CHƯƠNG IX BẮC THUỘC LẦN THỨ NĂM-NHÀ HẬU TRẦN-(1407 – 1413)---
Chính sách thống trị của nhà Minh
- Giản Định Đế khởi nghĩa
- Trần Quý Khoách nối tiếp cuộc cách mạng
1 – Chính Sách Thống Trị Của Nhà Minh
Quân Minh đánh tan được quân nhà Hồ liền thiết lập ngay guồng máy cai trị ở khắp mọi nơi. Nhưng đối với quân xâm lăng, bao giờ họ cũng khôn khéo để cám dỗ nhân dân. Trước đây, họ lấy danh nghĩa đem quân điếu phạt nhà Hồ để mua chuộc lòng các người trí thức, các quan liêu và nhân dân còn lưu luyến họ Trần được nhiều hay ít vẫn là điều lợi. Dĩ nhiên họ cần các phần tử trí thức trong một nước vẫn có uy tín đối với nhân dân, họ ngả vào đâu, nhân dân theo về đấy, chớ mấy khi nhân dân đã nhận định được nhanh chóng và rõ ràng con đường của Chính Nghĩa.
Giờ đây, họ dùng hai thủ đoạn chính trị:
1) Họ treo bảng kêu gọi con cháu họ Trần để tỏ rằng họ vẫn trung thành với tinh thần bản tuyên ngôn “Hưng Trần Diệt Hồ” đã tung ra trong gian đoạn đầu của cuộc dụng binh. Họ biết rằng con cháu họ Trần chưa dễ đã dám xuất đầu lộ diện. Nếu có kẻ hưởng ứng lời hiệu triệu của họ, kẻ đó sẽ bị giết ngầm đi, điều nó nào có khó gì.
2) Ngay lúc họ vừa tung ra lời hiệu triệu, họ lại làm tiếp ngay việc bắt các phụ lão làm tờ khai rằng: “Con cháu họ Trần không còn ai nữa. Đất An Nam vốn là đất Giao Châu ngày trước nay xin đặt quận huyện như xưa”.
Đây là hai hành động mâu thuẫn nhau. Bằng việc trên, thực dân Bắc phương đã dễ bề thao túng nhân tâm, chusngd dã khai thác được cảm tình của nhân dân họ Trần, bằng việc dưới chúng chính thức hóa chế độ đô hộ cổ truyền của chúng trên xứ sở chúng ta.
Rồi nhà Minh chia nước ta ra 17 phủ: Giao Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Lạng Sơn, Tân An, Kiến Xương, Phong Hóa, Kiến Bình, Trấn Man, Tam Giang, Tuyên Hóa, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa, Thăng Hoa và 5 châu là: Quảng Oai, Hưng Hóa, Qui Hóa, Gia Bình, Diễn Châu.
Ở những nơi trọng yếu, họ đặt 12 vệ tức là 12 đạo quân binh để đề phòng về phương diện quân sự.
Về hành chính, họ đặt ra ba ty: Bố Chánh ty, Án Sát ty, Chưởng Đô ty. Ba ty này điều động 472 nha môn là những cơ cấu cai trị phụ thuộc.
Thượng thư Hoàng Phúc là một nhà trí thức lỗi lạc của họ coi hai ty Bố Chính và Án Sát. Lữ Nghị coi Chưởng Đô ty tức là Thống Nhiếp về quân sự, Hoàng Trung làm phó.
Bộ máy hành chính và quân sự bắt đầu quay thì người Minh đã khôn khéo lo việc vỗ về dân chúng và chiêu mộ nhân tài. Con cháu các tướng sĩ, quan liêu theo nhà Hồ trong việc kháng chiến trước đây bị bắt, nay được phóng thích hết, ngay cả những tướng lĩnh bị bắt trong cuộc giao tranh cũng được miễn tội. Vua Minh Thành Tổ còn ủy Trương Phụ đi tìm kiếm các người có danh tiếng, có văn học uyên bác thông thạo việc cai trị, những người hiếu đễ, các trai tráng khỏe mạnh, các thầy bói toán, các danh y để ban thưởng phẩm hàm hoặc dùng vào các chức vụ Tri phủ, Tri huyện, Tri châu. Những kẻ vong bản, xu mị thời thế, ham lợi mê danh (Lương Nhữ Hố, Đỗ Duy Trung, Nguyễn Huân…) chạy theo lời gọi của bọn thống trị và làm rất nhiều việc tàn ác đối với dân chúng, trừ vào người có liêm sỉ như các ông Bùi Ứng Đẩu, Lý Tử Cấu, Lê Lợi, được ân cần mời mọc mà vẫn khước từ.
