CHƯƠNG XI NHÀ MẠC (1527 – 1667)
Mạc Đăng Dung (1527 – 1529)
- Mặc Đăng Doanh (1530 – 1540)
- Mạc Phúc Hải (1541 – 1546)
- Mạc Phúc Nguyên (1546 – 1561)
- Mạc Mậu Hợp (1562 – 1592)
Mặc Đăng Dung (1527 – 1529)1 – Tình Trạng Việt Nam Đầu Thế Kỷ 16
Đầu thế kỷ 16, vua Thái Tổ nhà Hậu Lê, với sự hậu thuẫn mạnh mẽ và kiên quyết của toàn dân, đã lập lên một sự nghiệp bất hủ trong sử xanh là đánh đuổi được quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi, sau 10 năm chiến đấu đầy hy sinh gian khổ.
Từ Thái Tổ đến Thánh Tông, hùng khí của dân tộc Việt Nam mạnh như sóng cồn, nếu đem so sánh Việt nam với các lân quốc Á châu thì ta có thể tự hào rằng mình là một quốc gia cường thịnh bậc nhất ở Đông Nam Á về mọi phương diện.
Văn trị, võ công rạng rỡ đến thế là tột bực, đến cả vấn đề cược vực cũng được mở rộng hơn bao giờ hết. Ta nhớ rằng dưới đời Hậu Lê, biên giới Việt Nam đã đi sâu vào đất Chàm, vua Thánh Tông đã xua đuổi Chiêm quân đến Phan Lung rồi chia Chiêm quốc thành ba tiểu quốc.
Trong giai đoạn lịch sử này, ngó về cục diện Âu châu, ta thấy nước Pháp vừa mới phục hồi được ít lâu sau cuộc Bách niên chiến tranh (Guerre de cent ans) và nước Anh còn đang đau khổ trong các cuộc khói lửa vô cùng tàn hại (Guerre des deux Roses) trên khắp mọi nơi trên đảo quốc. Đây là nhận xét của giáo sư Jean Chesneaux, tác giả cuốn “Contribution à l’histoire de la Nation Vietnamienne”, xuất bản tại Ba Lê (1955), kể ra để khen ngợi với đời Hồng Đức nước Việt Nam đã văn minh thịnh trị, ngay so cả với nhiều nước lớn ngày nay ở Âu châu vào thời ấy.
Đáng tiếc đến hết đời vua Thánh Tông thì cái đà tiến hóa của dân tộc bị ngừng lại. Lý do của sự ngừng tiến là bởi các vua kế vị Thái Tổ, Thánh Tông, Hiến Tông đều nhỏ tuổi cả và như thế kém cả tài lẫn đức nên không những không thúc đẩy thêm được cái đà tiến hóa của dân tộc mà ocnf đi đến chỗ dật lùi rồi dần sa vào hố suy vong.
Từ vua Tương Dực tới Chiêu Tông và Cung Hoàng, vương quyền bại hoại rõ rệt, do đó các đại thần tướng lĩnh tha hồ mà tranh giành quyền hành. Mối loạn bắt đầu. Tính ra từ vua Thái Tổ đến Cung Hoàng là lúc khởi sự cường thịnh, đến lúc tàn tạ vừa đúng một thế kỷ (1428 – 1527), sau 10 vị vua lớn nhỏ.
Theo tác giả “Xã Hội Việt Nam”, khi nhà Hậu Lê mới dấy nghiệp, các lãnh tụ phong kiến đều vừa là quan liêu vừa là địa chủ. Bấy giờ họ còn non nớt và còn biết e dè uy quyền của nhà vua xây dựng trên những nguyên tắc thương dân thương nước, họ chưa dám tác yêu, tác quái. Các quyền lợi của họ một phần đã do ân sủng vì công lao chiến đấu với vua Thái Tổ trước đây mà có, sau này lại do sự bóc lột dần dần mà lớn lên mỗi ngày, buổi đầu là do những căn nguyên chính đáng rồi sau do chỗ lạm quyền lạm thế. Tới khi uy quyền của nhà vua sút đi thì uy quyền của họ lại mạnh thêm. Ngoài ra, giữa các quan liêu, phú hào, họ càng đông thì mầm chia rẽ càng nhiều, rồi một cơ hội đã thuận tiện cho mầm chia rẽ đó là nước Đại Việt từ thế kỷ XV đã thành một quốc gia rộng lớn nhưng nền kinh tế phát triển không kịp, lãnh thổ chia sẻ quá nhiều vào các quan liêu, phú hào, sau này triều đình yếu hèn quá không kiểm soát nổi họ. Rồi bọn này mạnh bao nhiêu, sự bóc lột và áp chế nhân dân nhiều bấy nhiêu. Dân có đau khổ mà kêu trời thì “thiên cao, hoàng đế viễn”. Trong cái tình trạng bế tắc ấy, chính người dân cũng muốn phiến động để tìm ra lối thoát.
