← Quay lại trang sách

CHƯƠNG VIII NHÀ HỒ (1400 – 1407)-(Một Khúc Quanh Của Lịch Sử Việt Nam)---

Hồ Quý Ly (1400)

- Hồ Hán Thương (1400 – 1407)

Hồ Quý Ly (1400)

Năm sau, tháng hai năm Canh Thìn (Kiếp Tân thứ ba 1400) Thiếu đế Án bị bỏ và giáng xuống làm Bảo Ninh đại vương. Quý Ly không giết vì Án là cháu ngoại. Nhưng trước khi bước lên ngai vàng Quý Ly còn dùng đủ hình thức để che mắt thiên hạ:

a) Thiếu đế tự ý nhường ngôi

b) Triều thần ba lần dâng biểu xin tấn tôn.

Quý Ly lên ngôi lấy hiệu là Thành Nguyên, đổi họ Lê ra họ Hồ, đặt quốc hiệu là Đại Ngu. Cuối năm ấy Quý Ly nhường ngôi cho Hán Thương để lên làm Thượng hoàng như các vua nhà Trần thuở trước.

Tại Chiêm Thành, vua Chiêm là La Khải mới mất, con là Ba Đích Lại lên nối ngôi. Quý Ly cử Đỗ Mãn mang thủy quân, Trần Tùng lĩnh lục quân, binh sĩ tất cả là 15 vạn, nhân dịp này đánh Chiêm.

Hai cánh quân thủy, bộ không tiến đúng nhịp nên không tiếp ứng được cho nhau. Lục quân thiếu lương phải rút lui. Trần Tùng bị đàn hặc về việc này và phải đày làm lính. (theo tài liệu trong Việt NamSử Lược). Về đoạn này ông Chu Thiên trong cuốn “Chính Trị Hồ Quý Ly” viết: “Nguyên năm trước, Hán Thương sai Phạm Nguyên Khôi và Đỗ Mán đánh Chiêm. Chúa Chiêm dâng hai thớt voi để cầu hoãn binh rồi lại đi tâu gian với nhà Minh. Hán Thương phải khiến Phan Hòa Phủ đem hai thớt voi đó sang cống vua Tàu…”

Âm Mưu Trừ Quý Ly Thất Bại Lần Thứ Hai

Thượng Hoàng Thuận Tông bị hạ sát đã xúc động hết sức dư luận sĩ phu và dân chúng trong nước, ngay cả những người trong hàng ngũ của Quý Ly xưa nay đã ủng hộ nhiệt liệt các việc cải cách của Quý Ly.

Một số trung thần của họ Trần hợp nhau âm mưu trừ họ Hồ, đứng đầu là Thái Bảo Trần Nguyên Hãng và thượng tướng Trần Khát Chân, người đã có công giết Chế Bồng Nga trên sông Hoàng Giang. Họ đã dự định khởi sự vào ngày Hội Thề ở Đốn Sơn (thuộc làng Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Vì kinh đô ở đất Thanh, nên việc hội thề cũng phải dời chỗ).

Quý Ly lên lầu nhà Trần Khát Chân để xem đàn thề dùng đủ nghi vệ thiên tử. Thích khách là Phạm Tổ Du và Phạm Ngưu Tất mang kiếm lên theo. Khát Chân trừng mắt, hai người không dám quyết. Quý Ly nhác thấy chột dạ liền đứng ngay dậy đòi các vệ sĩ ủng hộ xuống lầu.

Ngưu Tất hoảng hốt quăng kiếm xuống đất kêu:

- Việc hỏng mất rồi, cả lũ đến chết uổng mạng.

Tức thì có lệnh bắt tất cả 370 người trong đó có nhiều nhân vật quan trọng như: Thái bảo Trần Nguyên Hãng, Trụ Quốc Trần Nhật Đôn, Thượng tướng Vũ Tiết Hầu Trần Khát Chân, Thánh Dực tướng quân Phạm Khả Vĩnh, Thượng Thư Hà Đức Lân, Hành khiển Lương Nguyên Bưu, Bảng nhỡn Lê Hiến Phủ và bọn Phạm Ông Thiên, Phạm Tổ Du, Phạm Ngưu Tất.

Rồi máu chảy xương rơi, việc bắt bớ kéo dài hàng năm chưa hết. Cuộc khủng bố lan tràn ra khắp nơi, đến nỗi dân chúng khi đi ngoài đường gặp người quen biết chỉ lấy mắt chào nhau mà không dám đứng lại nói chuyện. Từ giờ phút này mọi mầm phản động trong nước đều tắt hết. Quý Ly chỉ còn lo đối ngoại mà thôi.

Hồ Hán Thương (1400 – 1407)

Sau việc nhường ngôi cho Hán Thương, việc quan trọng và cấp bách nhất của Quý Ly là giao thiệp với nhà Minh. Quý Ly vốn là người rất sáng suốt nên đã tiên liệu mọi việc nhất là vấn đề Bắc triều là vấn đề mà vị Hoàng đế nào của Việt Nam cũng phải lo lắng đến. Quý Ly cho sứ sang nói với nhà Minh rằng con cháu họ Trần không còn ai nữa, nay xin cho Hán Thương lấy danh nghĩa là cháu ngoại thay thế.

