số, địa lý.
Vương Dương Minh, nói rõ hơn là tư tưởng học thuyết Vương Dương Minh từ xưa có lúc nào được truyền sang nước ta không?
Vấn đề gai góc ấy, từng có nhiều nhà học vấn Tây Nam bàn đến.
Mỗi nhà ngỏ ý một khác.
Chúng tôi muốn cử ra một vài thuyết cốt yếu lấy lệ.
Ông Phạm Quỳnh bảo không.
Trong luận thuyết Essais franco-annamiles, trang 162, tác giả viết: “Học thuyết Vương Dương Minh (bên Nhật gọi là Oyomei), nhà triết học ở thế kỷ 15, xướng minh cái nghĩa trí hành hợp nhất, có ảnh hưởng đến trí thức Nhật Bản rất sâu, mà ở nước Nam mãi tới gần đây tuyệt nhiên không biết” (L’ecole de Wang- Yang-Ming (en annamite Vương Dương Minh et en Japonais Oyomei), philosophe du XV siècle qui enseignait la théorie de l’identilé de la connais-sance et de l’acte, et qui a exercé une influence si profonde au Japon, étalt complètement linconnue en Annam jusqu’à ces derniers temps).
Cũng trong tập văn ấy, đến trang 279, chúng ta lại thấy tác giả nói thêm: “Tiếc rằng cái học Vương Dương Minh không có ảnh hưởng gì đến nước nhà, ngay ở Tàu cũng thế; đạo Khổng xưa nay chỉ truyền bá theo học thuyết của phái Chu Hi, khéo đào tạo ra hạng người học uyên bác và thi cử làm quan hơn là đào tạo nên những nhà thượng võ và những nhà kỹ thuật”. (Regrettons que Vương Dương Minh n’ait pas eu d’influence chez nous, pas plus qu’en Chine d’ailleurs, et que le confucianisme n’ait été reprèsenté jusqu’ici que par la seule école de Tchou Hi, plus expert à former des énd et des fonctionnaires que des samourai et des artsiles).
Trái lại, ông Đào Đăng Vỹ bảo có, nhưng chỉ có một cách mập mờ. Trong báo: “Cour-rier d’ Hai-phong” ngày 19 Novembre (tháng 11) năm 1938, ông viết:
“Gọi là người đời Minh đảo vong quốc sự qua ở nước Nam, tôi chỉ thấy một người có tiếng tăm là ông Mạc Cửu ở đất Hà Tiên, có điều ông ta chỉ đóng vai tuồng chính trị, quan hệ cho lịch sử khai thác của nhà Nguyễn thì có. Đến như Vương Dương Minh, thì người ta chỉ thấy có đôi chút ảnh hưởng lờ mờ ở ông Lê Quý Đôn, danh nho Triều Lê”. (En Annam, je ne vois jusqu’à présent, comme émigré Ming, que le fameux Mạc Cửu de Hà Tiên qui s’est contenté de jouer simplement un role politique, assez important d’ailleurs dans l’histoire des Nguyễn. De Wang - Yang - Ming, on connait une influence assez vague chez Lê Quý Đôn, notre grand lettré de l’epoque des Lê).
Đến ông cố Henri Bernard, một nhà truyền giáo thuộc về Dòng Tên (Compagnie de Jésus) có tiếng bác học hiện thời đó, nhất là vấn đề lịch sử văn hóa phương Đông, thì cho tư tưởng họ Vương thế nào cũng ảnh hưởng đến tri thức Việt Nam ít nhiều.
Nếu ai đọc quyển Pour la compréhension de l’Indochine et de l’Occident của ông H. Bernard soạn cách bốn năm nay, chắc thấy ông khẩn khoản về câu chuyện ấy ra thế nào.
Cố nhiên, ông không lập thuyết một cách thật là quyết đoán, nhưng cứ bằng theo sách vở đời Lê và tình thế lịch sử đương thời, ông bảo rằng học thuyết Vương Dương Minh có ảnh hưởng đến sĩ phu Việt Nam, không phải là một sự không thể tin được.
Ví dụ xem những sách của ông Lê Quý Đôn một nhà học rộng và trứ thuật nhiều nhất ở đời Hậu Lê, chỉ tỏ ra ông ta đọc “Minh Nho học án” của Hoàng Lê Châu khá nhiều, mà Hoàng Lê Châu chính là một người sùng mộ học thuyết Dương Minh; hơn nữa ông Lê Quý Đôn lại có ý tán thành việc làm của đảng Đông Lâm cuối đời Minh, tức là đảng chủ trương tư tưởng cách mạng.
