CHƯƠNG X LÊ LỢI CHẤM DỨT CHẾ ĐỘ MINH THUỘC---
Giai đoạn đen tối
- Giai đoạn tươi sáng
- Cuộc tổng phản công giặc Minh
- Trận Tuy Động
- Việt quân phong tỏa Đông Đô
- Trận Chi Lăng
- Cuộc hòa giải
1 – Giai đoạn đen tối
Nhà Hậu Trần quật khởi từ năm 1407 đến năm 1413 thì hoàn toàn thất bại. Dân Việt Nam như thua cay một ván cờ, thua cay vì không phải không đủ tư cách chơi ván cờ với Bắc phương, nhưng vì kẻ thay mặt toàn dân ra chơi ván cờ quốc sự ấy quả thật bất tài, bất trí. Nhưng vì cuộc tranh đấu để dành quyền sống của dân tộc, đất đai của tổ tiên từ ngàn năm đã có tính cách cổ truyền, nên mỗi lần thất bại, mọi tầng lớp nhân dân lại đoàn kết chặt chẽ để khôi phục độc lập.
Từ nhà Hổ đổ, nhà Hậu Trần ngã quỵ, nhân dân Việt Nam không hề ngừng tranh đấu để quân xâm lăng thiết lập dễ dàng các cơ cấu hành chính quân sự trên lĩnh thổ nước nhà, nên 5 năm sau, một nông gia làng Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiếu Hóa, đã bước ra lĩnh đạo cuộc giải phóng dân tộc, rửa cái nhục bại trận của con cháu nhà Trần. Nhân dân đã hưởng ứng với lời hịch khởi nghĩa của người anh hùng áo vải đó, trong khi đẳng cấp quan liêu, trí thức thử thời nằm im như thóc. Hoặc giả nhân dân không còn tin tưởng gì nữa ở nơi họ vì một số xu mị thời thế chạy theo địch, một số đã tỏ ra bất tài bất lực trong cuộc đấu tranh. Lần này người được chọn mặt gởi vàng là ông Lê Lợi và các đồng chí, phần lớn chỉ là những con người thảo dã. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trong giai đoạn này so sánh với các cuộc chiến tranh trước đây, có tính cách thuần túy nhân dân hơn cả, vì khi khởi nghĩa các lĩnh tụ đa số là tuyệt đối là nông dân. Lúc này đẳng cấp phong kiến đã rút gần hết vào hậu trường sân khấu.
Ông Lê Lợi là nhân vật thế nào thời bấy giờ?
Lúc thiếu thời, ông đã trông thấy cái cảnh quốc phá gia vong như các sĩ phu khác giữa buổi ấy là lúc nhà Hồ sụp đổ, giặc Minh hiếp đáp đồng bào nên tuy là dòng dõi nhà hào trưởng giàu có, ông đã nuôi chí lớn, không muốn khoanh tay nhìn dân tộc chết dần chết mòn và phải sống cái sống nhục nhã của người dân mất nước. Ngoài kinh sử, ông nghiên cứu cả binh thư trận pháp để ứng dụng cái sở năng của mình vào việc cứu quốc sau này. Ông dùng tiền bạc dư dật trong nhà để thu phục nhân tâm, kết nạp hiền sĩ khắp nơi nên nổi tiếng Mạnh Thường Quân một phương. Bọn quan Tàu thấy ông được nhân dân yêu mến chuộng cho người đến dụ, có khi dùng uy thế để dọa nạt nhưng ông nhất định chối từ.
Ông thường nói với những người thân tín rằng: “Đại trượng phu sinh ra ở đời để phò nguy cứu khổ, lưu tiếng lại nghìn năm, chớ đâu để làm tôi tớ người ta!” Một mặt ông chuẩn bị thóc gạo, tiền bạc chờ ngày dùng đến.
Ngày đêm, ông cùng một số đồng chí là Lê văn An, Lê Văn Linh, Trịnh Khả, Bùi Quốc Hưng, Nguyễn Xí, Lê Sát, Lý Triện, Trịnh Lỗi, Lê Ngân, Đinh Lễ (rồi sau có Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn[1], cùng nhau bàn mưu tính kế trong rừng núi miền Lam Sơn.
Cuối năm Đinh Dậu (1417) binh lương khí giới đầy đủ; ông chọn ngày khởi binh vào sơ tuần tháng giêng năm Mậu Tuất (1418). Vì cuộc bại trận của nhà Hồ và nhà Hậu Trần, lòng người còn hoang mang, Nguyễn Trãi phải lợi dụng lòng mê tín của nhân dân như Trần Thắng cuối đời Tần (Trần Thắng viết ba chữ Trần Thắng Vương vào mảnh lụa, giấu vào bụng cá. Quân sĩ mổ cá thấy cho là trời đã định nên tin theo Thắng, nhưng sau Thắng cũng thất bại), ông cho nhúng bút vào mật viết lên nhiều lá cây trong rừng tám chữ: Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần, sau đó kiến theo đường mật ăn thủng lá thành hình 8 chữ kể trên. Nhân dân cho là điềm thần dị, đồn đại rất nhiều nên người ta theo mỗi ngày một đông.
Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa xưng là Bình Định Vương, phong cho Nguyễn Trãi chức Hàn Lâm Thừa Chỉ Học Sĩ, ngày đêm ở trong quân trướng bàn tính mọi việc và làm các văn thư, từ lệnh.
Lực lượng của ta và của Tàu lúc bấy giờ chênh lệch nhau nhiều lắm. Tàu có tới 10 vạn quân đóng ở khắp nơi xung yếu. Quân của Vương có độ vài nghìn nên cuộc chiến đấu rất là gian lao.
Bấy giờ đại bản doanh miền Nam của Minh do Mã Kỳ và Lý Bân cầm đầu đóng đô ở Tây Đô (Thanh Hóa), nghe tin Lam Sơn nổi quân cách mạng liền đem quân đến đánh. Vì thực lực còn mỏng manh, Vương phải dùng thế du kích và phục binh cũng có nhiều khi thắng lợi. Có lần Vương đóng quân ở Lạc Thủy (Cẩm Thủy, phủ Quảng Hóa) để nhử giặc đến. Cùng năm ấy có trận đánh Lý Bân ở Mường Một. Đã có phen Vương thua phải bỏ cả vợ con cho giặc bắt, để rút lui về núi Chí Linh.
Tháng tư và tháng năm Kỷ Hợi (1419) Vương tấn công đồn chính và đồn Nga Lạc (thuộc huyện Nga Sơn, Thanh Hóa giết được tướng Minh là Nguyễn Sao nhưng thế vẫn yếu, nên lại rút về núi Chí Linh là vị trí chiến lược và nơi thủ hiểm duy nahats của Vươnglúc bấy giờ. (Chí Linh là một ngọn núi thuộc tỉnh Thanh Hóa). Có một lần giặc đem nhiều binh đội đến vây Chí Linh, tình cảnh của Vương rất là nguy khốn. Lê Lai đóng vai Kỷ Tín (Kỷ Tín ngày trước chịu chết cho Hán Cao Tổ)[2] mặc áo ngự bào giả làm Lê Lợi cưỡi voi ra đánh nhau với giặc để cho giặc bắt. Quân giặc tưởng Lê Lai là Bình Định Vương giết đi, rồi yên chí lui quân về Tây Đô.
Sau khi kế sách này thành công, Vương thu tàn quân qua đóng ở Lư Sơn (phía Tây châu Quảng Hóa) và cho người sang cầu cứu Ai Lao. Trong năm ấy, nhiều người Việt như tri phủ Phan Liêu ở Nghệ An, Trịnh Công Chứng ở Hà Đông, Lê Hành, Nguyễn Đặc ở Khoái Châu, Nguyễn Da Cấu, Trần Nhuệ ở Hoàng Giang, Lê Ngã ở Thủy Dương cũng nổi lên chống nhau với quân Minh.
Hồi tháng 10 năm Canh Tí (1420), Vương đóng quân ở làng Thôi tính xuống phá giặc ở Tây Đô thì Lý Bân dẫn đại binh đến, bị đại quân của ta đánh thua liển xiểng ở Thi Lang. Vương tiến đóng Lội Giang là một vùng thuộc huyện Cẩm Thủy bên sông Mã và Ba Lậm. Giặc Minh phải đặt quân giữ Nga Lạc và Quan Du để đề phòng Tây Đô.
