← Quay lại trang sách

CHƯƠNG X (tt)

LÊ HIẾN TỐNG (1497 – 1504)

Kế nghiệp vua Thánh Tông là Thái Tử Tăng tức vua Hiến Tông. Thái Tử là con cả trong số 14 con trai và 20 con gái của nhà Vua.

Vua Hiến Tông là một ông vua thuần hòa, thông minh, không hề gắt với ai bao giờ và kẻ có lỗi còn được Ngài khuyên như êm ái. Chính sách của Ngài là tiếp tục sự nghiệp của tiền triều, mọi mối giềng khuôn phép đều nhất nhất để nguyên vẹn. Có lẽ Ngài không có sáng kiến nên chỉ lo theo đuổi đường lối của vua Thánh Tông để lại, và như ta thấy, số quần thần cũ vẫn đông đủ, trước kia với Thánh Tông thì nước ta được mở mang nhiều, vậy mà với Hiến Tông ta không thấy có sự tiến bộ hay sự mới lạ nào hết. Phải chăng vì Hiến Tông cho rằng chính sách cũ của vua cha đã tận thiện, tận mỹ rồi chớ phải đâu số nhân tài của tiền triều để lại vẫn đủ nay vua Thánh Tông qua đời lại khong làm nổi thêm việc gì nữa? Theo chúng tôi ở dưới chế độ quân chủ, độc tôn, vận mệnh và sự tiến hóa của dân tộc thường chịu quá nhiều ảnh hưởng của vị chúa tể. Nước sinh phát đạt, nhân tài nảy nở nhiều, chính sự được giải quyết mỹ mãn. Trái lại, với một ông vua tầm thường thiển cận thì bộ máy nhà nước bị ngừng trệ hoặc thoái bại, mặc dầu nước có người hiền và dân có khả năng tiến hóa…

Nhờ có uy thế của tiền triều từ trong ra ngoài nên dưới đời Hiến Tông tuy không có sự tiến bộ nào hơn thuở trước nhưng nước vẫn được yên ổn. Hiến Tông chú ý nhiều đến việc nông tang, đê điều, sông ngòi, đắp đường làm guồng nước để tiện nghề cầy cấy. Đối với việc văn học, nhà vua cũng trông nom chăm sóc. Tóm lại vua Hiến Tông là một ông vua bảo thủ và nhà Hậu Lê đến đời vua Thánh Tông đã làm cho dân tộc Việt Nam cường thịnh đến mực nào thì đó là mực chót. Ta còn phải nghĩ rằng may cho dân tộc là vua Thánh Tông đã làm khá nhiều việc.

Vua Hiền Tông trị vì được 7 năm thì mất thọ được 44 tuổi. Sau Ngài, dòng họ Lê bắt đầu suy nhược như nhiều vương triều khác.

LÊ TÚC TÔNG (1504 – 1505) III. LÊ UY MỤC (1505 – 1509)

Người con thứ ba của vua Hiến Tông tên là Thuần lên ngôi sau khi Hiến Tông qua đời, tức là Túc Tông.

Sau 6 tháng ở ngôi Túc Tông mệnh một. Anh Ngài là Tuấn được triều đình tôn lập tức là vua Lê Uy Mục. Vừa nắm được quyền hành, Uy Mục đã giết ngay bà tổ mẫu Thái Hoàng Thái Hậu, quan Lễ Bộ Thương Thư Đàm Văn Lễ và quan Đô Ngự Sử Nguyễn Văn bật để trả cái thù trước đây, khi vua Hiến Tông qua đời, ba người này không tán thành việc mình lên ngôi.

Lê Uy Mục rất tàn ác, say mê tửu sắc, đêm nào cũng uống rượu với cung nhân, lúc sau quá chén thường đem giết cung nhân. Cái thú khác của Uy Mục là bắt quân sĩ lấy gậy đánh nhau để mua vui trong khi người ta vỡ đầu, xẻ tai.