Năm Quý Mùi, tức năm Khai Đại đầu tiên (1403) nhân Minh Thành Tổ lên ngôi, Hán Thương sai sứ sang mừng và xin tấn phong. Thành Tổ cho Dương Bột sang nước Nam điều tra hư thực. Quý Ly cho các quan viên phụ lão làm tờ khai đúng như luận điệu của sứ giả trước đây qua Bắc triều, Thành Tổ không còn cớ gì để từ chối nên phong cho Hán Thương làm An Nam quốc vương.

Năm Nhâm Ngọ (1402) Đỗ Mãn lại được cử đem quân đánh Chiêm Thành. Chiêm vương Ba Địch Lại sai cậu là Bồ Điền sang dân đất Chiêm Động (phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) để cầu bãi binh. Quý Ly đòi thêm đất Cổ Lũy (Quảng Nghĩa) rồi đặt ra lộ Thang Hoa để thi hành chính sách di dân.

Năm sau (Quý Mùi), Đỗ Mãn đem 20 vạn binh sang đánh Chiêm thêm lần nữa để yêu sách những đất Bạt Đạt Gia, Hắc Bạch và Sa Ly Nha về phía nam đất Chiêm Động và Cổ Lũy. Quân Chiêm giữ vững thành Chà Bàn. Quân nhà Hồ cạn lương thực phải rút lui.

Năm sau (Giáp Thân – 1404), sứ Minh sang trách, hỏi vụ Chiêm Thành khiếu nại về việc binh đội của Hồ Quý Ly lấn đất và đòi tiến công năm trước. Cũng năm ấy gia nô của Trần Nguyên Huy đổi tên là Trần Thiêm Bình trốn sang nước Lão Qua rồi qua Vân Nam lên Yên Kinh trá xưng là con vua Nghệ Tông, tố cáo việc cướp ngôi của cha con họ Hồ và xin Minh Triều đem binh qua nước Nam. Thành Tổ phái Ngự sử Lý Kỷ sang dò xét. Quý Ly nghe tin hoảng sợ cho người đuổi theo định bắt sứ bộ giết đi nhưng Lý Kỷ sau khi tìm hiểu được việc gian dối của Quý Ly đã vượt khỏi biên giới.

Tháng hai năm Ất Dậu, Khai Đại thứ ba (1405) theo lời Thổ quan Hoàng Quang Thanh, Lộc Châu ở bên An Nam vốn thuộc đất Tàu (Châu Tư Minh), nhà Minh trước đây đã đòi một lần, Quý Ly không chịu nhưng sau này thấy tình thế sắp trở nên gay cấn, Quý Ly đành cho Hoàng Hối Khanh cắt đất trả cho nhà Minh cốt để êm chuyện. Hối Khanh cắt đất Cổ Lau tất cả 59 thôn nhường lại cho Trung Quốc. Việc này giải quyết xong, Hối Khanh bị trách cứ là đã trả nhiều quá. Quý Ly trong lòng bực tức ngầm sai thổ dân đánh thuộc độc những quan lại Minh cử sang cai trị đất mới ấy.

Năm tháng sau, nhà Minh sai bọn hoạn giả Nguyễn Toán, Nguyễn Đạo, Từ Cá, Ngô Tín là những đầu bếp giỏi xưa kia được vua Nghệ Tông cống vua Thái Tổ nhà Minh về nước dò xét tình thế.

Tháng 9, sứ bộ của nhà Hồ lại đem cống phẩm sang Bắc triều không ngoài mục đích mua chuộc nhà Minh và nghiên cứu thái độ của Minh Thành Tổ. Sứ giải Phạm Canh là Tả tư Lang trung bị Minh giữ lại, chỉ cho Thông phán Lưu Quang Địnhtrở về. Thấy triệu chứng chiến tranh đã xuất hiện, Hán Thương vội triệu tập các quan An phủ sứ các Lộ về Kinh họp bàn để quyết định hòa hay chiến. Hội nghị chưa ngả bề nào, Tả tướng quốc là Hồ Nguyên Trừng (anh Hán Thương) nói:

- Tôi không sợ đánh, chỉ sợ dân không theo thôi!