Tháng một năm Tân Sửu (1421), quân Minh không còn dám coi thường lực lượng của Bình Định Vương. Mấy vạn tinh binh của tướng Minh là Trần Trí chuyển đến Ba Lậm hẹn cùng quân Lào hai mặt đành ập lại. Quân ta theo lệnh của Vương nhân giặc ở xa kéo đến còn mỏi mệt liền mở cuộc tấn công vào ban đêm. Giặc bị hại mất hơn một ngàn người. Trần Trí tức lắm sáng hôm sau xuất toàn lực giao chiến với quân tam nhưng bị quân ta đã sắp sẵn thế phục binh và đánh kịch liệt quá phải thoái lui. Trong lúc này, ba vạn quân Lào giả xưng sang giúp quân ta nửa đêm kéo tới. Bình Định Vương không ngờ có sự dối trá nên mất một tướng là Lê Thạch bị tên của giặc bắn chết. Tuy vậy quân ta vẫn giữ vững được trận tuyến và mọi căn cứ, quân Lào phải rút lui về.
Năm sau (Nhâm Dần 1422) từ đồn Ba Lậm, quân ta tiến đánh đồn Quan Gia bị liên quân Minh – Lào đánh lối giọng kìm không cầm cự được phải chạy về giữ đồn Khôi Sách. Giặc thắng thế đuổi theo bao vây bốn mặt rất nguy kịch. Vương bàn với tướng sĩ liều chết mở một đường xương máu rút về Chí Linh.
Xét ra trước sau Bình Định Vương chạy về Chí Linh ba lần sau những phen thất trận. Với lần thứ ba này, quân sĩ hao tổn nhiều, lương thực cạn sạch. Hai tháng liền binh sĩ phải ăn rau, ăn cỏ, làm thịt cả ngựa, voi, tinh thần kiệt quệ. Để khôi phục lại nguyên lực, Vương bất đắc dĩ phải sai Lê Trân xin hòa với giặc. Quân Minh ưng thuận vì xét đánh không lợi và có ý chiêu dụ dần. Vương đem quân về Lam Sơn, một thời bọn Trần Trí, Sơn Thọ thường cho người đem biếu Vương trâu ngựa, cá mắm cùng thóc lúa. Vương lấy vàng bạc cho Lê Trân đem tạ. Nhưng sau có sự ngờ vực, giặc giữ Lê Trân lại. Vương đem quân về Lư Sơn, từ đấy đôi bên tuyệt giao.
Năm Giáp Thìn quân đội ta đã dư sức, lương thực dồi dào, Thiếu úy Lê Chích đưa ra vấn đề đánh Nghệ An để mở rộng khu vực và lấy chỗ nương tựa ở vùng núi hiểm trở của địa phương, sau đó sẽ tiến đánh Đông Đô. Vương đồng ý liền cho đánh đồn Ba Cang do Lương Nhữ Hốt làm trấn thủ (Lương Nhữ Hốt xưa là tướng nhà Trần sau hàng quân Minh). Hốt bỏ chạy. Quân ta đánh tiếp đồn Trà Long đi lên núi Bố Liệp thì nghe đại quân của Trần Trí, Phương Chính kéo tới. Vương cho quân mai phục các địa điểm chém được tướng giặc là Trần Tùng và 2000 quân địch, bắt được 100 con ngựa. Bọn Trần Trí bỏ chạy thì đồn Trà Long bị uy hiếp. Tri phủ Cầm Bành chờ viện binh không thấy sau phải mở cửa đồn xin hàng.
2 – Giai Đoạn Tươi sáng (Mặt Trận Miền Nam)
Bấy giờ Hoàng Phúc đã về Tàu, Trần Hạp sang thay nhận thấy tình thế nghiêm trọng liền tau về Minh Đế. Cho đến giờ phút đo quan nhà Minh vẫn coi thường quân khởi nghĩa nên không thông tin về Bắc triều. Minh Đế xuống chiếu quở trách bọn Trần Trí đòi phải dẹp ngay cho xong “quân nghịch”.
Trần Trí phải huy động toàn bộ thủy lực giao chiến cùng Vương trên trận tuyến từ huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh) đến mạn thượng du Khả Lưu ở Bắc Ngạn sông Lam Giang. Ở đây quân ta dùng thế nghi binh. Ban ngày Vương cho kéo cờ đánh trống, đêm đốt lửa, còn các nẻo đường quân giặc tiến qua thì có phục binh chờ sẵn. Quân giặc bất ngờ đi vào trận địa bốn mặt quân ta đánh ấp tới. Minh mất hai tướng: Chu Kiệt bị bắt và Hoàng Thành bị chém. Trần Trí lui quân và giữ thành Nghệ An. Thành này năm sau (Ất Tị 1425) bị quân ta vây trùng trùng điệp điệp. Thanh thế của Vương lúc bấy giờ lừng lẫy, đi đến đâu cũng được nhân dân đón rước náo nhiệt và đem trâu bò, thóc gạo, cung đốn vui vẻ. Vương nghiêm quân lệnh không cho quân lính phạm vào tài sản của dân chúng trừ những thứu gì thuộc về giặc Minh. Nhiều phủ, huyện ra quy thuận và xin tình nguyện đem quân đánh thành Nghệ An (tỉ dụ tri phủ Ngọc Ma là Cầm Quý giữ phủ Trấn Định). Nghệ An lúc bấy giờ là điểm chính của cuộc tấn công cho Nam Quân.
Toàn cõi Nghệ An chẳng bao lâu thuộc về ảnh hưởng của Nam Quân, bọn Trần Trí cố chết giữ lấy thành đợi viện binh tới. Sau có Lý An ở Đông Quan đem quân do đường bể vào cứu, họp với quân trong thành đổ ra cùng đánh. Quân Minh bị nhử đến sông Độ Gia bị quân ta đánh tan. Trần Trí chạy thoát về Đông Quan còn Lý an vào đóng trong thành lại bị vây như trước.
Nguyễn Trãi bàn nên đem quân đi đánh các nơi khác còn hơn tập trung toàn lực bao vây thành Nghệ An, vì vậy Vương hạ lệnh cho Tư Không Đinh Lễ đem một đạo binh ra phía Bắc đánh chiếm Diễn Châu, Tư Đồ Trần Nguyên Hãn, Thượng Tướng Lê Nỗ, chấp lệnh Lê Da Bồ đem hơn 1000 quân tấn công phía Nam lấy Tân Bình (Quảng Bình, Quảng Trị) Thuận Hóa (Thừa Thiên, Quảng Nam).
Tại Diễn Châu, Đô Ty của giặc là Trương Hùng từ Đông Quan kéo 300 chiếc thuyền lương vào, bị Đinh Lễ đón đánh. Thiên HỘ Tưởng và 300 quân tử trận; Hùng bỏ chạy được. Quân ta cướp được các thuyền lương và đuổi giặc ra tới Tây Đô. Nghe tin Đinh Lễ thắng, Bình Định Vương phái thêm 2000 tinh binh cùng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lý Triện và Bùi Bị hợp với Lễ đánh Tây Đô. Tại đây giặc và ta kịch chiến, quân ta chém được hơn 500 tên và bắt được rất nhiều tù binh. Sau đó ta vây chặt Tây Đô như Nghệ An.
Đạo quân của Trần Nguyên Hãn và Lê Nỗ tới sông Bố Chính thì gặp giặc. Bọn Hãn tiến, dùng chỗ hiểm đặt phục binh ở mặt sau. Hãn giả thua chạy. Tướng giặc là Nhậm Năng thúc quân đuổi riết đến chỗ có phục binh thì Hãn quay lại mở cuộc tấn công các ngả. Giặc tranh nhau chạy trốn, lăn xuống sông chết rất nhiều. Giữa lúc này Vương cho Lê Ngân, Lê Bôi, Lê Văn An dẫn thủy quân và 70 chiếc thuyền dùng đường bể vào tăng cường cho đạo quân đánh Tân Bình. Quân ta đuổi quân địch vào tới Tân Bình, Thuận Hóa, thế mạnh như chẻ tre, giặc không sao chống đỡ nổi.
Thế là từ Tây Đô trở vào Nam, quân ta làm chủ, trừ mấy thành lẻ tẻ. Ở đây, ta mộ thêm được mấy vạn binh sĩ nữa để đưa ra mặt trận miền Bắc. Từ đấy quân ta mỗi ngày một mạnh, tinh thần quân dân lên rất cao, các tướng tôn Vương lên làm “Đại Thiên Hành Hóa” nghĩa là thay trời làm việc để tăng thêm uy tín với nhân dân.