Họ Lê làm sách “Phủ biên tập lục” và “Vân đài loại ngữ” có chỗ nhắc đến Vương Dương Minh, có chỗ nói về đồng hồ cùng những khí cụ thiên văn của Âu Châu đem qua lúc bấy giờ mà ông được biết. Chỗ khác lại chép cả tên ông cố Lợi Mã Đậu, tức giáo sĩ Mathieu Ricci, sang Tàu vào đời Minh Thần Tôn, dụng công nghiên cứu Nho học rồi chê cái học Chu Tử sai lầm và khuyên nhủ sĩ phu Tàu nên theo Dương Minh cho được tiến hóa.
Có lẽ trước đời Lê Quý Đôn (thế kỷ 18), nước Nam đã từng nghiên cứu triết lý của họ Vương, nhưng rồi bị những cuộc nội chiến lung tung làm cho thất truyền đi cũng nên.
Chính ông Lê Quý Đôn chép rằng: “Vua Lê Thánh Tôn (1460 - 1496), là người hiếu học đáo để, chịu khó thu thập các bản kinh truyện cùng sách vở bách gia chư tử rất nhiều... Đến sau có loạn Trần Cao (1516), kinh thành Thăng Long bị giặc chiếm cứ... bao nhiêu đồ thư và sách vở tản mát tứ tung. Nhà Mạc soán ngôi (1527 - 1591) sai người thu thập và chép lại được ít nhiều, nhưng đến lúc nhà Lê Trung Hưng, lấy lại kinh thành, những sách ấy lại bị hỏa tai thiêu sạch...”.
Ta xem thế thì trong những sách vở đã bị mấy phen binh hỏa tàn phá hồi bấy giờ, biết đâu chẳng có tác phẩm Dương Minh? Nếu bảo người Việt Nam ở cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17, không biết có tư tưởng Dương Minh là gì thì rõ vô lý.
Sau hết, cố Bernard thêm một chứng cứ nữa, là hồi Mãn Thanh vào chiếm Trung Quốc, ông vua nhà Minh sau cùng là Vĩnh Lịch, còn bôn ba quanh quẩn khá lâu ở mấy tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam, tiếp giáp nước ta để mưu đồ khôi phục; mãi đến 1659, nhà Minh mới đổ hẳn. Trong khoảng ấy, có lúc vua Vĩnh Lịch mong mỏi tới viện binh của Nhật Bản và Việt Nam. Bọn sĩ phu nhà Minh, xấu hổ làm tôi Mãn - Thanh, vượt biên giới sang nương thân ở đất nước đồng văn, đồng chủng này cũng nhiều. Lẽ tự nhiên theo chân những khách vong mệnh, có cả tư tưởng học thuật đời Minh; trong số ấy phải có tư tưởng học thuật của họ Vương mà các môn đồ ông đã khắc vào gỗ in thành sách.
Đại khái, theo cố Bernard suy đoán mấy lẽ như thế, thì Vương Dương Minh có sang nước Nam.
Có hay không vấn đề này vẫn còn rộng đường đất cho chúng ta tìm tòi thêm.
Nếu học thuyết Dương Minh không có chỗ đứng trong cõi trí thức Việt Nam hồi xưa, chắc hẳn không phải là mầm giống ấy không có dịp đưa sang; chỉ tại tiền nhân ta cấy thủa đất tư tưởng với lề lối cũ đã quen, lại có phần ăn chắc hơn, thành ra không thích đón rước gieo trồng hột giống nào mới. Lúc bấy giờ đối với tư tưởng họ Vương thế nào, cách mấy thế kỷ sau, đối với khoa học phương Tây cũng thế.
Khác với mấy điều suy đoán của cố Bernard và ngay trong sử sách, chúng tôi thấy có hai lúc Vương học thân hành đến đây, vào tận trong nhà ta, nhưng chủ nhân khinh thường, ngạo mạn, không ưa hay là không biết hoan nghinh để cho quý khách chán ngán đi mất.
Một là lúc Trạm Nhược Thủy sang sứ.
Hai là lúc Chu Thuấn Thủy ở Quảng Nam.
Sách “Lịch triều Hiến chương” của ông Phan Huy Chú, quyển 48, mục Bang giao chép rằng: “Triều vua Tương Dực, nhà Lê, niên hiệu Hồng Thuận thứ năm [1] sai Trạm Nhược Thủy và Phan Huy Tăng đi sứ qua làm lễ phong cho vua ta. Lúc họ về vua Tương Dực tặng vàng bạc, lụa là rất hậu, nhưng bọn Nhược Thủy đều từ chối không nhận món gì. Vua tiễn mỗi người hai bài thơ, họ có họa lại...”.