Lữ Nghị và Hoàng Phúc được đặc ủy mọi việc quân chính sau đó bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh rút quân mang theo bản đồ nước ta, đàn bà, con gái, các sử sách, đồ thư, truyện ký về Kim Lăng dâng lên Minh Đế, do đó chúng ta mất rất nhiều sách quý mà nhân tài hai triều Lý Trần đã biên soạn.
Theo Lịch Triều Hiến Chương Văn Tịch chú (Phan Huy Chú) những sách dưới đây đã bị tịch thu:
1) Hình thư của vua Lý Thái Tông (3 quyển)
2) Quốc Triều Thôn Lễ của Trần Thái Tông (10 quyển)
3) Hình Luật (1 quyển)
4) Thường Lễ niên hiệu Kiến Trung (10 quyển)
5) Khóa Hư tập (1 quyển)
6) Ngự Thi (1 quyển)
7) Di Hậu Lục của vua Trần Thánh Tông (2 quyển)
8) Cơ Cừu Lục (1 quyển)
9) Thi Tập (1 quyển)
10) Trung Hưng Thực Lục của vua Trần Nhân Tông (2 quyển)
11) Thi Tập (1 quyển)
12) Thủy Vân Tùy Bút của vua Trần Anh Tông (2 quyển)
13) Thi Tập của vua Trần Minh Tông (1 quyển)
14) Trần Triều Đại Điển của vua Trần Dụ Tông (2 quyển)
15) Bảo Hòa Điện Dư Bút của vua Trần Nghệ Tông (8 quyển)
16) Thi Tập (1 quyển)
17) Binh Gia Yếu Lược của Trần Hưng Đạo (1 quyển)
18) Vạn Kiếp Bí Truyền của Trần Hưng Đạo (1 quyển)
19) Tứ Thư Thuyết Ước của Chu Văn Trình (1 quyển)
20) Tiền Ẩn Thi (1 quyển)
21) Sầm Lâu Tập của Uy Văn Vương Trần Quốc Toản (1 quyển)
22) Lạc Đạo Tập của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải (1 quyển)
23) Băng Hồ Ngọc Hác Tập của Trần Nguyên Đán (1 quyển)
24) Giới Hiên Thi Tập của Nguyễn Trung Ngạn (1 quyển)
25) Giáp Thạch Tập của Phạm Sư Mạnh (1 quyển)
26) Cúc Đường Di Thảo của Trần Nguyên Đào (2 quyển)
27) Thảo Nhàn Hiệu Tần của Hồ Tôn Thước (1 quyển)
28) Việt Nam Thế Chí (1 bộ)
29) Việt Sử Cương Mục (1 bộ)
30) Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu (30 quyển)
31) Nhị Khê Thi Tập của Nguyễn Phi Khanh (1 quyển)
32) Phi Sa Tập của Hàn Thuyên (1 quyển)
33) Việt Điện U Linh Tập của Lý Tế Xuyên (1 quyển)
Cũng như các triều đại trước trong 10 thế kỷ đô hộ xưa, họ rất lưu tâm đến việc đồng hóa dân Việt để chúng ta quên nguồn mất gốc. Họ nhập cảng các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh, Tinh Lý (dùng sách đại toàn cả) và lập Tăng Đạo để truyền bá rộng ra các nơi dân chúng đạo Phật và đạo Lão, ngoài việc giảng dạy Nho Giáo. Trong giai đoạn này, bọn người đắc thời hơn cả là các thầy âm dương, y phương, tăng đồ và đạo gia. Họ đã nhảy ra điều khiển cả việc giáo dục.
Sau việt gột rửa cái tinh thần cố hữu là căn bản của mọi cá tính dân tộc chúng ta, họ còn làm cả chuyện di phong, đảo tục nữa: đàn ông bị cấm không được cạo đầu, đàn bà con gái phải bận quần dài, áo ngắn đúng như dân của họ.