Lời này trúng ý của Quý Ly, Nguyên Trừng được thưởng cái hộp vàng. Từ khi lên ngôi nhà Hồ đã tổ chức ráo riết việc quốc phòng ngoài việc cải cách võ bị đã được thi hành từ khi Quý Ly tham dự chính quyền. Đông Đô (Thăng Long) là tiền tuyến nên được bố trí rất kỹ càng. Trước hội nghị các quan văn võ cao cấp toàn quốc, Quý Ly hạ lệnh đắp tại Sơn Tây một cái thành lớn, tường cao, hào sâu gọi là thành Đa Bang thuộc xã Cổ Pháp, huyện Tiên Phong. Các đường thủy đạo từ ngoài bể tiến vào cũng có sự phòng ngự. Khúc sông Bạch Hạc thuộc Việt Trì, Hưng Hóa có đóng cọc gỗ để chận thủy quân của nhà Minh. Về phía Nam ngạn sông Nhị Hà có cắm cừ dài hơn 700 dặm. Về mặt bộ, quân đội các vệ chia nhau đóng ở các căn cứ trọng yếu. Dân các lộ Bắc Giang, Tam Đái phải dựng sàn nhà cửa ở những nơi đất hoang trên Nam ngạn sông Cái để có chỗ tản cư cho dân chúng. Những nhà có phẩm tước được lệnh chiêu mộ những kẻ đào vong, lập thành các đội quân dũng hãn đặt dưới quyền điều khiển của các chức Thiên Hộ, Bách Hộ để phụ lực cho đại quân của triều đình.

Cuộc Giao Tranh Giữa Nhà Hồ và Nhà Minh

Minh Thành Tổ cũng như các hoàng đế Trung Hoa các triều trước, rất muốn chiếm nước Nam sau khi đã củng cố được địa vị của vương triều. Cơ hội tốt đã đưa đến: Trần Thiêm Bình trá xưng là con vua Nghệ Tông người duy nhất còn lại của họ Trần và chỉ xin vua Minh xuất năm ngàn quân đi “Điếu phạt” là đủ. Bọn hoạn giả Nguyễn Toán lại tâu rằng nước am rất giàu thịnh và có nhiều sản vật quý, vua Minh lấy làm vừa ý lắm. Việt Nam chinh phục được quyết định ngay.

Tháng tư năm Bính Tuất (1406) vua Minh sai Đốc tướng là Hàn Quan và Hoàng Trung đem 5.000 quân đưa Trần Thiêm Bình về nước. Đến nơi kia đầu giáp giới, quân Minh đóng lại. Hoàng Trung một mình đánh vào cửa Sầm Kênh. Đại tướng Phạm Nguyên Khôi, Chủ Bỉnh Trung của nhà Hồ bị tử trận. Ngay lúc đó, tướng Hồ Vấn đến tiếp chiến. Quân Minh thua và bị hai tướng Hồ Xạ, Trần Đĩnh ngăn mất đường rút lui (Chi Lăng) từ trước. Hoàng Trung bèn sai quan y là Cao Cảnh Chiếu giải Trần Thiêm Bình sang trại quân Hồ nói: “Trước đây Thiêm Bình nói mình là con vua An Nam nên được đưa về nước. Ngay từ lúc vào cõi đến giờ không thấy một ai theo, rõ là có sự gian dối. Nay nộp Thiêm Bình và xin mở đường cho về”.

Hồ Xạ ưng thuận, đem Thiêm Bình về dâng công. Hán Thương thưởng cho mọi người, duy trách Hồ Xạ không bắt lấy Hoàng Trung, còn Thiêm Bình bị đem trảm quyết.

Sau việc này Hán Thương lại cử sứ bộ sang biện bạch với Minh triều rằng Thiêm Bình giả mạo và xin thông cống như cũ. Đoàn sứ bộ này có Trần Cung Túc An phủ sứ Tam Giang làm chánh sứ, Mai Tá phu Thông phán làm Phó sứ bị nhà Minh giữ lại cả.

Bọn Hoàng Trung bỏ về,Thiêm Bình bị giết, vua Minh vẫn quyết đánh, Thành Quốc công Chu Năng được phong làm đại tướng, Tán Thành hầu Trương Phụ, Tây Bình hầu Mộc Thạnh làm tả hữu phó tướng, Phong Thành hầu Lý Bân, Vân dương bá Trần Húc làm tả hữu tham tướng chia quân làm hai đạo xâm nhập vào nước ta.

Quân Minh đến Long Châu thì Chu Năng bị bênh chết, Trương Phụ lên thay đi lối Bằng Tường (Quảng Tây) đánh vào cửa Nam Quan rồi đi theo hướng Tây Bắc chuyển xuống sông Cái. Mộc Thạnh đi đường Vân Nam, đánh cửa Phú Lĩnh (có lẽ là Hà Giang) theo dọc sông Thao mà xuống, hẹn nhau họp ở ngã ba Hạc (Bạch Hạc).