Nhược Thủy chính là một tín đồ học thuyết Dương Minh. Nói ngay là môn đồ cũng sai sự thực. Kể ra ông đỗ tiến sĩ trước, làm quan trước và cũng nhiều tuổi hơn Dương Minh có thể suýt soát bực tiền bối; vì ông nghiễm nhiên ở chức Đề học, tức là Đốc học một tỉnh, khi Dương Minh còn là một vị quan nhỏ, phạm tội trực ngôn, bị nhà vua đày xuống Quý Châu, làm thầy trạm ở đất Long Trường rừng thiêng nước độc.
Nhưng sau nghe được Dương Minh giảng giải “cái học Lương Tri”, Nhược Thủy bỗng tỉnh ngộ về đạo lý chân truyền của Khổng Mạnh, cho Dương Minh là thánh nhân lại ra đời và tự biết trước nay người ta theo học Chu Tử là sai lầm chính đạo. Từ đó, ông tâm phục Dương Minh và thờ như một bậc thầy, mặc dù Dương Minh đối với ông coi như bạn thân.
Ông tỉnh ngộ và tâm phục đến nỗi không bỏ qua một dịp nào không truyền bá tư tưởng Dương Minh với mọi người chung quanh, mong cho thiên hạ hiểu sự lầm lạc về trước và thánh học lại được sáng tỏ.
Lúc ông phụng mạng đi sứ Việt Nam, ấy là lúc họ Vương đã công nghiệp với triều đình, thành danh về học vấn, đều lên tới ngọn tuyệt cao, nhưng trong triều cũng như trong nước, vô số những kẻ quyền gian đố kỵ, xúm nhau tìm đủ cách làm hại và bảo cái học “Lương tri” là ngụy học.
Trước hôm Nhược Thủy lên đường, họ Vương đặt tiệc và làm thơ tiễn tống. Nếu chúng tôi không phải nhớ sai thì Nhược Thủy họa vần, có câu ngụ ý nhân dịp đi sứ, thế nào cũng đem theo những nghĩa lý thánh hiền mà họ Vương đã phát minh để gieo rắc ở đất Giao Chỉ cũng thờ đạo Khổng xưa nay.
Nghĩa là Trạm Nhược Thủy có hảo ý chở theo Vương học trên xe đi sứ, đem sang làm món quà tinh thần mới mẻ cho sĩ phu Việt Nam.
Nhưng lúc trở về, chẳng nghe Nhược Thủy nhắc nhở gì đến chuyện này. Mà sử sách ta ngoài mấy bài thơ vua Tương Dực xướng họa với sứ Tàu, cũng không thấy có cuộc đàm thoại gì về tư tưởng học vấn.
Hoặc có ít nhiều, nhưng sử sách ta cho là tế toái vô ích mà không chép chăng?
Nhược Thủy có gợi chuyện Vương học với sĩ phu ta, nhưng gặp phải những bức tường gạch “già”, đóng đinh dội búa chăng?
Bốn chục năm sau, đến Chu Chi Du sang nước ta cũng thế.
Chu Chi Du, hiệu Thuấn Thủy, người ở Dư Diêu, tỉnh Chiết Giang, vốn là trưng sĩ cuối đời nhà Minh. Một người tài cao học rộng, không phải thi đỗ hay có chức quan gì, nhà vua nghe tiếng, vời ra hỏi han việc nước, ấy là trưng sĩ.
Lúc trước hình như cũng có chân trong đảng Đông Lâm, nhưng may khỏi bị tai họa. Chu ẩn cư dạy học, chủ lấy “tâm học” của Lục Tượng Sơn, Vương Dương Minh, mong làm phấn khởi tinh thần của sĩ phu đương thời, nhất là cự tuyệt lối học khoa cử từ chương và trọng về công phu thực tiễn. Tiếng tăm đạo học, đức hạnh vang đến triều đình, nhà vua xuống chiếu vời ông ra hỏi quốc gia đại kế, nhưng ông chỉ kịp ra để chứng kiến việc nước đến cơn suy vong, tồi tệ quá rồi, không còn trông mong cứu vãn được nữa. Bên trong thì gian thần lộng quyền, triều cương đổ nát, bên ngoài thì giặc cướp nổi dậy như ong, quân Mãn - Thanh dũng lược tiến vào Trung Quốc không ai cản được.
Năm Bính Tuất (1646) Thuấn Thủy chạy sang nước ta, vì hai mục đích: một là tránh nạn róc tóc để bím, làm tôi Mãn Thanh, hai là có ý muốn vòng đường xứ Bắc ta để ngược lên Vân Nam gặp vua Vĩnh Lịch, mưu đồ công việc đuổi Thanh phục Minh.