Thuế khóa định như sau: Mỗi mẫu ruộng phải nộp 5 thưng thóc. Mỗi mẫu phù sa phải nộp một lạng tơ, mỗi cân tớ phải nộp một tấm lụa. Họ đặt quan lại đốc thúc dân phu khai các mỏ vàng bạc. Hàng năm, quan bản cục và nội quan được cử lập hội đồng xem xét lại rồi đưa vàng bạc về Tàu.
Tại các miền duyên hải, họ ép dân làm muối và cũng có sự kiểm soát gắt gao. Muối làm được bao nhiêu cuối tháng phải nộp hết vào ty Đề Chưởng. AI muốn buôn muối phải thương lượng với ty Bạc Chính (như Thương Chính bây giờ). Họ khám xét xong rồi mới được đem bán. Nấu muối lậu hay bán muối không có giấy phép phải tội rất nặng. Tại Vân Đồn, họ đặt một cơ sở kiếm hạt trai. Mỗi ngày hàng ngàn người phải lặn xuống đáy biển để mò ngọc.
Để kiểm tra dân chúng (có lẽ vì lý do chính trị), họ phát những “hộ thiếp” ghi tên tuổi, trú quán của dân đinh đóng dấu vào giữa, một nửa vào mặt thiếp, một nửa vào cuống. Nếu hai phần so không hợp với nhau, người mang thiếp sẽ phải đi sung quân (đi đày).
Ngoài chế độ thuế khóa, ta còn phải nộp các quý vật như: hồ tiêu, sừng tê giác, voi bạch, quế tốt, hương liệu, hưu trắng.
Số thóc mỗi năm phải nộp về Tàu là 13 triệu 30 vạn hộc (mỗi hộc được chừng 60 lít). Voi, bò, ngựa 135.900 con. Thuyền 8.700 chiếc. Quân giới 253.900 chiếc đủ loại.
Về việc cai trị, các đơn vị hành chính được đặt ra như sau: ở các xã thôn thì có Lý và Giáp. Cứ 110 hộ hợp thành một lý và 10 hộ là một giáp. Lý thì có Lý trưởng, giáp thì có Giáp thủ cầm đầu. Ở các đô thị thì gọi là phường (khu phố ngày nay, tỉ dụ ở Hà Nội có phường Đồng Xuân, phường Thọ Xương…) ở chung quanh thành phố thì gọi là Tương. Ở mỗi lý, phường, tương đề có sổ biên số đinh và số điền, trạch. Những người tàn tật, cô quả thì biên ra ở sau gọi là kỷ linh. Đầu sách có bản đồ. Những cuốn sổ này viết ra nhiều bản để ở các phủ huyện, bộ Hộ và và Bố Chánh ty. Cứ 10 năm lại làm lại loại khác để sửa đổi vì số đinh điền có sự thăng giảm. Những người ra làm việc ở các cấp dưới như Lý trưởng và Giáp thủ thường bị đánh đập rất khổ sở.
Việc bắt binh lính thì cứ theo sổ bộ. Ở những nơi gọi là vệ sở thì mỗi hộ phải ba xuất đinh. Thanh Hóa trở vào ít người thì mỗi hộ chỉ phải 2 xuất. Ở những chỗ không có vệ sở thì lập đồn lấy dân binh ra canh giữ.
Chính sách đô hộ kể đã chu đáo và việc bóc lột nhân dân đến thế thật là cổ kim Á, Âu chưa bao giờ có. Đẳng cấp sĩ phu và dân chúng Việt Nam như tỉnh một giấc mơ dữ dội. Có lẽ ngay cả những kẻ Việt Gian cũng âm thầm hối tiếc thời quá vãng, dẫu sao cũng không đến nỗi khốc hại như vậy, trừ những kẻ có thiên bẩm là nô lệ và không còn nhất điểm lương tâm mới điềm nhiên khoanh tay nhìn ngoại nhân chà đạp đồng bào, hút máu đồng loại.
Nhân dân đau khổ hết chỗ nói nhất là với bọn Lý Bân, Mã Kỳ đến thay Trương Phụ, đã có nhiều người cha lìa con, vợ lìa chồng, trốn vào rừng sâu, có nhiều kẻ được nghe tiếng gọi của hồn nước nên mới nảy ra phong trào phản đế ngay hai năm sau, ồ ạt như lửa được gió mạnh.