Tính hung bạo và vô nhân đạo của Uy Mục khiến dân bất phục vì vậy trong nước xảy ra nhiều giặc giã, trộm cướp. Rồi Uy Mục biết mình không được cảm tình của dân chúng nên phải dùng một số ngoại thích có sức mạnh vào cung để làm túc vệ, do sự kiện này, Mạc Đăng Dung, cháu bảy đời Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi, lúc hàn vi làm nghề đánh cá ở Hải Dương nhờ sức khỏe và võ nghệ hơn người, đỗ Đô Lực Sĩ, được trọng dụng dần tới chức Đô Huy Sứ là một võ chức tối cao trong triều đình, sau này đã gây nên một cuộc đảo lộn thời cuộc trên nửa thế kỷ (1527 – 1529).

Ngoài ra, vua đã thất chính như vậy, thì không lạ gì một số công thần cùng tông thất bị đánh đuổi, dân gian bị hà hiếp hay có nhiều đại thần bỏ quan trốn đi nữa.

Sứ Tàu qua Việt Nam nhận thấy Uy Mục bạo ngược, phản trắc, gọi Uy Mục là Quỷ Vương.

Tháng chạp năm Kỷ Tỵ (1509) cháu vua Thánh Tông là Oanh tức Giả Tu Công là anh em thúc bá với Uy Mục bị bắt giam, đem tiền lót cho quân canh ngục trốn thoát về Tây Đô, triệu tập được các cựu thần, đem quân áp đảo thành Thăng Long bắt Uy Mục và Hoàng Hậu Trần Thị đem giết. Cuộc đảo chính thành công, Giản Tu Công lên ngôi tức vua Tương Dực.

IV. LÊ TƯƠNG DỰC (1510 – 1516)

Ông vua thứ bảy của nhà Hậu Lê cũng không hơn gì Uy Mục, trái lại còn xa xỉ và đàng điếm hơn. Mức sống của dân chúng đang bốc cao dưới mấy đời vua trước bắt đầu ngưng trệ, kho tàng của nhà nước cạn sạch dần. Vua ủy cho Vũ Như Tô xây một chiếc Cửu Trùng Đài và một cái đền 100 nóc. Quân dân nhật dạ làm luôn mấy năm không xong, hao tốn tiền và sinh mạng rất nhiều.

Vua lại cho đóng thuyền và tổ chức những đội binh phụ nữ để chèo thuyền rong chơi múa hát ở Tây Hồ. Trong đám phụ nữ mua vui cho nhà vua có cả các cung nhân của tiền triều, đáng lẽ vua phải kiêng kỵ điều đó nhưng nhà vua cũng chẳng đếm xỉa đến luật lệ của hoàng gia, đạo đức của dân tộc nên tư thông với cả bọn người đó. Vào cái thời người ta còn sùng thượng nền luân lý Khổng Mạnh, đây là cái điểm đáng chú ý và càng không thể tha thứ nếu những kẻ vi phạm lại là các vua chúa, những người đáng lý phải làm gương mẫu cho trăm họ. (Sứ nhà Minh phê bình vua Tương Dực có tướng lợn, đó là điềm loạn vong sắp xảy ra).

Việc thuế má đời bấy giờ vẫn theo các đời trước nhưng không rõ hàng năm thu hoạch được những gì cho nhà nước. Sử chỉ chép dưới đời vua Tương Dực thuế vàng và thuế bạc đồng niên thu được:

Vàng thập, thứ tốt nhất gọi là “ kiêm kim” được 480 lượng; vàng cửu 2883 lượng; bạc 2930 lượng.

Nay vua Tương Dực lập lại thể lệ và thu được là:

Vàng “kiêm kim” 449 lượng; vàng cửu 2901 lượng; bạc 6125 lượng.

Số vàng bạc thu vào kho tùy nhà vua tiêu dùng theo sở thích.

Việc văn học không thấy nói có phát triển được phần nào duy có ông Vũ quyền làm quan Binh Bộ Thượng Thư soạn xong được bộ Đại Việt Thông GIám gồm hai phần, từ thời Hồng Bàng đến giai đoạn Thập Nhị Sứ quân là ngoại kỷ. Còn từ nhà Đinh đến đời Hậu Lê là bản kỷ, tất cả có 26 quyển, ông Lê Trung được viết bài tổng luận.