Nhưng ông sang đến Hội An (Quảng Nam) rồi lưu luyến ở đây; không thực hành được cái chí đi tìm vua cũ. Lúc ấy, Đàng Trong, Đàng Ngoài nước ta phân biệt và cừu thù nhau, giữ nhau từng miếng, sự giao thông không phải dễ dàng; đến người Nam hà muốn ra Bắc hà lúc ấy cũng khó khăn nguy hiểm không nói đến người Tàu, mà lại là một di dân nhà Minh. Vì bấy giờ, Trung Quốc đã về Mãn - Thanh, vua Lê - chúa Trịnh nhà ta thần phục Thanh triều rồi, lẽ tự nhiên Thuấn Thủy muốn đi qua xứ Bắc để tìm vua Minh, là một sự thật khó trót lọt.
Chần chờ đợi dịp mãi không được, Thuấn Thủy đành làm một tướng vong quốc di thần, ăn nhờ ở đậu thành phố Hội An ta. Trong trí ông đến đây tuyệt vọng cứu quốc, nhưng còn cái hy vọng truyền bá đạo học, thánh hiền ở đất cơ lữ.
Tuy vậy, Thuấn Thủy ở Hội An hơn mười năm, nhưng không mấy ai biết ông lão ấy là một bực danh Nho; trước mắt chúng nhân, ông bất quá như thầy tướng, thầy địa chính tông bên Tàu sang đây kiều ngụ sinh nhai.
Hình như năm Bính Thân (1656), ông có lần về Tàu ít lâu, qua đầu năm sau lại trở sang nước ta.
Lúc ông trở sang lần sau, chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần, 1648 - 1687) muốn dùng ông, nhưng lại vụng cách lễ hiền hạ sĩ, chỉ bách ông làm thơ, làm phú luôn luôn, chẳng hỏi tới học vấn tư tưởng gì khác. Các triều thần lại coi thường nhà đạo học, vì không thấy đỗ cử nhân, tiến sĩ. Những người gọi là sĩ phu, ai hữu tâm việc học, cũng chẳng qua tò mò hỏi văn nghĩa đen từng chữ, theo lối tầm chương trích cú của họ Chu; còn thì chỉ đến quấy nhiễu về những chuyện tướng số địa lý. Người ta làm cho hy vọng truyền bá đạo học của ông cũng tuyệt nốt, ông đâm chán bỏ đi sang Nhật.
Về sau, ông có dịp viết quyển sách, tựa là “An Nam cung dịch ký”, biên chép những việc kiến văn, kinh lịch khi trú ngụ ở nước Nam ta.
Chúng tôi muốn thuật lại một vài đoạn cho độc giả nghe.
Hôm mới trở lại Quảng Nam gặp ngay lúc chúa Nguyễn có lệnh kén chọn lấy người có tài văn học để dùng vào việc giấy tờ ngoại giao; cả người Trung Quốc cũng cho ứng tuyển; Chu Chi Du vào số được tiến cử; ông tự thuật lúc đến trước mặt quan Cai - tàu rồi vô triều kiến chúa Nguyễn, đại lược như sau này:
“Đến gần tháng giêng, năm Đinh Dậu, Chi Du lại sang Giao Chỉ.
Ngày 29 tháng ấy, tiếp được tờ hịch của Quốc Vương kén người biết chữ. Đến mùng 3 tháng sau, có lính tráng đi các phố xá xóm làng, thôi thúc người ta một cách rầm rộ như bắt giặc cướp.
Họ đến tận nhà bắt người ta đi, chẳng nói vì lẽ gì cả. Khi dẫn đến trước mặt sai quan (viên quan vâng lệnh chúa sai coi việc kén người) ai nấy đều nghe quan truyền phải làm một bài thơ, để xét cả chữ viết tốt xấu và học lực thế nào?
Chi Du không chịu làm thơ, chỉ cầm bút viết mấy dòng như vầy:
‘Chu Chi Du, người đất Dư Điêu, Chiết Giang, nhân vì Trung Quốc gãy đổ mối rường, trời nghiêng bóng lặn, không chịu kết bím theo giặc, đem thân tránh nạn qua ở quý quốc, đến nay vừa 12 năm, bỏ cả vợ con và phần mộ ông bà. Quân giặc còn đó chưa diệt, nước nhà mắc nạn không thể trở về, thân này già nua, lòng lo như thiêu, như đốt, dù có làm thơ cũng chẳng hay gì. Lời cung là thực’.
Những người kia thấy thế, cũng từ chối nốt, chẳng ai làm thơ. Họ cũng bắt chước Chu Chi Du viết lời cung, duy có hơi khác.
Ngày mùng 5 đến hạn, thấy các quan tụ họp đông đủ, truyền gọi Chi Du vào trước. Nhưng các quan đến ngồi ngất ngưởng tự nhiên, không thèm cất lời chào hỏi gì cả.