Một thủ đoạn chính trị lợi hại: nhà Minh tiến quân vào nước Nam do những mánh khóe của bọ Việt gian Trần Thiêm Bình, Nguyễn Toán, Bùi Bá Kỳ bày ra nên đã thả xuống sông những tấm ván có viết bài hịch, đại ý nói rằng quân nhà Minh sang dẹp nhà Hồ có ý khôi phục lại dòng dõi nhà Trần và cứu nhân dân khỏi vòng đói khổ. Việc phản tuyên truyền này có kết quả tai hại trông thấy cho nhà Hồ. Quân sĩ của ta xem được bài hịch này nhiều kẻ nản lòng. Bọn Mạc Địch, Mạc Viễn, Mạc Thủy (cháu trạng Mạc Đỉnh Chi ở lộ Hải Dương) và Nguyễn Huân bất bình với nhà Hồ bỏ theo quân Minh được trọng đãi. Nhờ có sự công tác của bọn này, nội tình quân dân nước Nam thời đó bị phanh phui hết thảy ra trước mắt quân xâm lược. Rồi quân Minh nhờ đó mà lượm được nhiều thắng lợi buổi đầu. Căn cứ vào lời Mộc Thạnh bàn với Trương Phụ thì quân Minh bấy giờ chưa vượt qua được sông Nhị Hà vì lòng sông bị cắm cừ và chông chà. Sau đó như lời đã hẹn, hai cánh Bắc quân đều tập hợp cả trước Bạch Hạc rồi ở đó dĩ nhiên họ phải đánh thành Đa Bang là tiền tuyến của quân Hồ và là một căn cứ quan trọng của nhà Hồ để tiếp ứng cho các đồn binh hai bên bờ sông Nhị Hà. Quân Minh, khác với quân Tống, quân Nguyên, hơn hai thế kỷ trước là chỉ tiến vào nội địa nước ta bằng đường bộ do đường Thượng du tràn xuống sông Nhị Hà rồi đánh vào Trung Châu.

Thành Đa Bang Thất Thủ

Thành Đa Bang đáng kể là kiên cố do tường cao và lũy sâu. Quân nhà Hồ ở đây rất đầy đủ và tính rằng quân Minh không vượt qua sông Cái về phía Nam thì phải tìm cách đổ bộ ở phía Tây Bắc sông Nhị Hà. Sự dự đoán này rất đúng. Trương Phụ tiến đến đây liền bàn với các tướng, lợi dụng bãi cát rộng và phẳng đong quân rồi ngay đêm hôm ấy, họ chia quân đánh thành. Trương Phụ cùng Đốc tướng Hoàng Trung đánh mặt Tây Bắc. Mộc Thạnh đem Đốc tướng Trần Duệ (Việt Nam sử lược chép Trần Tuấn) đánh mặt Đông Nam đều dùng thang vân thê ập vào thành mà leo lên. Quân Minh đánh ào ạt vào thành, quân nhà Hồ chịu không nổi lui vào giữ thành. Sáng hôm sau, nhà Hồ đào thành cho voi ra đánh. Quân inh vẽ hình sư tử trùm lên ngựa rồi dùng sung thần cơ bắn xả vào quân Hồ. Voi sợ chạy lùi lại, quân Minh tiến vào thành. Thành vỡ các đồn ải dọc sông cũng vỡ theo. Voi sợ chạy lùi lại, quân Minh tiến vào thành. Thành vỡ các đồn ải dọc sông cũng vỡ theo. Tàn quân của nhà Hồ lui về Hoàng Giang (khúc sông Nhị Hà thuộc huyện Nam Sang, tỉnh Hà Nam). Quân Minh thừa thắng đốt sạch các đồn trại của nhà Hồ và tiến về Thăng Long, (bấy giờ gọi là Đông Đô) lúc này bỏ ngỏ. Quân Minh tha hồ bắt đàn bà, con gái, vơ vét của cải. Sau đó, họ đặt ngay bộ máy cai trị, bổ nhiệm các quan chức, chiêu tập lưu dân.

Trận Mộc Phàm Giang

Cuộc bại trận của nhà Hồ từ Sơn Tây về Thăng Long vào tháng Chạp năm Bính Tuất (1406). Năm sau (Đinh Hợi) tháng ba, Phó tướng Mộc Thạnh đem quân thủy lục tiến xuống Mộc Phàm (con sông này lấy tên làng Mộc Phàm vì chảy qua đó. Mộc Phàm thuộc huyện Phú Xuyên. Sông Mộc Phàm tiếp với Hoàng Giang). Quân Minh hạ trại ở hai bên sông. Hồ Nguyên Trừng đem 300 chiếc thuyền tấn công vào quân Minh, bị quân Minh chia ra làm hai cánh đánh ập lại. Nguyên Trừng không chống nổi rút lui về cửa Muộn Hải (thuộc huyện Giao Thủy, tính Nam Định).

Tại bến Bình Than (huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương), hai bên cũng gặp nhau. Đại tướng nhà Hồ là Hồ Đỗ và Hồ Xạ cũng thua chạy về Muộn Hải hợp với quân của Nguyên Trừng, đào hào đắp lũy tính giữ lâu dài. Quân Minh lại sắp đến. Bọn Hồ Nguyên Trừng chạy về cửa Đại An (thuộc phủ Nghĩa Hưng), ở đấy lại xảy thêm một việc phản bội: bọn Thị trung Trần Quang Chỉ, Trung thư lệnh Trần Sư Hiền cùng với người sở tại là Nguyễn Nhật Kiên âm mưu giết quan Trấn phủ rồi theo quân Minh.