2 – Giản Định Đế Khởi Nghĩa (1407 – 1409)
Máu hàng ngày đổ chan hòa mặt đất, xương trắng kẻ hàm oan phủ khắp sơn khê đã thúc dục anh hùng hào kiệt nước Nam đứng dậy cứu vãn tình thế. Trong những kẻ nối giáo cho giặc, chạy theo giặc, một cũng bị lương tâm cắn rứt hoặc được thời thế giác ngộ đã gia nhập nhiệt liệt phong trào cứu quốc khi Giản Định vương ( tên là Quỹ) con thứ của vua Nghệ Tông phất cờ khởi nghĩa. Giờ đó, vua Giản Đinh đang siêu bạt tại làng Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, được Trần Triệu Cơ phụ tá, liền xưng Hoàng Đế để nối nghiệp nhà Trần, đặt niên hiệu là Hưng Khánh.
Phong trào khởi nghĩa không thắng lợi buổi đầu vì thực lực còn non nớt. Giản Định Đế thua chạy vào Nghệ An được Đặng Tất (là quan cũ của nhà Trần, nhà Hồ, sau khi hàng Minh được làm Đại Trị Châu ở Hóa Châu như cũ) hướng ứng. Họ Đặng giết luôn bọn quan lại nhà Minh rồi đem quân ra Nghệ An theo vua Giản Định. Tại Đông Triều (Hải Dương), Trần Nguyệt Hồ cũng chiêu tập binh đội tự động chống nhau với quân Minh nhưng chẳng bao lâu bị bắt. Các dư đảng chạy vào Nghệ an hợp với quân lực của Giản Định, nhờ vậy thanh thế của Giản Định bắt đầu bốc mạnh. Tại cửa Nhật Lệ, hàng tướng nhà Minh là Phạm Thế Căng bị Đặng Tất giết được, rồi từ Nghệ An trở vào ảnh hưởng của nhà Trần đã được khôi phục. Anh hùng nghĩa sĩ các nơi ùa theo ngọn cờ cách mạng năm Mậu Tí (1408) Giản Định hội họp được quân Cần Vương các đạo Thuận Hóa, Tân Bình, Nghệ An, Diễn Châu và Thanh Hóa tiến ra Đông Đô. Quân cách mạng ra tới Trường An (Ninh Bình) thì các sĩ phu Bắc Hà, các cố thần của tiền triều cũng hoan nghênh nhiệt liệt.
Xét tình thế có thể nghiêm trọng, bọn quan lại nhà Minh gửi giấy báo cáo về triều tới tấp khiến Minh Đế lại phải lo chuyện động binh ráo riết như buổi đầu của cuộc chinh phục. Mộc Thạnh được phái đem 4 vạn quân Vân Nam sang hiệp với quân đội của Lữ Nghị tiến đến Bồ Cô (thuộc xã Hiếu Cổ, huyện Phong Doanh) thì gặp quân Trần. Một cuộc giao tranh kịch liệt đã diễn ra. Giản Định tự cầm trống thúc đại binh liều chết với giặc. Tinh thần quân Nam lên rất cao. Đại tướng Lữ Nghị tử trận. Mộc Thạnh phải bỏ chạy về đóng ở thành Cổ Lộng do quân Minh xây ở làng Bình Cách thuộc huyện Ý Yên.
Giản Định muốn nhân lúc đại thắng thừa thế đánh ra Đông Đô, nhưng Đặng Tất chủ trương đợi quân các lộ về đầy đủ sẽ mở cuộc tổng phản công một lượt. Từ đó vua tôi bất hòa, rồi Giản Định nghe lời dèm pha bắt giết Đặng Tất và quan Tham Mưu Nguyễn Cảnh Chân. Việc này có ảnh hưởng rất tai hại đối với tinh thần binh tướng, nên nhiều người sinh chán nản và hàng ngũ cách mạng sinh rời rã.