3 – Cuộc Tổng Phản Công Giặc Minh (Mặt Trận Miền Bắc)
Ban trinh sát của ta lúc này biết rõ giặc tập trung hầu hết các đại tướng ở hai nơi quan trọng là Nghệ An và Đông Đô, còn cá đồn ải khác lực lượng của giặc rất mong manh. Vương liền tiến quân ra Bắc Việt lập một trận tuyến theo đường vòng cánh cung đánh vào các miền Thiên Quan, Quảng Oai, Quốc Oai, Gia Hưng, Quy Hóa, Đà Giang, Tam Đái, Tuyên Quang là những căn cứ giáp Thượng Du về hai phía Tây Bắc. Trận tuyến này do Khu Mật Đại Sứ Phạm Văn Khảo, Thái Úy Lý Triện phụ trách đón viện binh của giặc từ Vân Nam kéo xuống do đường thủy hay đường bộ.
Một trận tuyến thứ hai kéo từ Khoái Giang, Bắc GIang, Lạng Giang, Thiên Trường, Kiến Xương, Tân Hưng, Ninh Giang do Lưu Nhân Chú và Bùi Bị điều khiển phòng viện binh từ Lưỡng Quảng tiến sang và chiếm đánh miền Đông Nam Trung Châu xứ Bắc. Thêm vào lực lượng Đông Nam có Đinh Lễ và Nguyễn Xí cũng đem một đạo quân ra tiếp theo đánh thốc lên.
Tại Tây Bắc, Lý Triện lấy được Quốc Oai và Tam Đoái rồi đánh xuống Đông Quan. Trần Trí đem quân ra đóng Ninh Kiều và Ứng Thiên, (theo Trần Trọng Kim các nơi này chắc là vùng huyện Từ Liêm, Thanh Oai, về quãng sông Nhuệ và sông Đáy) có lẽ để tránh sự uy hiếp và phong tỏa thành Đông Quan nhưng bị thua trận, phải rút về đóng phía Tây sông Ninh Giang khúc trên sông Đáy.
Tháng chín hơn một vạn niên binh Vân Nam kéo sang dưới quyền tiết chế của Vương An Lão. Lý Triện bàn với Phan Văn Xảo đem mộ ngàn quân đón đánh ở Tam Giang (Việt Trì). Giặc bị giết và chết đuối ở đây rất nhiều. Còn Lý Triện và Đỗ Bí theo riết Trần Trí, cố ý không cho hai cánh quân mới cũ của giặc hợp nhất. Trần Trí lại bại trận một phen nữa, bị đuổi đến làng Nhân Mạc mất một tướng là Lý Vi Lạng và chết hơn 1.000 binh.
Hai cánh quân của ta thắng trận xong tập hợp làm một, trở lại bao vây Đông Quan. Giặc thấy thế mỗi ngày một nguy ở ngoài Bắc nên Trần Trí phải gửi thư gọi Phương Chính ở Nghệ An ra, gần như phải hy sinh mặt trận miền Nam để cứu lấy căn bản. Phương Chính được tin Đông Quan nguy ngập liền để Thái Phúc giữ thành Nghệ An, vội xuống thuyền theo đường bể ra Bắc.
Từ giai đoạn này trở đi, chiến thuật, chiến lược của Việt quân thay đổi hẳn vì lực lượng và quân số của ta có thể dồi dào như của địch. Tại cá địa điểm sơn cước dĩ nhiên ta vẫn phải lợi dụng các nơi hiểm trở để phục binh đón giặc, còn các miền đồng bằng ta mở các trận địa chiến đại quy mô, do thế ta mới bao vây được giặc ở Đông Đô, Tây Đô và Nghệ An là các căn cứ quan trọng và mạnh mẽ nhất của đối phương. Lương thực cũng sung mãn vì bóng cờ “Đại Thiên Hành Hóa” tới đâu nhân dân các miền quê tự ý hợp nhau cung đốn trâu bò, rượu thịt, vừa để quân đội dùng, vừa để khao thưởng các trận đại thắng. Thật bõ lúc có lần hai tháng phải đào củ ráy, cắt măng vầu và giết voi, ngựa để nuôi sống nhau trong những ngày đen tối ở Chí Linh.
Phương Chính vừa xuống thuyền ra Bắc thì Vương cho Lê Ngân, Lê Văn An, Lê Bôi, Lê Thận, Lê Văn Linh, ở lại tiếp tục vây chặt thành Nghệ An, còn ngài đem quân theo đường bộ đuổi cấp Phương Chính. Ra đến Thanh Hóa, ngài cho đánh Tây Đô nhưng giặc cố thủ nên đánh không được, quân ta đến đóng ở Lội Giang.
4 – Trận Tuy Động
Tháng 11, Minh Đế phái Chinh Di tướng quân Vương Thông và Tham tướng Mã Anh đem 5 vạn quân sang cứu Đông Quan. Trần Trí và Phương Chính bị lột hết chức tước, đặt dưới quyền sử dụng của các tướng mới. Tới nơi, Vương Thông tập hợp cả quân cũ và mới được 10 vạn, cùng ta quyết chiến một trận lớn.
Trận thế của quân Minh liền sắp đặt như sau:
a) Vương Thông dàn quân ở bến Cổ Sở (thuộc huyện Thạch Thất, phủ Quốc Oai Sơn Tây).
b) Phương Chính đóng ở Sa Thôi (thuộc huyện Từ Liêm)
c) Mã Kỳ đóng ở Thanh Oai (bên bờ Nhuệ Giang). Các dồn ải đặt liên tiếp nhau dài hơn 10 dặm để tiện việc thống nhất hiệu lệnh và tương trợ.
Bên ta, Lý Triện và Đỗ Bí đem quân và voi đến Ninh Kiều phục ở Cổ Lãm nhử Mã Kỳ tới. Mã Kỳ đến cầu Tam La chỗ giáp giới huyện Thanh Oai và Từ Liêm thì bị phục binh của ta đánh, nhiều kẻ phải chạy xuống đồng lầy và bị chém tới hơn 1000 người. Quân ta đuổi theo tới làng Nhân Mục bắt được 500 tên, riêng mã Kỳ một người một ngựa trốn thoát.
Lý Triện thừa thắng đánh luôn tới cứ điểm của Phương Chính. Phương Chính thấy mã Kỳ bại cũng không dám chống với quân ta cùng Mã Kỳ về hợp với Vương Thông vẫn đóng nguyên vẹn ở bến Cổ Sở. Tại đây, đại quân của Vương Thông sắp đặt kế phục binh chờ quân ta đến tấn công. Quả nhiên Lý Triện tới. Quân Minh giả thua nhử quân Việt đến thế trận có cắm chông sắt của họ. Tại đây, voi bị chông chênh tiến lên được, quân mai phục của giặc đổ ra, Lý Triện thua chạy về giữ Cao Bộ (huyện Thanh Trì) và gọi quân của Đinh Lễ và Nguyễn Xí đến. Ngay đêm ấy, 2000 viện quân và 2 con voi đến hợp với quân Lý Triện chia ra phục ở Tuy Động thuộc huyện Mỹ Lương và Chúc Động thuộc huyện Chương Đức, phía Đông sông Đáy chỗ ngã ba thá. Ở đây, ta bắt được do thám của giặc, biết Vương Thông đã chuyển lực lượng đến Ninh Kiều và có một đạo quân đang lén đánh vào mặt sau quân Lý Triện. Họ chỉ chờ có tiếng súng hiệu là hai bên đánh lối gọng kìm vào quân ta.
Biết được mưu giặc, bên ta định luôn kế hoạch và phân phối lực lượng theo chiến lược lừa giặc vào tròng. Đinh Lễ cho người bắn súng, quân giặc liền tiến vào chiến trường Tuy Động. Ở đây, trời đang mưa đường lầy lội. Quân ta bốn mặt đánh ập lại. Thượng thư Trần Hạp và nội quan Lý Lương bị chém. Quân Minh xéo lên nhau và nhảy cả xuống sông nghẽn cả dòng nước.
Giặc chết ở đây tới 5 vạn người và bị bắt sống hơn một vạn cùng rất nhiều khí giới, đồ đạc. Trận Tuy Động đáng kể là một trận lớn nhất từ ngày có cuộc chiến tranh giải phóng. Trận này xảy ra hồi tháng 10 năm Bính Ngọ (1426). Xét về quân số của đôi bên trong trận Tuy Động, ta thấy có điều đáng hoài nghi. Nói rằng quân Vương Thông chết tới 5 vạn và bị bắt hơn 1 vạn mà quân của Đinh Lễ, Lý Triện chỉ mấy nghìn mà thắng được như thế có khác nào lấy tay xua đám ruồi nhặng. Quân Minh đâu lại hèn quá như vậy! Con sông Đáy về hạt Chương Mỹ là con sông nhỏ dẫu có ngập xác chết cũng chẳng chứa đựng tới 5 vạn người trên một khúc, vì chiến trường Tuy Động chỉ loanh quanh trong khu vực huyện Chương Mỹ. Cổ sử của ta (Việt sử) ắt có điều thiên vị mà nói ngoa như vậy. Đã đành rằng trong trận này có đại tướng xuất binh và là một trận mà địch quân lớn, quân số của giặc nhiều hơn quân ta gấp năm, bảy mà thôi và giặc đã đại bại nên sau đó phải rút cả vào thành Đông Quan.