Quân Hồ và quân Minh đánh nhau kịch liệt ngày đêm. Nguyên Trừng cho đón Quý Ly và Hán Thương ở Tây Đô ra Hoàng Giang, định mở một cuộc phản công lớn. Tại Muộn Hải, quân Minh bị ốm đau nhiều nên phải lui về bến Hàm Tử, có ý đợi quân Hồ tiến lên.

Trận Hàm Tử Quan

Lực lượng thủy lục của quân Hồ bấy giờ có tất cả 7 vạn. Họ hư truyền có 21 vạn và đúng như sự dự đoán của các tướng Minh, cuộc phản công của Hồ tại bến Hàm Tử sẽ diễn ra.

Nguyên Trừng cùng Đỗ Mãn chia quân như sau: Hồ Xạ, Trần Đĩnh đem quân đánh vào bờ phía Nam. Đỗ Nhân Giám, Trần Khát Trang đánh vào bờ phía Bắc. Thủy quân có Đỗ Mãn, Hồ vấn phụ trách. Chiến thuyền nối nhau hơn mười dặm kín cả mặt sông.

Minh dùng thế phục binh, nhử quân Hồ vào sâu trong mặt trận mới đem quân thủy bộ xông ra. Quân Minh đánh rất mạnh, quân Hồ thua, phần xin hàng, phần chạy xuông sông bị chết đuối rất nhiều. Được tin quân mình bị phục binh của địch đánh ráo riết, quân của Hồ xạ ở mặt sau không chịu tiến. Hồ Vấn phái người đến trách, bấy giờ Hồ Xạ mới cho quân lên nhưng cũng bại nốt.

Sau trận này, đại quân của nhà Hồ tan rã gần hết. An phủ sứ Bắc Giang là Nguyễn HyChu bị bắt. Hy Chu chửi Trương Phụ và bị giết chết. Còn Quý Ly và Hán Thương cùng một số người chạy ra bể lui về Thanh Hóa.

Quân Minh đuổi theo kịp đến Lội Giang (là một con sông nhỏ ăn vào sông Mã), quân Hồ bấy giờ mất hết tinh thần nên không đánh mà tan. Giữa lúc nguy cấp, tướng Hồ là Ngụy Thức nói:

- Nước mắt rồi, làm vua không nên chết vì tay người, Bệ hạ nên tự đốt đi là hơn!

Quý Ly giận lắm cho chém Ngụy Thức[1] rồi chạy vào Nghệ An. Tháng 5 năm ấy (1407), Quý Ly và Hán Thương đến cửa Kỳ La (nay thuộc huyện Kỳ An, tỉnh Nghệ An). Trương Phụ cử Mộc Thạnh dẫn lục quân, Liễu Thăng lĩnh thủy quân bằng đường bộ đuổi theo.

Ngự đạo được các kỳ lão ra yết kiến và tâu:

- Xứ này tên là Cơ Lê, có núi tên là Thiên Cầm, đó là điềm không lành, xin nhà vua chớ lưu lại ở đây (chữ Cơ Lê là trói họ Lê. Thiên Cầm là trời bắt. Sự thật các kỳ lão đã có ý đọc trệch chữ Kỳ La ra Cơ Lê. Chữ Thiên Cầm chỉ có nghĩa là đàn trời. Tương truyền ngày xưa vua Hùng Vương đi chơi qua đấy nghe tiếng sáo trời bởi gió hút qua các khe núi nên đặt tên núi là Thiên Cầm).

Quý Ly hiểu rõ tên sông núi Thanh Nghệ, biết rằng bọn phụ lão nguyền rủa mình, giận lắm cho chém hết. Ít lâu quân Minh thủy bộ kéo đến nơi bắt được Quý Ly ở núi Thiên Cầm, ngày hôm sau bắt được Hán Thương với con là Nhuế Lỗ ở núi Cao Vọng cũng thuộc về Kỳ Anh. Các đại thần tướng ta như Tả tướng quốc Nguyên Trừng, Hữu tướng quốc Quý Tỳ, em ruột Quý Ly cùng với con là Phán trung đô Vô Cửu, tướng quân Hồ Đỗ, Phạm Lục Tài, Nguyễn Ngan Quang, Đoàn Kích, lần lượt bị sa lưới hết.

Bọn Trần Nhật Chiêu, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Cẩn, Đỗ Mãn đã ra hàng Minh trước đó ít lâu. Ngoài ra, Hàng Khiển hữu tham tri chính sự Ngô Miên cùng vợ là Kiều Biểu giữ chức Trực Thường không chịu nhục đều đâm đầu xuống nước tự ái.

Tháng sau, tướng Minh là Lỗ Lân, Liễu Thăng giải Quý Ly với con là Hán Thương, Nguyên Trừng, Triệt Uông, cháu là Nhuế Lỗ, Phạm, em là Quý Tỳ, con Tỳ là Vô Cửu, tướng quân Hồ Đỗ, Đoàn Kích, Hành Khiển, Nguyễn Ngạn quang, Lê Cảnh Kỳ về Kim Lăng.