Các Mối Loạn

Thế kỷ XVI của nhà Hậu Lê đã đánh dấu bằng nhiều mối loạn ly trong nước, điều dĩ nhiên phải sinh ra khi quốc chính bại hoại. Một số lương thần như các ông Lê Trung, Lương Đắc Bằng…người thì già người thì chết, người thì cáo quan về ở ẩn, không còn người đứng đắn đủ uy tín ngăn cản những hành động trái lẽ của vua Tương Dực và giữ vững triều cương. Đây là dịp những kẻ chọc trời khuấy nước và bất mãn với chế độ tập hợp dân chúng đói khổ nổi lên chống lại triều đình. Tình trạng này ngày càng mở rộng vết đau thương của trăm họ. Trần Duy Nhạc và Ngô Văn Tổng dấy quân ở Kinh Bắc hoành hành khắp vùng Đông Ngạn và Gia Lâm. Trần Luân đánh phá Sơn Tây. Phùng Chương quấy miền Tam Đảo. Trần Công Ninh chiếm giữ Yên Lãng (Phúc Yên). Tại Nghệ An có bọn Lê Hy, Trịnh Hưng, Lê Văn Triệt vùng vẫy. Đáng kể kiệt hiệt là thầy chùa Trần Cao mạo xưng con cháu họ Trần cùng con là Thăng, tướng là Phạm Ất người Chiêm Thành thấy sấm nói ở phương đông có thiên tử khí cùng với đồ đảng dấy quân ở huyện Thủy Đường chiếm đóng tỉnh Hải Dương và huyện Đông Triều tuyên truyền mình là Đế Thích giáng sinh. Nhân dân nhẹ dạ lại tin chuyện quỷ thần, theo Trần Cao tới hàng vạn. Bọn này tiền đinh đóng ở Bồ Đề bên kia sông Nhị Hà sửa soạn tấn công thành Thăng Long. Nội bộ Lê triều trong giai đoạn rối ren này đáng kể là nghiêm trọng.

Quân của triều đình sang đánh. Trần Cao lui về Châu Sơn thuộc phủ Từ Sơn(vẫn trong địa hạt Kinh Bắc). An Hòa Hầu là Nguyễn Hoằng Dụ đem binh ngăn đón loạn quân tại Bồ Đề phòng vệ kinh đô.

Đáng lẽ vua Tương Dực phải tỉnh ngộ, phải sửa đổi tư cách để định quốc an dân trong tình thế nhiễu nhương này, trái lại nhà vua vẫn giữ mọi tính hư hèn, khinh rẽ, bạc đãi các đại thần và do đó tự đào hố chôn mình. Nguyên Quận Công Trịnh Duy Sản vốn có công đánh giặc từ lâu, nhưng vì trực tính, hay can vua trong các việc đàng điếm, nhà vua không bằng lòng, và có lần hạ lệnh đánh họ Trịnh trước sân rồng. Uất ức cho thân thế mình là kẻ rường cột của nhà nước bị nhục một cách vô lý, Trịnh mưu cùng các thủ túc là Lê Quang Độ và Trịnh Chí Sấm sẵn binh đội trong tay giả tiếng đi đánh giặc nửa đêm đem quân phá cửa Bắc Thần vào giết vua Tương Dực.

Vua Tương Dực trị vì được 8 năm, thọ 24 tuổi.

LÊ CHIÊU TÔNG

VI. LÊ CUNG HOÀNG (1516 – 1527)

Theo Việt Nam Sử Lược cũng như nhiều cuốn sử do người Pháp viết (Cours d’histoire D’Annam par Maybon et Russier. Pays d’Annam par C.Luro…) trong khi nhà Hậu Lê xuống dốc có nhiều sự lộn xộn và rất bi đát dưới đây:

Sau khi vua Tương Dực bị hạ sát thì bọn Trịnh Duy Sản họp các quan trong triều tôn lập Mục Ý Vương là Quang Trị mới lên 8. Một người không tán thành là Võ Tá Hầu Phùng mại bàn nên lập cháu ba đời vua Thánh Tông là con của Cẩm GIang Vương lúc đó đã 14 tuổi. Bọn Trịnh Duy Sản sẵn lực lượng quân sự trong tay thấy có sự phản đối liền đem chém ngay Phùng Mại tại giữa Nghị Sự Đường, có lẽ để ra oai với những phần tử khác còn lưỡng lự hoặc có ý chống họ.