5 – Việt Quân Phong Tỏa Đông Đô
Bình Định Vương đang đóng ở Lội Giang (Thanh Hóa) thì được tin mặt trận miền Bắc của ta thắng thế. Xét cần giải quyết mặt trận này để kết liễu chiến tranh, vì lực lượng của địch mười phần đã suy nhược tới sau bảy và ta đã thu phục được gần hết các đất đai trong nước, Vương liền tiến đại quân ra Bắc.
Tới nơi, việc phân phối quân đội thủy bộ được dễ dàng vì địch đã rút hết binh đội vào thành Đông Quan.
Bùi Bị đem một vạn bộ binh bí mật đóng ở Tây Dương Kiều. Quân của Vương hạ trại ngay ở gần thành Đông Quan. Thủy quân của giặc tan rã, các chiến thuyền từ Hát Giang thuận dòng sông Nhị tới đóng ở bến Đông Bộ Đầu.
Từ khi Bình Định Vương có mặt tại trận tuyến Bắc Việt, nhân tài hào kiệt ra đsn chào và nô nức theo đi đánh giặc, Vương tùy theo khả năng của mọi người mà giao phó trách nhiệm.
Bấy giờ các tướng Minh ở nơi xa thấy Đông Đô lâm vào cảnh cơ nguy và nền đô hộ của không có tương lai nên nhiều kẻ chán nản mở cửa thành xin quy phục theo lời chiêu hàng của Nguyễn Trãi. Bình Định Vương xét có thể lập được guồng máy chính quyền để tăng cường tinh thần chiến đấu và lòng tin cậy của nhân dân trong giai đoạn chót, nên chia ngay Bắc Việt ra làm bốn đạo:
1) Tây đạo gồm trấn Tam Giang, Tuyên Quang, Hưng Hóa.
2) Đông đạo gồm trấn Thượng Hồng, Hạ Hồng, Thượng Sách, Hạ Sách và lộ An Bang.
3) Bắc đạo gồm trấn Bắc Giang và Thái Nguyên.
4) Nam đạo gồm Khoái Châu, Lý Nhân, Tân Hưng, Kiến Xương, Thiên Trường.
Đối với Vương Thông và các tướng lĩnh trong thành Đông Đô, Bình Định Vương cùng quan Hàn Lâm Thừa Chỉ Nguyễn Trãi xét họ đường đường là những quân nhân có tên tuổi của Bắc triều, không thể dùng từ lệnh chiêu hàng, mà cần bàn cuộc giảng hòa bằng lời thư khéo léo, mềm mỏng để giữ thể diện cho họ rút về nước là hơn, khỏi kéo dài chiến tranh và bớt sự hao tổn tài sản, tính mạng nhân dân. Nguyễn Trãi liền viết thư cho Vương Thông, cương nhu đủ giọng, cởi buộc đủ các lẽ. Có khi họ Nguyễn không từ miệng cọp vào thành Đông Quan và nhiều thành khác, lấy lẽ lợi hại chiêu dụ các tướng của địch.
Thái độ của Vương Thông và đồng bọn thế nào?
Bên trong, các tướng lĩnh Minh từ Vương Thông, Sơn Thọ trở xuống đều nhận thấy tình thế lúc này của họ là tuyệt vọng, cũng muốn có cuộc bãi binh nhưng lại thắc mắc về cái nhục chiến bại. Rồi sau họ cũng thuận việc giảng hòa và lục tờ chiếu của vua Minhniên hiệu Vĩnh Lạc (1407), nói về việc khôi phục họ Trần để cùng họ VƯơng lo liệu cuộc đình chiến. Bấy giờ, có người tên là Hồ Ông xưng là cháu ba đời của vua Nghệ Tông, trốn ở Ngọc Ma, Vương cho đón về đổi tên là Trần Cao, lập lên làm vua, Vương xưng là Vệ Quốc công. Sau đó, Vương làm sớ lên Miên Đế xin tôn lập Trần Cao làm Quốc Vương nước Nam và đính ước với Vương Thông gọi quân các nơi về họp ở Đông Đô để sửa soạn việc hồi hương. Công chuyện nhường như ổn thỏa thì bọn Việt gian phản đối. Chúng khéo nhắc chuyện bãi chiến xưa kia giữa binh đội nhà Nguyên với các tướng nhà Trần đã xảy ra một việc thiếu thành thực khi Ô Mã Nhi về Tàu, Hưng Đạo Vương cho gia nhân ngầm đục thuyền khiến Ô Mã Nhi phải bỏ mạng trên Bạch Đằng Giang. Bọn Vương Thông bấy giờ đang bị khủng hoảng tinh thần liền nghe bọn họ (Trần Phong, Lương Nhữ Hốt…) Sở dĩ mấy kẻ Việt gian đó phá cuộc giảng hòa bởi chúng không những sợ mất địa vị lại còn lo nguy đến tính mạng của chúng cùng vợ con. Vương Thông vì thế sinh ra gian dối, bên ngoài mềm mỏng với Bình Định Vương, bên trong ngầm sai người về Tàu xin viện quân của Minh triều vừa cầu cứu cả Cố Hưng Tô, trấn thủ Quảng Tây. Hồi tháng 6 năm Đinh Tị (1427), đạo quân Quảng Tây tới cửa ải Pha Lũy (có lẽ thuộc Lạng Sơn) bị các tướng của ta là Lê Lưu, Lê Bôi đánh tan khiến họ Vương đành thúc thủ chờ viện binh chính thức.
Trong giai đoạn này, Việt quân khắp mọi nơi đều giữ thế công và quân Minh giữ thế thủ vì không đủ tinh thần mở các trận đại quy mô nữa. Bình Định Vương vừa đánh vừa tung hịch đi khắp nơi để chiêu hàng những trấn thành còn đang nằm trong tình thế chờ đợi. Đầu năm Đinh Tị (1427), bọn Thái Phúc và Tiết Tụ giữ thành Nghệ An và Diễn Châu mở cửa xin hàng.
Bình Định Vương tiến đóng đại bản doanh ở Bồ Đề, một căn cứ ở phía Bắc sông Nhị để chỉ huy việc công phá thành Đông Quan. Trịnh Khả đánh cửa Đông, Đinh Lễ đánh cửa Nam, Lê Cúc đánh cửa Tây, Lý Triện phá cửa Bắc.
Trong lúc quân Minh suy nhược, ta mất hai đại tướng vì khinh địch. Lý Triện giữ Từ Liêm không đề phòng cẩn thận bị quân của Phương Chính đánh lén tử trận. Đinh Lễ, Nguyễn Xí trốn thoát, còn Đinh Lễ bị giết.
Một mặt vây đánh ráo riết thành Đông Quan, mọt mặt Vương thiết quân luật để giữ trật tự trong quân dân như sau:
- Cấm tả đạo (chuyện ma quỷ để lừa dối dân chúng).
- Những dân bị loạn ly phải siêu tán được trở về nguyên quán làm ăn như cũ.
- Vợ con và thân nhân của những ai làm việc với giặc được phép lấy tiền để chuộc tội.
- Tù binh được đưa về Thiên Trường, Lý Nhân, Kiến Xương, Tân Hưng, nuôi nấng tử tế.
Đối với dân thì như vậy, còn đối với các phần tử của chính quyền có ba điều răn này:
- Cấm lừng khừng
- Cấm khi mạn
- Cấm gian dâm
Các tướng sĩ phải theo 10 điều quân kỷ dưới đây;
1) Trong quân không được làm điều huyên náo.
2) Tránh những tin đồn nhảm làm hoang mang lòng người.
3) Lâm trận thấy cờ phất, trống giục thì phải tiến.
4) Thấy kéo cờ dừng chân thì ngừng bước.
5) Nghe chiêng đánh hồi quân thì phải lui.
6) Giữ nghiêm hàng ngũ.
7) Phải lo việ quân trước việc gia đình.
8) Cấm ăn cắp hối lọ của dân đinh phải đi lính và làm sổ sách mập mờ.