Minh Thành Tổ hỏi Quý Ly:

- Giết vua cướp nước có phải là đạo bề tôi không?

Quý Ly không trả lời. Vua Minh bèn giam cả vào ngục chỉ tha có Nguyên Trừng và cháu là Nhuế Lỗ. Sau Quý Ly cũng được phóng thích nhưng phải làm lính tuần ở Quảng Tây. Nguyên Trừng giỏi việc chế tạo võ khí, đem súng tiến vua được làm quan, sau được phong đến Công Bộ Thị Lang và soạn ra sách Nam Ông Mộng Lục còn truyền đến bây giờ.

Cũng khoảng tháng sáu, bình định xong nước Việt, người Minh đặt ba cơ quan hành chánh: Ty Đô chỉ huy sứ, ty Thừa tuyên bố chính sứ và ty Đề hình án sát sứ, thuộc quyền Đô đốc Lã Nghị và Thượng thư Hoàng Phúc. Dân được miễn thuế ba năm.

Nguyên Nhân Thất Bại Của Hồ Quý Ly

Hồ Quý Ly bước chân vào trường chính trị từ năm Tân Hợi (1371), đến năm Đinh Mão (1387), giữ chức Đồng bình chương sự nắm hết quyền chính trong tay. Đến năm Canh Thìn (1400) Quý Ly phế bỏ Thiếu Đế và lên làm vua. Từ cuối năm Bính Tuất qua năm Đinh Hợi, Quý Ly phải đương đầu với quân xâm lăng, sau 9 tháng chiến tranh, họ Hồ thất bại một cách đau đớn, thảm thương.

Vì đâu họ Hồ đã đi tới cái kết quả bi đát đó? Các vua chúa mất ngai vàng, nghiện bá, các nhà chính trị ngã gục trên nẻo đường danh vọng xưa nay không ngoài lý do thất nhân tâm. Ta hiểu câu thất nhân tâm là mất lòng dân và trí thức trong nước là hai thành phần quan hệ của nền tảng quốc gia. Đây là một lẽ chung. Họ Hồ cũng không thoát khỏi công lệ đó trong khi đổ sụp.

Những hành động nào đã làm họ Hồ thất nhân tâm?

1) Họ Hồ đã tiến quá nhanh trên con đường danh vọng, quyền thế lẫy lừng, dẫu không va chạm vào quyền lợi của ai cũng dễ khiến nhiều kẻ ghét ghen, huống chi họ Hồ đã thi hành nhiều việc cách mạng xã hội nghịch với quyền lợi của nhiều giai cấp. Tỉ dụ: hạn chế quyền tư hữu tài sản do việc cải cách điền địa có lợi cho dân nhưng có hại cho quý tộc. Việc cáh mạng hết sức táo bạo này lại kèm thêm việc hạn chế gia đồng đã kìm hãm và giảm hẳn thế lực của đẳng cấp phong kiến khiến họ phải tìm cách chống lại họ Hồ để bảo vệ tương lai của họ.

2) Việc cải cách tăng đạo cũng có tính cách hạn chế ảnh hưởng của một giai cấp rất gần dân chúng. Sự chống trả của giai cấp này không phải là không nguy hiểm, nhất là về mặt tuyên truyền.

3) Việc cải cách tiền tệ, tuy có thuận tiện cho việc mua bán của dân chúng nhưng quá mới nên dân chúng chưa hiểu được lợi ích. Thấy tiền bạc của mình bắt buộc phải đổi lấy tiền giấy, dân chúng sao khỏi được sự hoang mang, hờn giận.

4) Việc giết hạn con cháu nhà Trần, nhất là vua Thuận Thông, con rể của Quý Ly, và việc hạ sát trên 370 vương hầu, tướng lĩnh, đại thần trong vụ âm mưu ngày hội thề ở Đốn Sơn xúc động dân chúng rất mạnh không kể các giai cấp quyền quý đang bị họ Hồ uy hiếp. Ngay từ khi Quý Ly thi hành các việc cải cách, Quý Ly đã bị những cuộc phản tuyên truyền rất dữ dội, việc thẳng tay đàn áp đối phương và lưu huyết sau này lại càng gia tăng hiệu lực cho cuộc phản tuyên truyền của phe đối lập. Nhân dân vào đời Lý, Trần lại đang được hun đúc trong cái lò Phật giáo và Khổng giáo, thấy việc giết vua triệt hạ đại thần không khỏi có sự công phẫn và nghi ngờ. Trước vấn đề này, nhà chính trị đại tài đó đã thiếu xót một cách tai hại một kỹ thuật trọng yếu là vận động nhân dân, lấy nhân dân làm hậu thuẫn. Việc làm càng bạo động càng phải sửa soạn dư luận, họ Hồ quả đã rất khinh xuất, kể từ các việc cải cách quốc gia có lợi cho nhân dân đến việc bước lên ngôi cửu ngũ. Họ Hồ đã không hấp thụ được bài học thân dân và dân vận của Trần triều thuở trước, có lẽ vì không để ý đến nhân dân, có lẽ ông cho rằng chỉ cần hướng mọi công cuộc cải cáh quốc gia về quyền lợi đại chúng là đủ. Bởi sự thiếu sót này người ta đã nghĩ rằng việc làm của ông không vì công ích, trái lại có mục đích, có cứu cánh hoàn toàn tư lợi.