Quang Trị lên ngôi chưa kịp đặt niên hiệu thì Trịnh Duy Đại anh của Trịnh Duy sản cầm đầu phe đối thủ của Sản cướp thiếu quân đem vào Thanh Hóa. Quang Trị vào Tây Kinh được ba hôm thì bị giết, vì lý do gì không thấy sử nói tới.

Còn Cẩm Giang Vương là nói trên được bọn Trịnh Duy Sản tôn lập thay cho Quang Trị tức là Chiêu Tông rồi đưa vào Tây Kinh, có lẽ tình thế bấy giờ khẩn trương lắm. Giặc Trần Cao lợi dụng sự bối rối của triều đình liền tiến qua sông Nhị đánh vào kinh thành rồi tiếm hiệu xưng vương ở đây. Thế giặc lúc này rất lớn. Triều đình vòa tới Tây Kinh truyền hịch đi mọi nơi tập trung quân đội ra Đông Đô trừ giặc.

Đứng đầu các tướng lĩnh và cựu thần bấy giờ là bọn Trịnh Duy sản, Nguyễn Hoằng Dụ, Trịnh Tuy, Trần Chân chia binh đánh vào Đông Đô, vây hãm các mặt khiến Trần Cao phải bỏ chạy lên Lạng Sơn. Triều đình lại trở về Đông Đô là Trịnh Duy Sản được cử đem quân đuổi theo Trần Cao. Trịnh khinh địch bị tử trận và giặc sau khi hạ được họ Trịnh quay lại Bồ Đề nhưng bị Thiết Sơn bá, Trần Chân phá được. Trần Cao lại rút về Lạng Sơn thấy không thực hiện được giấc mộng Bá Vương nên nhường binh quyền cho con là Thắng rồi cắt tóc đi tu để tránh mọi sự truy tầm.

Trong lúc này vua Chiêu Tông vẫn làm vua nhưng cái tuổi 14 dĩ nhiên ông vua thơ ấu ấy không làm nổi việc gì. Ông thành bù nhìn hay con người máy của các đại thần và các chúa phong kiến. Giờ đây giữa triều đường các phe đảng mọc ra như nấm, ai ai cũng nêu danh nhà vua để hành động và tranh giành ảnh hưởng trong lúc từ thôn quê ra tới thành thị giặc cướp hoành hành, nhân dân nheo nhóc đói khổ.

Rồi các đại thần thù hằn nhau, đem quân đánh lẫn nhau, chẳng một ai không vỗ ngực phò vua, giúp nước, an dân…Trịnh Tuy bất hòa với Nguyễn Hoằng Dụ. Hai bên đánh nhau mãi, vua can không được. Trần Chân đem binh giúp Trịnh Tuy, Nguyễn Hoằng Dụ phải chạy vào Thanh Hóa.

Lại một phen nữa, Trịnh Duy Đại (kẻ cướp và giết vua Quang Trị) mưu phản bị người tố cáo nên phải giết cùng với các dư đnagr. Trong lúc này một lực lượng thứ bar a đời: Mạc Đăng Dung. Vua Chiêu Tông vời họ Mạc lúc này là Vũ Xuyên Hầu đang cầm quân ở Hải Dương về đánh Nguyễn Hoằng Dụ. Mặc Đăng Dung được thư riêng của Nguyễn Hoằng Dụ không đem quân vào Nam nữa.

Trong triều bấy giờ Trần Chân giữ nhiều quyền binh. Có người nói họ Trần mưu phản. Vua Chiêu Tông liền cho vời họ Trần vào thành rồi đóng cửa giết. Bộ tướng của Trần Chân là Hoàng Duy Nhạc, Khuyễn Kính, Nguyễn Áng nghe tin họp quân đánh phá kinh thành. Vua phải xuất bôn, cho người vào Thanh Hóa mời Hoằng Dụ ra nhưng Hoằng Dụ từ chối, nhà vua lại phái sứ giả qua Hải Dương tìm Mạc Đăng Dung vì không còn trông cậy vào ai được nữa. Mạc Đăng Dung đem vua về Bồ Đề cho người mật dụ Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính. Bọn ấy xin giết Chư Khải, Trịnh Hựu, Ngô Bình đã xui vua hại chủ tướng của họ, rồi sẽ về hàng. Vua ưng theo giết ba người kia, vậy mà bọn phiến loạn vẫn không chịu giải binh. CHúng lại liên kết với lũ Trịnh Tuy, Nguyễn Sư lập Lê Do lên làm vua đóng hành điện ở Từ Liêm. Thế giặc rất mạnh, vua lại cho triệu Hoằng Dụ ra để hợp lực cùng Mạc Đăng Dung đối phó với loạn quân, Hoằng Dụ đem quân ra đánh trước bị bại trận lại phải rút về Thanh chỉ còn họ Mạc trở lại để giải quyết tình thế. Được ít lâu họ Mạc trừ được bọn Lê Do, Trịnh Tuy và Nguyễn Sư, bắt được lại kinh thành. Quyền binh của triều đình từ đấy lọt sang tay Mạc Đăng Dung và thanh thế họ Mạc từ đó bốc lên rất mạnh.