9) Phải công bằng trong việc xét công trạng binh đội.
10) Tránh việc gian dâm, trộm cắp.
Tướng sĩ nào phạm vào một trong 10 điều răn này cũng đủ bị tội chém.
Nhờ có quân lệnh nghiêm ngặt như vậy nên dân chúng rất có cảm tình với quân kháng chiến và nhiệt liệt tham gia cuộc tranh đấu.
6 – Trận Chi Lăng
Tin Vương Thông thua trận Tuy Động, Trần Hạp bỏ mạng, đại quân hao tổn rất nhiều đã chấn động cả triều Minh. Vua Minh liền phái Chinh Lự phó tướng quân An viễn Hầu Liễu Thăng, Tham tướng Bảo Định Bá Lương Minh, Đô Đốc Thôi Tụ, Binh Bộ Thượng Thư Lý Khánh, Công Bộ Thượng Thư Hoàng Phúc, Thổ Quan Hữu Bố Chính sứ Quảng Tây tiến vào Việt Nam. Một đạo khác do Chinh Nam tướng quân kiêm Quốc Công Mộc Thạnh, Tham Tướng Hưng An Bá Từ Hạnh, Tây Ninh Bá Đàm Trung điều động gồm 5 vạn lính và 1 vạn con ngựa đồng thời sang tiếp viện cho lực lượng của Vương Thông đang bị vây hãm ở Đông Đô. Quân Liễu Thăng tràn vào cửa Pha Lũy (Nam Quan), quân Mộc Thạnh vượt qua cửa Lê Hoa, tương truyền thuộc Tuyên Quang.
Tin viện binh đến đã được mang ra thảo luận rất sôi nổi.
Trái với ý kiến của nhiều tướng lĩnh, Bình Định Vương cho rằng nhân dịp này đem hết sức mạnh để lấy Đông Đô là hạ sách mà đánh tan quân cứu viện được thì tất nhiên Đông Đô không đánh cũng phải hàng. Như vậy là bắn một mũi tên được hai con chim.
Việc này được mọi người hoan nghênh, Vương liền hạ lệnh cho dân chúng các vùng Lạng Giang, Bắc Giang, Tam Đái, Tuyên Quang, Tuy Hoa tản cư, áp dụng kế thanh dã (vườn không nhà trống). Các cứ điểm được sắp đặt kỹ càng để đợi viện quân của đối phương, và quân giặc đến thì đánh ngay, bởi chnsg vượt dặm trong ít ngày tới nơi phải mệt nhọc, quân ta được nhàn nhã sung sức tất có hy vọng chiến thắng dễ dàng.
Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Linh, Lê Thụ lĩnh 1 vạn tinh binh và 5 con voi phục ở ải Chi Lăng chờ quân Liễu Thăng, Phạm Văn Xảo, Lê Khả, Lê Trung, Lê Lý chia quân các nơi chặn giặc.
Tướng giữ ải Nam Quan (Phá Lũy) là Lê Lựu (V.N. Sử Lược chép là Trần Lựu) thấy giặc vừa đông vừa mạnh tự lượng không chống nổi rút về Ai Lưu. Giặc tiến đánh AI Lưu, Lê Lựu rút về Chi Lăng. Giặc tiến đánh Chi Lăng thì gặp phục binh của ta. Lê Lựu ra khiêu chiến nhử giặc đuổi theo. Nghe tiếng pháo hiệu nổ, biết Liễu Thăng và quân bản bộ đã vào đúng trận thế, các tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú hô quân mai phục bổ vây chặt chẽ. Giặc hoảng hốt chen nhau, dầy xéo nhau mà chết, Liễu Thăng cùng 100 quân kỵ chạy đến chỗ bùn lầy thì không tiến được nữa, bị chém ở núi Mã Yên. Trận này khởi từ ngày 18 tháng 9 đến ngày 20 thì kết liễu, chủ tướng chết cùng hơn một vạn binh sĩ. Đạo quân tiếp ứng ba vạn người của Lê Lý vừa kịp đến, nhân cái đà thắng trận ùa vây đánh quân Minh chém được Lương Minh ngày 25. Lý Khánh lâm bước nguy kịch ba hôm sau cũng tự sát trong đám loạn quân. Còn lại Hoàng Phúc, Thôi Tụ, đem tàn quân chạy về thành Xương Giang (thành này xây ở xã Thọ Xương phủ Lạng Giang). Nửa đường họ bị quân Lê Sát đuổi kịp đánh cho tơi bời. Thôi Tụ liều chết chạy được tới thành Xương Giang thì thành này đã treo cờ Việt quân. Chiếm được thành này là tướng Trần Nguyên Hãn. Thôi Tụ đành phải rút lui ra ngoài đồng lập trại và đắp lũy để chống giữ.
Lúc này trời mưa bão, giặc không tiến được. Đêm tối Thôi Tụ cho bắn sung làm hiệu để quân trong hai thành Đông Quan và Chí Linh tới cứu, không biết hai nơi này cũng đang lâm nguy. Bình Định Vương chia quân chặn hết các địa điểm thủy bộ từ cửa ải Mã Yên, Chi Lăng và Pha Lũy. Trần Nguyên Hãn được đặc ủy chẹn đường vận lương của giặc. Thôi Tụ, Hoàng Thúc biết tiến thoái đều không có lỗi, xin hòa nhưng ngầm di binh đến thành Chí Linh. Vương biết mưu gian, cho Lê Vân, Lê Ý xông vào chém được hàng vạn thủ cấp, bắt sống được Thôi Tụ và Hoàng Phúc cùng rất nhiều tù binh. Thế là đạo quân Liễu Thăng chưa vào tới miền đồng bằng Bắc Việt đã bị cái cảnh trúc chẻ ngói tan vô cùng bi đát.
Mộc Thanh đem quân đến cửa Lê Hoa gặp cá tướng Phạm Văn Xảo, Lê Khả. Theo mật lệnh của Vương, các tướng bố trí quân mai phục nhưng không được vội giao chiến vì Mộc Thạnh là các lão tướng có kinh nghiệm chiến trường, không hành quân một cách xốc nổi hẳn còn chờ xem sự thành bại của Liễu Thăng rồi mới hành động. Khi diệt được đạo quân của Liễu Thăng, vương cho dẫn một viên chỉ huy, ba viên Thiê Hộ trong số tù binh cùng sắc thứ ấn tín của Liễu Thăng đưa đến hành doanh của Mộc Thạnh. Được rõ sự thật, Mộc Thạnh hết sức kinh hoàng bỏ chạy, bị các tướng Xảo, Khả đuổi đánh và cũng khá tan nốt đạo quân này ở ngòi Lĩnh Thủy. Hơn một vạn quân Minh bị giết ngoài những kẻ bị ngã xuống khe ngòi bỏ chạy không kể xiết. Mộc Thạnh một người một ngựa trốn thoát.
7 – Quân Minh Xin Hòa Giải
Tới giai đoạn này viện quân của Minh triều bị đại bại, tinh thần của đối phương ở nhiều trấn thành xã xuống rất mạnh. Nhiều tướng lĩnh Minh xin quy phục, chỉ còn 5 thành: Tây Đô, Cổ Lộng (nền cũ của thành này còn ở làng Bình Cách, huyện Ý Yên, tình Nam Định), Đông Quan và Chí Linh vẫn chưa xao xuyến lắm.
Đáng lẽ quân ta tổng tấn công các thành đó trong lúc quân dân của chúng ta đang thừa hăng hái, Bình Định Vương sai viên Thông Sự Đặng Hiếu Lộc dẫn Thôi Tự, Hoàng Phúc và một số tù binh cùng quả ấn song hổ và cờ kiếm, sổ sách đưa vòa thành Đông quan. Trước đây bọn Vương Thông thấy quan ta phô những khí giới bắt được trong lúc hạ thành Xương Giang và tuy nghe thấy viện quân thua to nhưng vẫn còn phân vân, nay được thấy hiển nhiên tình trạng của Hoàng Phúc, Thôi Tụ thì tuyệt vọng và hoảng sợ hết sức. Bên ngoài chúng thấy Việt quân dựng đồn thắp lũy dự định công phá, lại càng mất mật.
Mưu thuật này đạt được đúng kết quả mong muốn là đánh một đòn nặng vào tâm lý địch giữa lúc họ đang khủng hoảng tinh thần. Biết tình thế hoàn toàn đổ vỡ, Vương Thông, Sơn Thọ cử phái viên là Thiên Hộ họ Hạ đến đại bản doanh của Bình Định Vương đề nghị thành thực cầu hòa và xin mở đường cho chúng lui binh về nước.