Bàn về việc đàn áp phong kiến đời bấy giờ, ta nghĩ thế nào về Hồ Quý Ly? Họ Hồ tàn nhẫn lắm chăng?

Xét các việc đã xảy ra, quả họ Hồ đã tàn nhẫn thật nhưng bình tĩnh và khách quan mà nói nhà làm chính trị như họ Hồ giữa một thời vua hèn, tôi đốn, đẳng cấp phong kiến lại quá ngoan cố, tham tàn, chống lại mọi việc cải cách cấp tiến vì ngịch với quyền lợi không có những cử chỉ quyết liệt mạnh bạo.

Nói một cách khác, xã hội Việt Nam bấy giờ đang bị một bạo bệnh, Hồ Quý Ly đã phải dùng bạo phương vì không còn thể trì hoãn được với tình thế. Họ Hồ ngồi trên lưng cọp, lên đã khó xuống còn khó gấp bội, có ở vào hoàn cảnh của họ Hồ mới biết, ngoài ra đứng trên quan điểm nhân dân và cách mạng, ta còn lý gì để thương tiếc đám vua quan bất lực, mục nát đời Trần? Thương tiếc bọn này để mất nước với ngoại địch, để dân hao mòn vì đói khổ, ý niệm này vào thời nào cũng phải coi là một sự phản bội quốc gia và phản tiến hóa!

Hồ Quý Ly Có Làm Mất Nước Không?

Bình luận về Hồ Quý Ly, Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược trang 120 nói:

“Xem công việc của Hồ Quý Ly làm thì không phải là một người bình thường, nhưng tiếc thay, một người kinh tế như thế mà giả sử cứ giúp nhà Trần cho có thủy chung thì dầu giặc Minh có mạnh thế đến đâu đi nữa cũng chưa hầu dễ đã ăn cướp được nước Nam mà mình lại được tiếng thơm để lại ngàn thu. Nhưng vì cái lòng tham xui khiến, hễ đã có thế lực thì sinh ra bụng muốn tranh quyền cướp nước. Bởi thế, Hồ Quý Ly mới làm sự thoán đoạt, và nhà Minh mới có cái cớ mà sang đánh lấy nước An Nam. Mà cũng vì cái cớ ấy cho nên lòng người mới bỏ họ Hồ mà theo giặc để đến nỗi cha con họ Hồ thua chạy bị bắt, phải đem thân đi chịu nhục nước người!

Nhưng đấy là một cái tội làm hại riêng cho một họ Hồ mà thôi, còn cái tội làm mất nước Nam, thì ai gánh vác cho Hồ quý Ly?...”

Không riêng sử gia họ Trần,…nhiều nhà viết sử từ trước đến nay thường quy tội làm mất nước về tay nhà Minh cho Hồ Quý Ly và cũng viện cớ một cách giản dị rằng Hồ Quý Ly đã giết vua cướp nước nên người trong nước mới đi cầu cứu Minh triều. Trước vấn đề này, để tìm ra lẽ phải, ta cần đặt hai câu hỏi dưới đây:

1) Tình trạng bang giao giữa nước ta và nhà Minh thuở đó thế nào? Nếu Hồ Quý Ly không “thí quân thoán quốc” nạn xâm lăng liệu có thể tránh được không?

2) Bọn Trần Thiêm Bình và Bùi Bá Kỳ sang cầu quân “điếu phạt” của nhà Minh có ảnh hưởng gì đến sự suy vong của quốc gia thuở đó không?

Câu hỏi trên nhắc ta rằng khi nhà Hồ ra đời, Minh Thành Tổ đã có ý nhòm ngó nước ta rồi, sau đó lại thêm sự tố cáo của bọn hoan giả Nguyễn Toán giỏi nghề nấu bếp mà triều Trần đem tiến Minh Đế trước đây, Thiêm Bình và Bùi Bá Kỳ chỉ là những kẻ đến sau để thức đẩy cuộc xâm lăng cho thêm phần nhanh chóng.