Triều đình bấy giờ chia làm 2 cánh: một phò Mạc Đăng Dung, một chống lại Đăng Dung. Trong những người không tán thành quyền lực mới, có kẻ bị giết, có kẻ cáo quan ra về.

Vua Chiêu Tông ngầm bàn với bọn Phạm Hiến, Phạm Thứ dùng võ lực trừ khử Mạc Đăng Dung và cử người vào Tây Kinh bảo Trịnh Tuy đem binh ra tiếp ứng. Sau khi âm mưu này đã được quyết định, nhà vua trốn lên Sơn Tây ngay đêm ấy để tính việc ra binh. Sáng hôm sau Mạc Đăng Dung hay tin biến, liền cử Hoàng Duy Nhạc đem quân đuổi theo nhưng Nhạc tới huyện Thạch Thất thì bị quân sở tại giết được. Mạc Đăng Dung liền lập ngay Hoàng Đệ lên thay tức là Cung Hoàng đổi niên hiệu là Thống Nguyên để yên lòng dân. Mạc Đăng Dung sợ quân đội của vua Chiêu Tông sẽ đánh vào kinh thành nên thiên cả triều đình mới về đất Gia Phúc nay là Gia Lộc tỉnh Hải Dương. Xét việc này, ta thấy lực lượng của thuở ấy cũng khá mạnh bởi được hào kiệt các nơi theo về rất nhiều nên họ Mạc phải di chuyển triều đình mới đi nơi khác. Tiếc thay vua Chiêu Tông phần còn ít tuổi, phần bất tài nên không đối phó nổi với thời cuộc trong một giai đoạn vô cùng nghiêm trọng. Vua chỉ nghe bọn hoạn quan Phạm Điền, các việc quan trọng đáng lẽ phải bàn với các đại thần và tướng lĩnh. Dần dần, lòng người chán nản, rời rã. Vua lại cho vời Trịnh Tuy ở Thanh Hóa đem binh ra giúp mấy lần nhưng Trịnh Tuy do dự, có lẽ cũng hiểu qua tình trạng của vua Chiêu Tông. Sau Trịnh Tuy cũng thuận lòng đem ra Bắc Hà hơn một vạn binh sĩ. Một việc vụng về đã xảy ra. Vua Chiêu Tông nghe lời bọn Phạm Điền giết Nguyễn Bá Kỷ, thuộc tướng của Trịnh Tuy làm cho Trịnh bất bình. Trịnh liền bắt vua đem về Thanh Hóa, thật là một việc vô tình đã trực tiếp dọn đường sửa lối cho Mạc Đăng Dung bước vào Thăng Long nắm lấy địa vị chúa tể Bắc Hà. Không một ai chối rằng đất Bắc thuở ấy là cái nhà vô chủ bỏ ngỏ?

Năm Giáp Thân (1524) lực lượng Nam Hà của vua Chiêu Tông và Trịnh Tuy bị binh tướng miền Bắc tấn công tại chỗ, Trịnh Tuy thu trận rồi chết, vua Chiêu Tông bị bắt cũng bị hạ sát ở Đông Hà thuộc huyện Thọ Xương, làm vua được 11 năm, thọ 26 tuổi.

Vua Chiêu Tông mất, lịch sử Việt Nam mở màn cho một triều đại mới: triều Mạc. và từ đây tấn trò tam phân ngũ liệt đã diễn ra trên sân khấu Việt Nam làm đổ chan hòa biết bao nhiêu máu và nước mắt của con dân đất Việt từ sông hị Hà tới bờ Nhật Lệ.