Tướng sĩ và nhân dân không tán thành cuộc hòa giải vì lòng người còn căm giận sự tàn bạo trước đây của giặc Minh.
Dư luận còn đang phân vân, Nguyễn Trãi bàn:
- Giặc Minh tàn bạo nhân dịp này giết hết chúng đi là phải, nhưng phải nghĩ nước mình là nước nhỏ, nước chúng lớn gấp mấy chục lần thì xung đột với chúng chỉ là sự bất bắc dĩ. Nếu mối thù ngày một thêm sâu, giặc mất thể diện lại kéo binh sang nữa thì cuộc chiến tranh biết bao giờ mới dứt được. Sao bằng chấp thuận cuộc hòa hiếu để tạo phúc cho sinh linh hai nước. Thả Vương Thong và đồng bọn về, hẳn chúng không còn lòng nào trở sang nữa. Xem như bài biểu dấu trong thỏi sáp của y gửi về Minh triều có câu: “Xin thôi đừng vì miếng đất hẻo lánh một phương mà làm nhọc nhằn quân lính đi xa muôn dặm. Bây giờ muốn đánh lại phải huy động đại quân như buổi ra đi, đại tướng phải sau bảy người vào hạng Trương Phụ. Nhưng dù lấy lại được thì sự giữ sau này cũng vẫn khó lòng…”
Vương gật đầu khen phải, nói:
“Phục thù báo oán là cái thường tình của mọi người, nhưng bản tâm người nhân không muốn có việc giết người bao giờ, huống hồ người ta đã hàng mà giết thì không hay. Thỏa cái giận một lúc mà đeo cái tiếng muôn đời giết kẻ đầu hàng, sao bằng cho muôn vạn người cùng sống để tránh cuộc chiến tranh cho đời sau, lại còn được tiếng thơm lưu truyền sử xanh mãi mãi…”
Qua câu nói trên đây của Bình Định Vương Lê Lợi, ta thấy rằng người xưa cũng quan niệm giết kẻ đã hạ khí giới là nhỏ mọn, tầm thường, đối với đạo đức còn là điều bất nhân nữa. Ngoài ra, các nhà chính trị thuở đó cũng đã rõ sức mình sức người, nên trước đời bấy giờ cho tới sau này, tiền nhân ta luôn luôn có thái độ dè dặt, khiêm nhượng mỗi khi đuổi xong kẻ thù. Thái độ này quả là khôn ngoan lắm vậy.
Sau việc bàn luận này, Vương cho lập đàn thề ở phía Nam thành Đông Quan hẹn đến tháng chạp thì quân Minh phải về nước. Còn với dân chúng, Vương tuyên lời cáo dụ cho biết chiến tranh đã kết liễu và nền độc lập của nước ta đã khôi phục xong.
Các tướng lĩnh Minh còn lại ở các thành khi ấy là:
Tại Đông Quan có Vương Thông, Mã Anh, Lý An, Trần Trí, Sơn Thọ, Mã Kỳ, Phương Chính. Tại Tây Đô có Hà Trung. Tại Chí Linh có Cao Tường.
Họ phải nộp lại cho quân ta bọn người Nam lĩnh quan chức của nhà Minh cùng những binh dân bắt hiếp phải theo. Chúng ta sửa đường xá, cấp phát thuyền bè cho bọn họ tùy tiện hai đường thủy bộ để hồi hương.
Số tù binh cùng hành binh và vợ con của chúng có tới 10 vạn người cũng được trao trả cho họ. Xem con số này, ta phải rùng mình về cái nạn ăn bám, cái nạn đục khoét của bọn giặc Minh và thê tử, thân nhân của chúng trong mười năm cắm sào trên đất nước ta.
Theo Trúc Khê trong cuốn “Nguyễn Trãi”, số người Tàu vừa quân vừa dân được hồi hương là 30 vạn. Theo Trần Trọng Kim, Bình Định Vương giao cho Mã Anh 2 vạn tù binh và cho Phương Chính, Hoàng Phúc, Sơn Thọ 500 chiếc thuyền cùng lương thảo đầy đủ để trở về bằng thủy đạo, Vương Thông lĩnh bộ binh đi sau và được tiễn biệt rất hậu.
Theo sự suy cứu của chúng tôi, con số của hai ông đưa ra có lẽ không sát sự thực. Số tù binh và hàng binh có thể tới hai ba vạn, tàn quân trong tay Vương Thông ít nhất cũng còn một hai vạn, tàn quân trong tay Vương Thông ít nhất cùng còn một hai vạn, quân của bọn Hoàng Phúc, Thôi Tụ mang sang nước ta chuyến cuối cùng dầu bị chết nhiều cũng còn vài vạn, cộng với cá viên chức hành chính và vợ con của họ ở ngót 500 nha môn và nhân dân theo chúng sang bên này làm ăn hoặc báo hại phải trên 10 vạn. Vậy theo con số của Trúc khê e quá sự thật, của Trần Trọng Kim thì ít quá. Cứ xem trong thời Tây thuộc, kiều dân Pháp kể cả binh đội thường trú thời bình còn tới 50 ngàn. Với bọn người Minh trong thời chiến tranh và do sự gần gữi hai nước Việt Hoa, con số có thể lên tới gấp đôi, gấp ba.
8 – Việc Cầu Phong
Về việc cầu phong, các nhà lãnh đạo thuở đó, như trên đã nói, đã cố tránh sự thất thể diện cho Minh triều nên đã đưa Trần Cao ra làm bung xung cho hợp với tinh thần tờ chiếu của vua Minh niên hiệu Vĩnh Lạc (1407). Minh Tuyên Tông, do lời báo cáo của bọn quan lại và tướng ta ở An Nam về, cũng hiểu rõ địa vị của Trần Cao chỉ là một bù nhìn, nhưng vì thất trận và cũng thiệt hại quá nhiều binh mã nên đành chấp thuận việc cầu phong êm chuyện, nhất là quần thần đều tán thành cuộc bãi chiến với phương Nam.
Lễ Bộ Thị Lang là Lý Kỳ sang tuyên chiếu phong Trần Cao làm An Nam Quốc Vương và bãi tòa Bố Chính.
Tháng chạp năm Đinh Tị, bọn Vương Thông thất thểu về đến Long Châu. Thấy tình trạng của binh tướng không sao gắng gượng được nữa, Minh Đế đành ban sắc dụ trả nước An Nam và khuyên giữ theo lệ triều cống khoảng năm Hồng Vũ[3] xưa.
Về phương diện tài liệu, chúng tôi thấy cần chép bài chiếu xin cầu phong, đại lược như sau:
“Khi vua Thái Tổ Cao Hoàng Đế mới lên ngôi, tổ tiên tôi là Nhật Khuê vào triều cống trước hết, bấy giờ Ngài có ban thưởng và phong tước vương. Từ đó nàh tôi vẫn nối đời giữ bờ cõi, không bỏ thiếu lễ triều cống bao giờ.
Mới rồi, nhân họ Hồ thoán nghịch, vua Thái Tông văn Hoàng Đế đem quan sang hỏi tội. Sauk hi đã dẹp yên rồi, ngài có hạ chiếu tìm con cháu họ Trần để giữ lấy dòng dõi cúng tế. Bấy giờ quan Tổng Binh Trương Phụ tìm chưa được khắp, đã xin đặt làm quận huyện.
Nguyên tôi lúc trước vì trong nước có loạn, chạy trôn qua xứ Lão Qua, cũng là tìm chốn yên thân mà thôi, không ngờ người trong nước vẫn quen thói mọi, nhớ đến ân trạch nhà tôi thuở trước lại cố ý ép tôi phải về, bất đắc dĩ tôi cũng phải theo.
Dẫu rằng trong khi vội vàng, bị người trong nước cố ép, nhưng cũng là cái tội tôi không biết liệu xử. Mới đây tôi đã có xin lỗi trước hàng quân, nhưng không ai chịu nghe, bấy giờ người nước tôi sợ phải tai vạ, liền đem nhau ra phòng bị các cửa ải, cũng là một kế giữ mình.
Ngờ đâu quan quan xa xôi mới đến thấy voi sợ hãi, tức khắc vỡ tan. Việc đã như vậy, dầu bở sự bất đắc dĩ của người trong nước cũng là lỗi của tôi. Nhưng bao nhiêu binh mã bắt được đều được thu dưỡng tử tế, khong dám xâm phạm một chút nào.