Bảo rằng việc đảo chính của Hồ Quý Ly đã giúp cho nhà Minh cái cớ xuất binh qua đất việt cũng không đúng. Nhà Minh muốn chiếm nước ta không thiếu cơ hội, cũng không thiếu duyên cớ nữa. Đây chỉ là chuyện con chó sói với con cừu non của Lã Phụng Tiên (La Fontaine) mà thôi. Một việc xâm lăng bao giờ cũng phải tính toán đầy đủ điều kiện thực tế. Đó là việc ta cần phải suy xét kỹ lưỡng. Nhà Minh trước khi mang quân sang nước ta phải hiểu rõ dân ta đã suy yếu từ bao giờ, vua quan của chúng ta như thế nào. Như vậy mọi việc bại hoại của mấy triều đại cuối cùng của dòng họ Đông A đều đã ghi trong cuốn sổ tay của họ. Cuộc xâm lăng bấy giờ đâu có phải căn cứ vào cái nguyên nhân gần gữi nhất là vụ đảo chính của Hồ Quý Ly, nhất là cuộc đảo chính ấy đã thành công, một cách êm thắm. Có thể nhà Minh hiểu thực lực nước ta bị suy giảm từ lâu, lòng dân Việt Nam chia rẽ, Hồ Quý Ly tuy có cải cách nhiều việc trong nước nhung vẫn chưa phục hồi được nguyên khí quốc gia.

Đó là duyên cớ mất nước của dân ta cũng như duyên cớ xâm lăng của quân Minh. Tóm lại đời Trần Mạt do đám vua quan bạc nhược, ham ăn chơi đàng điếm đã tạo cho Bắc phương một hoàn cảnh tốt đẹp để xâm chiếm đất đai của chúng ta. Cái nguyên xã hội này mới là nguyên nhân chính. Các nhà làm sử hay các người đọc sử xưa nay thường chỉ nhìn vào việc trước mắt mà buông lời phê phán chẳng khỏi có sự quá đáng và thiếu côn bình với người xưa.

Nhưng nhà đọc sử và viết sử ngày nay hiểu Quý Ly một cách công bằng và thực tế hơn. Trong Nam Sử Liệt Truyện khảo cứu ở Tạp chí Nam Phong số 100, ông Lê Thúc Thông viết: “Xem Quý Ly đương buổi Tây Lịch 1411, khi ấy các nước Âu Châu chưa đên trình độ bán khai mà nước ta đã có Quý Ly bày đặt các việc trước đã khêu đèn văn minh, phỏng Bá Kỳ chẳng đưa quân Minh về trở ngạnh để cho Quý Ly hết sức kinh lý giang sơn, trùng tân nhật nguyệt, nước ta hẳn kéo cờ văn minh, thủ xuất trước các nước ở Á Châu…”

Trong Việt Nam Cổ Văn Học Sử (do nhà Hàn Thuyên Hà Nội xuất bản năm 1942) ông Nguyễn Đổng Chi cũng viết:

“Tư tưởng và hành vi của nhà độc tài ấy có thể sánh với Vương An Thạch (1021 – 1086) đời Tống bên Tàu. Vương cũng có một độ bài xách những lối học huấn hỗ và chú sở của tiên nho cùng là chủ trương những vấn đề cải lương Trung Quốc. Họ Hồ đã chịu mạnh cái tinh thần đó nên quyết tâm mở một lối thực học đi đôi với nền tảng quốc gia xã hội mong làm cường thịnh nước nhà. Người saunayf còn hơn người trước về chỗ chiếm lấy chiếc ngai vàng cho tiện bề hành động.”

“Nhưng đáng tiếc cho chiếc ngai vàng ấy không bao lâu bị sụp đổ và lôi cuốn mọi thứ đi mất. Bàn tay phá hoại ấy chính là người Minh, nhưng một số đông người Việt Nam lấy cớ phục hồi nhà Trần mở đường đón giặc, họ phải chịu một phần trách nhiệm.”

Tin Mới số 1406 ra ngày 31 – 10 – 1944, trong bài Đọc Sử ông T.N. cũng viết:

“Đọc Nam Sử, những cuộc cải tạo về chính trị, xã hội, học thuật không phải là ít, nhưng điều khiến cho chúng ta phải ngạc nhiên và nhớ tiếc hơn cả là chính sách táo bạo có thể coi như một cuộc cách mạng của họ Hồ và cuối thập tứ và đầu thập ngũ thế kỷ.

Đem đối chiếu những chính sách của Hồ Quý Ly với lịch sử quốc tế hồi bấy giờ và nhất là đem đối chiếu với hoàn cảnh Á Đông lúc ấy cuộc cải cách kia thực là lớn lao về cả tinh thần lẫn phạm vi của nó.

Cuộc cải cách ấy nếu được tiếp tục trong một thời gian khá lâu, tất phải đem dân tộc Việt Nam, một dân tộc lúc ấy thiếu tổ chức, đến một mức phú cường.

Nhưng đem reo rắc vào một đám dân chúng chưa giác ngộ, những chủ trương không gặp được một sức hậu thuẫn đầy đủ cho nên trước cuộc âm mưu của bọn Việt gian làm bung sung cho quân đội nhà Minh, sự nghiệp của họ Hồ đã tan tác sau một cuộc thất bại đau đớn”.

Chú thích:

[1] Ngụy Thức là một văn thần có nhiều mưu mẹo được Hán Thương trọng dụng thường ví với Ngụy Trưng đời Đường. Thật ra, Ngụy Thức họ Đồng, đậu Thái Học Sinh đời Trần, người Chí Linh, lộ Nam Sách.