Chu Chi Du tự do leo lên ngôi ghế trên. Bấy giờ, một vị quan sai nói:
- Nay nhà chúa xuống chiếu trưng cầu chư Nho, ông nghị luận thế nào?
Ông ứng thanh đáp:
- Đấng thiên tử mới được dùng chữ “trưng”: đại vương ta đây là một vua chư hầu sao lại gọi là trưng được!
Nhân thấy danh thiếp của ông đưa vào lúc nãy, dưới tính danh có ba chữ ân cống sinh, các quan ta không rõ cống sinh bên Tàu là khoa mục gì, hỏi:
- Thế cống sinh sánh với hạng cử nhân tiến sĩ, ai có khoa mục to hơn?
Chi Du hiểu ý quan ta trọng danh tiến sĩ, chứng cớ là hồi nãy có một ông tiến sĩ đến, thấy ai nấy đều đứng dậy vái chào, có vẻ tôn kính, thì ra chỉ có một hư danh, không kể thực học. Ông bèn thừa cơ chận trước:
- Quý quốc không biết cái nghĩa khoa mục, cho nên mới nghĩ rằng cống sinh là một danh hiệu riêng của cử nhân. Kỳ thật, cống sinh với cử nhân tiến sĩ có chỗ phân biệt không phải giống nhau đâu.
Lúc bấy giờ chúa Nguyễn ngự giá vào Quảng Nam xem xét mọi việc, đóng binh ở Ngoại doanh sa. Các quan bảo những người ứng tuyển đến ngày mùng 8 tề tựu ở đó để ra mắt chúa. Chi Du viết thư cho quan Cai Tàu (quan coi kiều dân ngoại quốc và thuyền buôn ra vào); trong thư thanh minh trước rằng khi mình đến ra mắt chúa, không lạy.
Đến hôm mùng 8, quan Cai Tàu vào tâu với quốc vương rồi dẫn Chi Du đến bệ kiến. Văn võ đại thần tập họp bên trong cửa lớn, bài ban rất nghiêm chỉnh, quân lính cầm binh khí dàn hầu chung quanh có tới vài ngàn người. Chi Du bước vào trước mặt chúa, chỉ vái chào mà không lạy. Quan Cai Tàu lấy đầu gậy viết chữ “bái” lên trên cát, tỏ ý bảo ông lạy đi; nhưng ông cũng cầm gậy viết thêm chữ “bất” lên trên, nghĩa là không lạy. Rồi ông đệ một tấm danh thiếp, trên đề tháng ngày, dưới viết hàng chữ “Khâm phụng sắc thư đặc triều ân cống sinh Chu Chi Du” - chót thêm hai chữ “đốn thủ” nghĩa là cúi đầu.
Lúc ấy văn võ bá quan đều giận tái mặt, cho là Chu Chi Du cậy thế Trung Quốc khinh rẻ nước nhỏ; rồi xúm lại xin Quốc vương giết đi. Nhưng Quốc vương không nghe lại đối đãi tử tế.
Ngày 19, Quốc vương viết thư bảo ông ra làm quan, có câu: ‘Thái Công giúp Chu mà Chu nên nghiệp vương, Trần Bình ở Hán mà Hán được thiên hạ...’. Ông phục thơ, ngỏ ý từ chối, vì trong lòng còn mong sự dựng lại nhà Minh, qua ở nương náu xứ ta, chỉ là tạm thời”.
Ví phỏng chúa Nguyễn có dùng được họ Chu làm quan, cũng chỉ dùng về mặt từ chương, chứ không nghĩ đến sự lợi dụng người hiền để mở mang cho nước nhà về mặt học vấn, đạo đức. Có lẽ họ Chu biết thế, cho nên không chịu ra làm quan với ta. Đã nói sở nguyện của Chu không cứu quốc được thì giảng học.
Tuy hôm trước không chịu làm thơ thử tài, không chịu lạy, không nhận quan chức mặc lòng, Chu đã trúng tuyển là người biết chữ, để chúa Nguyễn nhà ta nhờ cậy mỗi khi cần đến.
Cũng trong sách “An Nam cung dịch”, Chu kể chuyện từ hôm ấy trở đi, thường phải vì Quốc vương viết hộ tờ trát giấy má luôn. Các quan cũng tỏ ý kính trọng, hay đem những chữ sách nào nghi hoặc đến hỏi han và nhờ cắt nghĩa. Ngày mùng 3 tháng 3, Quốc vương sai người đưa tới nhà trọ một miếng giấy viết chữ “xác” để hỏi nghĩa; Chu trả lời là kiên xác, đích xác, bàn bạc xác đáng... Quốc vương liền dùng ngay hai chữ “kiên xác” làm đề mục, bảo Chu làm một bài phú.