Dám xin Hoàng Thượng ngày nay lại theo như lời chiếu của vua Thái Tông Văn Hoàng Đế tìm lấy con cháu họ Trần, nghĩ đến cái lòng thành triều cống trước nhất của tổ tiên tôi ngày xưa mà xá cái tội to như gò núi ấy không bắt phải phạt nặng bằng búa rìu, khiến cho tôi được nối nghiệp ở xứ Nam, để giữ chức triều cống.
Tôi đã sai người thân tín mang tờ biểu tạ và đưa trả ấn tín, nhân mã tới chốn kinh sư, nay lại xin đệ tâu những danh số ấy.”
Ngoài tờ biểu này, sứ bộ là các ông Lê Thiếu Đĩnh, Lê Quang Cảnh, Lê Đức Huy, còn dâng các phương vật sau đây:
1) Hai người vàng để thay mình;
2) Một lư hương bằng bạc;
3) Mội đôi bình hoa bằng bạc;
4) Ba chục tấm lượt;
5) Mười bốn đôi ngà voi;
6) Mười hai bình hương trầm;
7) Hai vạn nén hương duyến;
8) Hai mươi bốn cây hương trầm;
(ngoài ra còn nộp hai cái dấu đài ngân, đôi hổ phù của Chinh Lự phó tướng quân, cùng sổ quân đã bị bắt).
Giặc đã ra khỏi bờ cõi, công cuộc giải phóng dân tộc đến đây là thành công trọn vẹn. Bình Định Vương cử ông Nguyễn Trãi làm bài tuyên cáo quốc dân tức là bài Bình Ngô Đại Cáo. Bài Bình Ngô Đại Cáo là một áng danh văn chính trị được ghi vào văn học sử nước nhà, chẳng những người đồng thời của Ức Trai tiên sinh phải khâm phục mà đến ngày nay cũng được coi là một tác phẩm bất hủ. Trúc Khê dịch ra văn quốc âm như sau:
Thay trời làm việc, Hoàng Thượng dạy rằng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước vì khử bạo
Nước Đại Việt ta
Nền văn hiến cũ
Non nước bờ cõi đã khác,
Bắc Nam phong tục vẫn riêng.
Cơ đồ gây dựng trải Triệu, Đinh, Lý, Trần,
Đế bá tranh hùng cùng Hán, Đường, Nguyên, Tống
Tuy mạnh yếu từng khi có khác,
Nhưng hào kiệt chẳng thuở nào không.
Cho nên:
Lưu cung tham công mà phải thua,
Triệu Tiết muốn lớn càng mau mất.
Toa Đô đã bị bắt ở cửa Hàm Tử,
Ô Mã phải chết ở sông Bạch Đằng.
Xét lại việc xưa,
Hãy còn chứng rõ
Gần đây, nhân:
Họ Hồ ngang ngược,
Lòng người căm hờn,
Quân Minh thừa dịp hại dân,
Đảng ngụy manh lòng đem bán nước.
Hơ lũ đầu đen trên lửa bỏng
Đẩy phường con đỏ xuống hang sâu.
Dối trời hại dân, gian xảo dù muôn nghìn lối;
Gây binh nhóm loạn, tàn hại trải hai mươi năm,
Nhân nghĩa vứt đi hoài, vũ trụ tưởng chừng muốn sập;
Thuế má vét cho đẫy, núi khe sạch nhẵn như chùi.
Kẻ bị ép xuống khơi mò ngọc, cá nuốt song vùi.
Bẫy dân cạm đặt khắp nơi nơi,
Vét vật lưới chăng từng chốn chốn.
Dẫu loài sâu bọ cỏ cây, khôn bề rảnh sống;
Đến kẻ góa bụa, cùng khổ khó nỗi an thân
Máu mỡ dân chúng, nay xây mai dựng.
Chốn châu Lý nặng nề sưu dịch;
Trong xóm làng quạn vắng cửi canh.
Múc cạn nước Đông Hải dễ mà rửa sạch thanh nhơ;
Đẵn hết trúc Nam Sơn, chẳng đủ biên ghi tội ác.
Thần, người đều căm giận;
Trời đất chẳng dong tha.
Ta, phát tích tự núi Lam Sơn,
Náu hình trong nơi hoang dã.
Trước thù lớn làm ngơ không thể,
Cùng giặc già chung sống được sao!
Đau lòng não ruột đã ngoài mười niên,
Nếm mật nằm gai, phải đâu một buổi!
Quên ăn, bỏ ngủ, dùi mài các sách lược thao;
Xét xưa nghiệm nay, suy cứu mọi lẽ hung phế!
Đồ hồi chính định,
Thức ngủ không quên.
Giữa khi quân nghĩa nổi lên,
Chính lúc thế giặc đang mạnh
Buồn nỗi nhân tài còn ít ỏi,
Tuấn kiệt còn vắng thưa.
Chạy chọt sau trước không đủ người,
Trù hoạch mưu mô còn thiếu kẻ.
Chỉ vì lòng dân cứu dân không nguôi nửa khắc;
Cho nên xe đãi hiền dành sẵn một bên.
Nhưng đợi người, người vẫn xa xăm
Mà việc mình mình càng nóng sốt.
Giận tặc đồ chưa trừ khử được,
Buồn quốc bộ vẫn truân khiển hoài,
Linh son hương cạn đến hàng tuần;
Khôi huyện quân không còn một toán.
Bởi trời muốn thử ta để trao nhiệm vụ,
Nên ta càng gắng chí để chống gian nan
Tu tập các đám lưu dân, tay vác cần câu ra đánh giặc;
Gắn bó một lòng phụ tử, rượu hòa nước lã để khao quân.
Lấy yếu chống mạnh hoặc đánh lúc bất ngờ,
Lấy ít địch nhiều, hoặc dùng quân mai phục
Rút lại thì lấy đại nghĩa mà thắng được hung tàn;
Lấy chí nhân mà đè được cường bạo.
Dải bồ tát sấm ran chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ, ngót bay.
Sĩ khí nhân thế càng tăng thêm,
Quân thanh nhân thế càng lừng lẫy.
Một bọn Trần Trí, Sơn Thọ, nghe hơi mà bở vía;
Mấy gã Lý An, Phương Chính nhịn thở cầu thoát thân;
Thừa thắng ruổi dài, Tây kinh đã thu phục.
Thuận đường thẳng tiến Đông Đô lại lấy về.
Máu Ninh Kiều lênh láng thành sông, tanh trôi muôn dặm.
Tây Tốt Động (Chúc Động) ngổn ngang đầy nội, như để nghìn năm.
Trần Hiệp (Hạp) là tâm phúc của giặc đã phải bêu đầu;
Lý Lương là sâu mọt dân ta lại liền bỏ mạng.
Vương Thông nhảy vào chữa cháy mà càng cháy,
Mã Anh xông đến gỡ nguy mà càng nguy.
Bó tay đợi chết họ đã quẫn cùng;
Không đánh tự tan, ta dùng mưu thuật.
Vẫn tưởng chúng phải thay lòng đổi ý;
Không ngờ họ còn giở chuyện bày trò.
VÌ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác;
Tham công danh một buổi, để cười cho tất cả nhân gian.
Do đó thằng nhãi Tuyên Đức (vua Minh) nối giáo không ngừng
Khéo sai thằng Liễu Thăng đem dầu chữa cháy,
Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng dẫn binh từ Khâu Ôn tiến đến;
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam kéo sang,
Ta đã đặt phục binh đánh cho giập đầu;
Sau lại đặt kỵ binh, chẹn cho đứt cuối.
Ngày mười tám, Liễu Thăng bị đánh, sa cơ ở Chi Lăng;
Ngày hai mươi, Liễu Thăng bị thua bỏ mạng ở gò Yên Ngựa (Mã Yên)
Ngày hai mươi tám, Thượng Thư Lý Khánh cùng kế phải quyên sinh.
Ta đưa mũi nhọn rạch phăng,
Họ quay đầu giáo đánh lộn;
Kế đó bốn mặt thêm quân để vây bọc;
Định đến trung tuần tháng mười sẽ diệt trừ.
Bèn tuyển những đội quân gấu hùm,
Và sai những bầy tôi nanh vuốt.
Voi uống khiến nước sông với cạn,
Gươm mài nên đá núi thủng mòn.
Một trần mà ngạc mổ kình phanh,
Hai trận mà chim tan, thú giãn.
Tổ kiến lớn phá toang đê núng,
Trận gió to rung trút lá khô.
Đô Đốc Thôi Tụ quỳ gối xin thương.
Thượng Thư Hoàng Phúc cúi đầu chịu trói.