3 – Trần Quý Khoách Nối Tiếp Cuộc Cách Mạng (1409 – 1413)
Sự vụng về của Giản Định đã gây ra sự chia rẽ trong các lực lượng ái quốc Việt Nam, đáng lẽ các lực lượng này phải được đoàn kết chặt chẽ hơn bao giờ hết. Đặng Dung là con Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Dị là con Nguyễn Cảnh Chân giận Giản Định giết cha mình một cách oan uổng liền đem quân bản bộ rút về huyện Chí La (tức là huyện La Sơn, thuộc Hà Tĩnh) tôn cháu vua Nghệ Tông là Trần Quý Khoách lên ngôi đặt niên hiệu Trùng Quang. Trong giai đoạn này, Giản Định đang đánh nhau với quân Minh ở thành Ngự Thiên, thuộc huyện Hưng Nhân. Quý Khoách phái tướng Nguyễn Súy lên bắt Giản Định đưa về Nghệ An tôn làm Thái Thượng Hoàng. Ý muốn của bọn Đặng Dung và vua Trùng quang là thống nhất cuộc kháng chiến để khôi phục đất nước, nhưng giữ chủ quyền hành động vì không tin ở tài năng của Giản Định và bọn phụ tá.
Được tin Mộc Thạnh thua trận, quân cách mạng đang đánh mạnh, nhà Minh lại phái viện binh qua nước ta đặt dưới quyền hai đại tướng Trương Phụ và Vương Hữu. Lực lượng của giặc Minh hùng hậu hơn lực lượng kháng chiến, ngoài ra Trương Phụ cũng có biệt tài chiến trận nên khi Trương Phụ sang, tình thế đôi bên thay đổi rất mau lẹ.
Quân kháng chiến bấy giờ đang chia nhau đánh phá ở miền đông (Hải Dương) Giản Định đem quân tấn công hạt Ninh Giang, Quý Khoách đóng ở Bình Than. Giản Định gặp Trương Phụ, bị đánh bại đem binh thuyền chạy về xuối đến huyện Mỹ Lương (giáp Sơn Tây và Phủ Nho Quan) thì quân Minh đuổi theo bắt được, sau giải về Kim Lăng.
Quý Khoách sai Đặng Dung đến giữ Hàm Tử Quan (huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên) nhưng vì thiếu lương thực nên không cầm cự nổi lại bỏ chạy. Quân kháng chiến nao núng, Quý Khoách đành rút hết binh đội về Nghệ An. Quân Minh lại làm chủ được toàn thể Bắc Việt.
Do cuộc bại trận của phái phong kiến mà nhân dân thêm một phen nữa bị giặc Minh khủng bố dữ dội. Những người dự vào cuộc kháng chiến, những kẻ tình nghi phản nghịch, bị chúng tàn sát thẳng tay: xác chết chất cao thành đống, ruột người treo lòng thong trên các cành cây, đầu người đem nấu, làng mach bị đốt phá, phụ nữ bị hãm hiếp vô kể…Trong dịp này, một số người Việt a dua với chúng giết hại nhiều đồng bào để được làm quan, bọn cẩu tẩu tha hồ tung hoành phỉ chí. So sánh với mấy thời Bắc thuộc trước, cảnh địa ngụ của giặc Minh rùng rợn hơn cả.
Năm sau (Canh Dần 1410), quân Kháng chiến lại tiến đánh Hồng Châu được thắng lợi rồi lại chiếm đóng Bình Than. Nhân dân hưởng ứng với binh bộ, nổi lên đánh giết quân giặc nhưng quân kháng chiến bấy giờ không có tướng tài, chỉ là những đoàn quân ô hợp, hiệu lệnh bất nhất, lương thực ít ỏi nên lại bị đánh bạt về Nghệ An như trước.
Thêm một lần nữa, Trương Phụ tuyên cáo tờ chiếu của vua Minh, lấy nhân nghĩa cám dỗ các tầng lớp xã hội Việt Nam. Cũng ngay trong lúc này, quân Minh tiến vào Nghệ An để tiêu diệt quân kháng chiến. Cũng ngay trong lúc này, quân Minh tiến vào Nghệ An để tiêu diệt quân kháng chiến. Lực lượng của nhà Hậu Trần quá suy nhược rồi đi dần đến thế thụ động. Quân đội trước đây được 10 phần thì nay chỉ còn ba, bốn, tai hại hơn cả là chỗ lương thực thiếu thốn. Biết rằng không thể thắng được quân Minh. Quý Khoách mấy phen cho người sang Tàu cầu phong với Minh Đế. Sứ giả bị giết và quân Minh càng đánh ráo riết hơn. Quý Khoách lại phái cả người đến xin hòa với Trương Phụ. Người giữ cái sứ mạng đi cầu hòa với tướng Minh đó là Nguyễn Biểu đã để lại một vài lời khảng khái trong lịch sử trước khi bị họ Trương đem giết: “Chúng bay mượn danh nghĩa đem quân đánh dẹp để khôi phục họ Trần mà bề trong chỉ lo chuyện cướp nước, đặt quân, huyện rồi vơ vét của cải, thật là đồ hung bạo”.