Nhiều người lại đến quấy rầy về những chuyện tướng số bói toán, hoặc nài nỉ để hộ một ngôi đất kết phát. Chu trả lời không biết, họ không muốn tin, cho là làm hiểm, giấu nghề. Vì thấy ông lão râu tóc đạo mạo, họ định chắc là một thầy địa lý chính tông, hay một thầy khách cực giỏi nhâm độn.
Nếu những người ấy là hạng vô học thì chẳng trách nhưng khốn phần nhiều lại là bậc sĩ phu trong nước, khiến Chu bực dọc, chán ngán, liền viết ngay tờ cáo bạch dán ngay trước cửa.
“Nhà Nho bên Tàu chúng tôi, cốt yếu có hai: Một hạng gọi là học sĩ, thuộc nhiều những lời nói, việc làm của người xưa, nhưng đức tính và công việc mình làm, hoặc còn nhiều chỗ chưa đến nơi, ấy là những người có trí thông minh thuộc sách vở, học rộng văn hay. Một hạng khác gọi là hiền sĩ, chăm lo sửa mình, giữ nết bên trong mà văn vẻ bên ngoài, hoặc không kể đến, ấy là bậc hiền lương ngay thẳng, hiểu đễ lực hành.
Hai hạng ấy không có mấy ai một mình kiêm nổi. Có người nào kiên được cả hai thì nhân - nghĩa - lễ - trí chứa ở bên trong cung kính văn nhã phát ra bên ngoài, chính là vật lạ của nước nhà, của báu cho vua hiền, chúa thánh vậy.
Hạng ấy, ông vua biết dùng thì được yên ổn vẻ vang, lũ con em biết theo thì được trở nên hiếu để trung tín. Bởi thế, dù cho ăn lộc muôn chung cũng không phải nhiều, ngựa xe mười cỗ cũng không là quá; mặc đến cổn miện cũng không xa hoa, tôn là sư phụ cũng không thất đáng. Vì sao? Vì họ đạo cao, đức lớn, có thể đương nổi mà không có sắc thẹn, giữa khoảng vua tôi, một tâm, một đức, mọi việc sửa sang tốt đẹp, đó là sự thi vi trong lúc đặc chí với đời vậy.
Gặp buổi thiên hạ vô đạo, thì ta tìm nơi ở ẩn, hoặc cày cấy, hoặc nung lò, hoặc câu cá, hoặc làm thợ, bất cứ làm nghề gì cũng được, không bao giờ chịu hạ mình đi theo người để cầu lấy sung sướng, danh vọng.
Gần đây Trung Quốc lâm cảnh tán loạn, trời nghiêng đất lở, quân giặc làm trái lẽ thường, hôi tanh tràn ngập trong nước; kẻ xa này nghĩa không nên chết, muốn ẩn chẳng có chỗ nào, được nghe Khâu Trang Văn Công nói rằng An Nam, Triều Tiên đều là nước biết lễ, cho nên mới trốn tránh đến đây. Thuở xưa, Ba Di và Thái công thường ở Đông Hải, Bắc Hải để đợi thiên hạ không phải là việc mới lạ vậy.
Nay quý quốc không gia ơn cho người ở xa đến thì thôi, cớ sao các ngài sang có, hèn có, lại còn đến nhà trọ tôi, hoặc có ông hỏi việc tướng số, hỏi chuyện không nên hỏi, mà không biết mình là khách thừa?
Ôi! Thầy tướng số có đáng kể gì! Trong số bốn dân, chín nghề, họ là hạng chót, sánh với nho đức nghĩa, chẳng những như là trời cao với đất thẳm, lại còn như đen - trắng, nước - lửa trái nghịch hẳn nhau.
Tôi đã trót đem thân tới đây, quý quốc muốn khinh, muốn nhờn, cũng chẳng làm sao, duy có lấy nghĩa thì không nên thế; e người ta biết, sẽ bảo quý quốc tuyệt nhiên không hiểu cái tôn chỉ đọc sách vậy, huống hồ biết tôn hiền kính sĩ được ư?
Nói ngay thiên văn địa lý, có thật tinh thông cũng chẳng qua là một nghề nhỏ mọn, không phải là đạo Đại học của thánh hiền, cũng không phải khuôn phép để trị quốc gia và bình thiên hạ.
Thế mà quý quốc đọc những truyện Tam Quốc, Phong Thần lại tin là sự thực, ân cần hỏi đến, chẳng khác nào bỏ vàng ngọc mà quý gạch ngói, nhổ lúa tốt mà trồng cỏ gà, hóa ra trái mất cái nghĩa thủ xả lắm vậy.
Vả lại, thiên văn chẳng phải là chuyện thần tử nên hỏi, cũng chẳng phải người khách phương xa này dám nói đến. Từ nay trở đi, xin các ngài đừng nhắc tới nữa.