Lương Sơn, Lạng Giang, thây chết nằm bề bộn;
Xương Giang, Bình Than, máu đỏ nhuộm lênh lang.
Gió mây đến nỗi bàng hoàng,
Nhật nguyệt ra chiều ảm đạm,
Quân Vân Nam bị ta chẹn ở Lê Hoa, hồ đồ sợ bón mà trước tự vỡ mật;
Quân Mộc Thạnh bị ta phá ở Cần Trạm, dầy đạp lẫn nhau mà chạy lấy thoát thân
Lãnh câu máy chảy đầy sông, nước vang tiếng rú;
Đan xá thây trồng khắp nội, cỏ đẫm màu hoen.
Cứu binh hai đạo đã vơ tan tành;
Cùng khấu các thành đều cởi giáp hàng phục.
Tướng giặc bị cùm, van vi họ đã xin cho toàn mạng;
Thần võ chẳng giết, khoan hồng ta cũng mở lượng hiếu sinh.
Bọn Tham Chính Phương Chính, Nội Quan Mã Kỳ,
Trước được cấp năm trăm chiếc thuyền, đã vượt bể mà vẫn hồn kinh phách tán;
Lũ Tổng Binh Vương Thông, Tham Chính Mã Anh,
Lại được cấp mấy nghìn cỗ ngựa, đã về nước mà còn mặt xám mày xanh.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng,
Ta thấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế đã xâu xa nhiều lắm,
Cũng là xưa nay chưa nghe thấy bao giờ.
Xã tắc từ đây sẽ vững yên,
Non sông từ đây sẽ đổi mới.
Càn khôn đã bỉ mà lại thái,
Nhật nguyệt đã mờ mà lại trong.
Đặng mở nền bình trị muôn năm,
Đặng rửa vết thẹn thùng nghìn thuở?
Âu cũng do trời đất tổ tông linh thiêng,
Đã lặng thầm giúp vì mới được thế
Ôi! Ba quân rong ruổi, hoàn thành công đại định.
Mừng nay bốn bể thăng bình, bá cáo lời duy tân từ đó,
Bảo khắp tiên hạ, ai nấy đều hay.
NHÀ HẬU LÊ
1) Lê Thái Tổ
2) Lê Thái Tông
3) Lê Nhân Tông
4) Lê Thánh Tông
5) Lê Hiến Tông
6) Lê Túc Tông
7) Lê Uy Mục
8) Lê Tương Dực
9) Lê Chiêu Tông
10) Lê Cung Hoàng
I - Lê Thái Tổ (1428 – 1433)Trước đây, vì vấn đề thể diện của nhà Mnh, Bình Định Vương phải đưa Trần Cao ra cho hợp lý “phù Trần diệt Hồ” mà bọn Trương Phụ đã tung ra trong lời hịch. Nay việc chiến tranh đã yên, nếu Trần Cao đóng vai nguyên thủ, tình thế sẽ ngang trái bởi quốc dân quan niệm vị cộng chủ của quốc gia phải là người có công ơn với đất nước và có tài đức khả dĩ để chế phục nhân tâm.Trần Cao biết địa vị mình sẽ là điều khó xử cho quốc dân nên bỏ trốn vào châu Ngọc Ma (phủ Trấn Ninh), sau bị bắt và phải uống thuốc độc mà chết.
Bình Định Vương lên ngôi năm Mậu Thân (1428), đặt quốc hiệu là Đại Việt.
Ngài cho sứ sang tàu cầu phong nhưng nhà Minh không nghe đòi phải kiếm người khác thuộc dòng nhà Trần để lập làm vua. Hai ba lần biểu qua sứ lại, các phụ lão nước Nam vẫn khai họ Trần không còn ai nữa, sau vua Minh phải thuận.
Nước ta cứ ba năm phải cống nhà Minh một lần và lần nào cũng phải đúc hai người bằng vàng gọi là “Đại thân kim nhân” để thế mạng cho Liễu Thăng và Lương Minh là 2 viên đại tướng đem viện quân sang bị ta đánh bại và tử trận. Âu cũng là một cách bòn rút của triều Minh khi họ phải gặt nước mắt rời bỏ mảnh đất phương Nam béo bở này. Nước ta nhỏ mà các lân quốc Đông Nam Á cũng chỉ là những tiểu dân tộc không thể hợp thành được một sức mạnh để chống lại Trung Quốc, đành thi hành câu “tránh voi chẳng hổ mặt” miễn là họ đừng phạm vào chủ quyền của nước ta. Việc thần phục chỉ là một chuyện hình thức mà thôi. Các triều đại trước đã áp dụng mánh lới ngoại giao này, các triều đại sau cũng không thể làm khác được.
Vua Thái Tổ phong thưởng cho các công thân, đó là việc tất nhiên phải làm trước. Đứng đầu quan văn là Nguyễn Trãi, đứng đầu võ quan là Lê Văn. Các đại thần có Trần Nguyên Hãn làm Tả Tướng Quốc, Phạm Văn Xảo giữ chức Thái Úy.
Công thần chia ra làm ba bậc để hưởng tước. Bậc nhất được hưởng tước Thượng Trí Tự. Bậc nhì được tước Đại Trí Tự. Bậc ba được Trí Tự.
1 – Học Chính
Vua Thái Tổ cho đặt trường Quốc Tử Giám ở kinh đô, lấy các thanh niên con các quan và con thường dân tuấn tú vào học tập (theo Trung Quốc thời cổ). Ở các phủ, các lộ cũng mở các trường để thông việc học khắp dân gian. Ngài cho lập Minh Kinh khoa buộc các quan văn võ tứ phẩm trở xuống phải thi về kinh sử và các môn võ. Có lẽ đây là một khoa thi có tính cách bổ túc, bởi trong thời kháng chiến chưa có sự đào luyện nhân tài. Ở các lộ cũng mở khoa Minh Kinh để các người ẩn dật ứng thí và xuất đầu lộ diện.
Những tăng nhân (Phật Lão) cũng phải khảo hạch. Ai hỏng thì phải hoàn tục.
Năm Thuận Thiên thứ hai (1429), triều đình mở khoa thi Hoành Từ ở nơi dinh cũ Bồ Đề. Thượng Thư Lê Văn Linh làm Đề Điệu, quan Thừa Chỉ Nguyễn Trãi làm Giám Thị. Trong những đầu bài ra cho sĩ tử khoa này, có bài thơ “Chân cho chính trực” và bài hịch Thiên hạ cần vương, lấy đỗ 6 người là Mạc Thiên Tích, Đào Công Soạn, Trịnh Thuấn Du, Phan Phù Tiên…
2 – Luật Pháp
Vua Thái Tổ cho thi hành hình luật nhà Đường. Có 5 thứ hình phạt: tội xuy, tội trượng, tội đồ, tội lưu và tội tử.
1) Tội xuy, chia ra 5 hạng từ 10 roi đến 50 roi.
2) Tội trượng cũng vậy, từ 60 đến 100 trượng.
3) Tội đồ có ba hạng: đồ làm dịch đinh, làm lính chuồng voi, làm lính đồn điền.
4) Tội lưu có ba hạng: lưu đi châu gần là vào Nghệ An, đi xa là vào tới châu Bố Chính – đi ngoại châu là tới Tân Bình.
5) Tội tử có ba bậc: tội thắt cổ và chém, tội chém bêu đầu, tội lăng trì.
Trong hình luật còn có việc Bát Nghị, tức là tám trường hợp giảm khinh cho các công thần và quốc thích. Ai được vào hạng bắt nghị thì Hình Quan phải tâu lên để vua xét lại.
Những cựu thần hay công thần từ ngũ phẩm trở lên nếu phạm tội đồ hay tội lưu thì được tha. Con cháu của các người ấy phạm tội thì được giảm. Quan viên và quân dân lỡ phạm tội lưu thì được chuộc. Những người già 80 tuổi trở lên, những con trẻ từ 10 tuổi trở xuống hay có tật nguyền cứ theo thứ tự được khoan giảm, kẻ phạm tội mà ra tự thú cũng được ân giảm. Trong nước bấy giờ có nhiều kẻ du đãng, ham cờ bạc rượu chè, bỏ việc làm ăn, để sửa đổi phong hóa các nhà đương đạo tỏ ra rất nghiêm khắc. Kẻ đánh bạc phải chặt ngón tay tới ba phân. Kẻ đánh cờ phải chặt ngón tay một phân. Không có lý do xác đáng họp nhau rượu chè phải đánh 100 trượng. Người chứa kẻ ăn uống cũng phải chịu trách nhiệm và chịu hình phạt nhẹ hơn.