Tháng sau năm quý Tỵ (1413), quân Minh đánh thành Nghệ An. Thái phó nhà Hậu Trần là Phan Quý Hữu ra hàng nhưng sau mấy hôm thì chết. Con Quý Hữu là Phan Liêu được Trương Phụ cho giữ chức Tri Phủ Nghệ An, muốn lập công lớn đã tố cáo với Trương Phụ các tướng sĩ và thực lực của Quý Khoách, các địa điểm quân sự ở địa phương, nhờ đó Trương Phụ định được kế hoạch tiến đánh Hóa Châu. Mặc dầu Mộc Thạnh cản ngăn rằng Hóa Châu hiểm trở vì núi cao bể rộng, Trương Phụ vẫn chia hai đạo quân thủy bộ tiến đánh quân kháng chiến.
Tháng 9 năm ấy, quân Minh đã có mặt ở Hóa Châu. Nguyễn Súy và Đặng Dung đang đêm đem quân đánh vào trại của Trương Phụ đã lọt được vào thuyền của họ Trương nhưng không biết mặt, nên Trương trốn xuống một chiếc thuyền nhỏ thoát được.
Quân kháng chiến mỗi ngày một tan rã, Quý Khoách cùng các thủ túc phải lẩn vào rừng núi sau này cũng bị bắt hết và giải về Yên Kinh. Đi đến nửa đường, Quý Khoách nhảy xuống bể tự tử, còn bọn Nguyễn Súy, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị cũng đều tử tiết cả.
Để kỷ niệm họ Đặng có lòng trung quân ái quốc, nhân dân có đền thờ ông ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
Nhà Hậu Trần thất bại không phải là điều ngạc nhiên vì kiểm điểm tình trạng của mấy triều vua cuối cùng dòng Đông A, năng lực của các nhà lãnh đạo và sự kiệt quệ của nhân dân thời bấy giờ, ta thấy rõ rệt triều Trần không thể tồn tại mãi trên sân khấu chính trị Việt Nam. Nền móng đã lún, cột kèo đã mục, thì làm thế nào khỏi sự sụp đổ.
Dẫu sao, ta cũng phải ngợi khen con cháu nhà Trần đến lúc suy tàn còn có một phen quật khởi, nhưng cũng do sự sụp đổ hoàn toàn của họ Trần, ta thấy rõ lý do xã hội Việt Nam cần phải thay trò đổi cảnh, con thuyền quốc gia mỏng manh như vậy mà trao mãi cho những tay lái bất tài thì sinh mạng của những kẻ đồng hành há là rơm rác sao! Ngoài ra, nhân dân Việt Nam đã ủng hộ cuộc kháng chiến của họ Trần đến như thế cũng là hết lòng mà họ Trần không tái tạo nổi cơ đồ thì không còn phiền trách vào đâu nữa. Công nghiệp vĩ đại của họ Trần trước đây là chống xâm lăng thì sau này con cháu họ Trần bất lực đem lại cái họa vong quốc, họ Trần phải lĩnh một phần lớn trách nhiệm đối với quốc gia dân tộc. Rồi đây, cũng với trời đất, non sông ấy, nhân dân ấy, người nông dân đất Lam sơn làm được những sự nghiệp thế nào, ta sẽ hiểu dân tộc chúng ta không bao giờ thiếu nhân tài, tinh thần ái quốc và chiến đấu. Để cho quân giặc xông pha vào bờ cõi như vào chốn không người, chẳng qua những kẻ cầm đầu chính trị cũng như quân sự quá ư hèn nhát. Giặc vừa tới nơi đã bỏ giáo hàng giặc, giặc vừa thét ngoài biên đã mở cửa thành đón giặc, quan liêu, trí thức đâu đâu cũng khoanh tay cúi đầu chịu lệnh của giặc, tâm lý của cả một lớp người thời đó như vậy mà lại trách Quý Ly làm mất nước chẳng đáng buồn cười lắm sao!