Ngày đầu tháng tư, Đại Minh di dân
Chu Chi Du bạch”.
Một người có chí truyền giảng đạo học mà gặp phải chỗ thiên hạ không ưa việc tư tưởng cao xa, chỉ coi mình như nhà thuật sĩ tầm thường, rồi xúm lại quấy rầy về những chuyện dị đoan nhảm nhí, thật không còn gì chán bằng.
Thuấn Thủy quyết ý từ giã nước Nam từ đấy.
Ông sang Nhật Bản.
Suốt hai mươi năm ngụ ở phố Hội An, một thương cảng có hai xóm Tàu và Nhật phân biệt nhau, ông không ở trong xóm đồng hương, mà trọ giữa xóm Nhật. Xóm này đương thời không còn đông đảo, phồn thịnh như ba bốn chục năm trước, nhưng cũng có dăm bảy chục nóc nhà cửa hiệu. Nhiều người vì mộ đạo Nho mà biết kính lễ nhà đạo học không gặp thời vận, hay đến nghe ông giảng học, giúp đỡ khi cơ nhỡ và cho chịu tiền trọ hàng năm không đòi.
Chúng ta thấy trong “An Nam dịch ký”, ông có chép việc, hẳn là lúc sắp đi, bán tất cả đồ đạc trong nhà, rồi trả cho Di Tả Vệ Môn 40 lạng 8 tiền và trả 30 lạng cho Quyền Binh Vệ chủ nhà trọ.
Chính họ thấy ông mà thương tài:
- Tiên sinh ở đây không mong gì thực hành được sở chí; cứu quốc đã tuyệt vọng, đến học vấn cũng chẳng có người biết nghe, vậy thì nên đem sở chí đi thực hành ở nơi khác còn hơn.
- Nhưng biết đi đâu? - Chu hỏi
- Mời tiên sinh sang bên Nhật chúng tôi, chắc được sĩ phu hoan nghinh.
- Tôi cũng muốn thế, nhưng chẳng biết có thể đi được không?
- Sao lại không được! Có thuyền buôn sắp sửa chuyến về, chúng tôi thu xếp việc đi cho tiên sinh.
Thế là ngay cuối năm Dậu (1657), Thuấn Thủy bỏ nước ta đi sang Nhật, rồi nhập tịch luôn.
Quả nhiên sĩ phu Nhật kính trọng và tôn thờ làm bực thầy. Xã hội Nhật mười lăm năm trước khi Thuấn Thủy sang đã có Trung Giang Đằng Thụ (Nakae Toju) truyền bá học thuyết Dương Minh rộng rãi, thiết thực, hợp lẽ tiến hóa và đạo võ sĩ nước Nhật khinh sinh - tử trọng danh dự. Đến khi có Thuấn Thủy sang, đạo học càng thịnh thêm; người ta gọi riêng là Chu Thị học phái hay nói tắt là Chu học.
Các nhà truyền giáo thuộc giòng Tên kế tiếp đến Trung Quốc từ cuối thế kỷ 16 sang thế kỷ 17, có tiếng nhất là mấy ông Lợi Mã Đậu (Mathieu Ricci), Thang Nhược Vọng (Schall), Nam Hoài Nhân (Verbiest), Long Hoa (Longobardo), cốt truyền bá văn minh Khoa học Thái Tây, nhưng sợ đạo Nho chống chỏi và quá thủ cựu, cho nên các ông muốn tìm lấy đất dung hợp, làm sao có ích cho cuộc tiến hóa mà không mếch lòng tự cao, tự ái của người ta.
Mấy ông dụng công học chữ Tàu, nghiền ngẫm kinh truyện, xem xét Khổng giáo từ nguồn gốc, trải qua Tống Nho cho đến Vương Dương Minh, nhận thấy học thuyết phái trên nặng nề, thủ cựu, ích kỷ, lại có pha màu Phật Lão, ví dụ bảo người học giả thường tĩnh tọa tư duy, không khác gì nhà sư nhập định; còn tư tưởng phái dưới thì phóng khoáng, vụ thực, chẳng những đúng với tinh thần Khổng giáo lại có tôn chỉ cứu nhân độ thế, tùy thời đổi mới, tức là không nghịch với lẽ tiến hóa.
“Lương Tri” của họ Vương, tức là cái thuyết của Cicéron ở La Mã thuở xưa: “Luật không viết ra chữ, nhưng khảm ở trong tâm” (Loi non écrite, mais inscrite dans le coeur); kẻ tây, người đông, sở kiến cũng thế.
Rồi các ông khuyên nhủ nhà nho nước Tàu nên mạnh bạo từ giã cái học Chu Hi theo thuyết Dương Minh, vừa đúng tôn chỉ nguồn gốc họ Khổng lại có thể biến hóa cải cách.
Có người nói không sai: Nếu như lúc bấy giờ sĩ phu Trung Quốc biết nghe lời khuyên ấy, Trung Quốc đã cải lương tự cường sớm nhất phương đông; chứng cứ là phần nhiều sĩ phu Nhật về học phái Dương Minh đã biết đón rước văn hóa Thái Tây nhiều ít từ cuối thập thất thế kỷ; đến đời Minh trị Duy tân xây dựng lên không thiếu gì tay thợ ở trong học phái ấy ra.
Nhưng sĩ phu Tàu đời Minh nào có chịu nghe cho. Trừ ra một vài người như Từ Quang Khải, Lý Chi Tảo, Cù Thái Tổ, đã có óc mới, dịch sách mới, toan việc sửa đổi xã hội, nhưng họ và công việc họ làm, chẳng qua như hột muối bỏ bể; còn hằng hà sa số người khác vẫn thờ Chu Hi, trở lại công kích học thuyết Dương Minh là ngụy!
Sĩ phu tập nhiễm lối học từ chương khoa cử của Tống nho đã lâu đời, cho là con đường xuất thân có lợi hơn cả, dễ gì chịu bỏ. Lối học ấy, bảo người ta chỉ lo thuộc lòng từng câu từng chữ, chẳng cần biết gì đến quốc gia chính sự, càng khiến kẻ làm vua cầm quyền trông thấy có lợi cho việc cai trị, lại càng khuyến khích thêm. Nhà Minh phổ thông những sách có Chu Tử chú thích, buộc dân phải học, lại đem cả bộ Tính Lý Đại Toàn và sách Đại học chưa lời bàn họ Chu qua cho nước ta.
Vì thế mà cái họ Dương Minh thất truyền và hầu như bị cấm ngay ở quê hương nó, lại vượt bể truyền sang Nhật; cho đến sau bảy chục năm nay, vì Nhật mà Tàu mới biết cái học ấy là hay, là quý, thuở xưa đẻ ra ở đất nước mình.
Sau thế kỷ 15, có một học thuyết họ Chu và họ Vương tranh nhau trí thức nước Tàu, nói rõ hơn, Chu học đã chiếm hữu trí thức ấy lâu đời, Vương học đẻ sau muốn tống đi để tranh lấy chỗ; nhưng Chu học nhiều phe đảng, rốt cuộc vẫn thắng. Khoan nói tư tưởng, chỉ nội khoảng từ chương khoa cử đủ khiến phần đông muốn giữ riết lấy Chu học không buông, vì chính Vương học phản đối từ chương khoa cử thứ nhất.
Nước mình từ xưa rập theo khuôn mẫu Trung Quốc từng ly, từng chút, bất cứ về phương diện gì, hễ Tàu làm thế nào thì ta bắt chước làm thế. Trong khi bên Tàu không hiểu Dương Minh mà bỏ qua, dù mình đây có mấy cơ hội Vương học đưa sang như trên đã nói, cũng chẳng biết lợi dụng để sửa đổi học thuật tư tưởng, nghĩ không nên lấy gì làm lạ.
Huống chi từ thế kỷ 16 trở đi, luôn mấy trăm năm, chiến tranh nội loạn như cơm bữa, vua quan lo việc võ bị, dân chúng chỉ những lưu ly, có ai yên tâm rảnh trí lúc nào hầu nói chuyện học thuật. Học thuật là việc lúc hòa bình. Bởi thế, cứ theo ông Phạm Quỳnh, bảo Vương học không có ảnh hưởng gì đến sĩ phu nước Nam, kể cũng có lý.
Tuy vậy, trí não sĩ phu ta cuối đời Lê không phải không có hai làn sóng phản động dội lên.
Ví dụ, ông Lê Quý Đôn than phiền về lối thi cử ta hủ bại và sĩ tử sau đời Lê Trung Hưng học sai đường lạc nẻo. Năm 1731, ông Bùi Sĩ Tiêm dâng biểu thống thiết nói về sự học đương thời chỉ đua nhau chắp nhặt văn xưa, thuộc lòng sao cũ, miễn sao đỗ được thì thôi. Hai ông Nguyễn Công Hăng và Ngô Thời Sĩ cũng điều trần những tinh tệ người mình học sai lầm và xin sửa đổi lại phép thi cử.
Mấy ý kiến ấy có phải chịu ảnh hưởng Vương học đấy chăng?
Chú thích:
[1] Tương Dực Đế làm vua từ năm 1510 đến 1516. Ngang đời Võ Tôn nhà Minh, Niên hiệu Hồng Thuận thứ 5, Tây lịch 1514.