Thế là giữa các phần tử của chính quyền đã có sự cạnh tranh chia rẽ mà chính quyền vì không bênh vực nổi quyền lực của nhân dân nên đối với nhân dân cũng thành giáo, mộc, thù nghịch, thì xã hội Việt nam sớm chầy phải tan rã và đi sang một thế khác. Đó là lý đương nhiên.
Cái không khí nghẹt thở ấy đã phát sinh từ đời vua Uy Mục đến Chiêu Tông, luôn 20 năm ròng rã mới nảy ra cuộc biến loạn trên toàn cõi Việt Nam kể cũng đã muộn.
Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu ba nhân vật đã tranh hùng, tranh bá, đã chịu trách nhiệm làm tan rã nền thống nhất của nước nhà và đã gây nên bao nhiêu cảnh núi xương, sông máu từ Cao Bằng vào tới bờ sông Nhật Lệ: Mặc Đăng Dung, Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng.
2 – Tiểu Sử Của Mạc Đăng Dung
Mạc Đăng Dung thuộc dòng dõi Trạng Nguyên Mạc Đỉnh Chi và là cháu 7 đời của ông, quê ở Đông Cao, một làng thuộc huyện Bình Hòa, tỉnh Hải Dương. Huyết thông của ông như vậy đáng kể là cao quý. Sau cha mẹ ông dời sang làng Cổ Trai thuộc huyện Nghi Dương, tỉnh Kiến An bây giờ. Đến thế hệ của ông thì đã sa sút nhiều nên gia đình ông phải sinh sống bằng nghề đánh cá nhưng nhờ có sở trường võ nghệ, họ mạc thi đậu Đô lực sĩ dưới thời vua Uy Mục, rồi trên hoạn lộ ông tiến bước dần đến tước Vũ Xuyên bá. Ông thăng Vũ Xuyên hầu dưới đời của vua Chiêu Tông và được giao trọn binh quyền thuở ấy, sau khi Hoàng Duy Nhạc vì báo thù cho chủ (Trần Chân) mà gây loạn ở kinh thành.
Theo Đặng Đình Long, tác giả “Ai vô xứ Nghệ”, lý lịch của họ Mạc có những chi tiết đặc biệt như sau:
Họ Mạc thuộc dòng dõi Cơ Chất Khiết tức là con cháu họ Cơ nhà Châu làm vua bên Trung Hoa. Gặp hồi suy vong nhà Châu mất nước, Cơ Chất Khiết về ở quận Trác Lộc rồi ra làm Chấp kích lang với nhà Hán. Có công nên được đổi thành họ Mạc và được cai trị đất Trịnh Ấp. Ngày nay ở hạt Nhâm Khâu phủ Hà Gián còn có nơi gọi là Mạc Châu, đó là chỗ phát tích của họ Mạc. Về sau con cháu Mạc Chất Khiết đều hiển đạt cả, rồi dần dần thiên cư về mé Nam Trung Hoa. Đến thời nhà Tống, họ Mạc ở đất Quảng Đông rất thịnh. Rồi một chi họ Mạc ở đất Phiên Ngung di cư sang làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, rồi đến đời Mạc Hiển Tích mới phát đạt.
Mạc Hiển Tích đỗ văn học thủ tuyển năm Bính Dần, niên hiệu Quang Hựu triều vua Lý Nhân Tông làm quan đến Thượng thư. Em Mạc Hiển Tích là Mạc Hiển Quan đỗ văn học niên hiệu Quang Hựu, năm Kỷ Tỵ, huynh đệ đồng triều, sự nghiệp rất hiển hách. Sau năm đời đến Mạc Đỉnh Chi.
Mạc Đỉnh Chi hiệu là Tiết Phu, người bé nhỏ, tướng mạo cực xấu nên người ta thường cho là hầu tinh giáng thế. Mạc Đỉnh Chi thông minh rất mực, đỗ Trạng Nguyên năm Giáp Thìn niên hiệu Hưng Long triều vua Trần Anh Tông, đi xứ Tàu có tài ứng đối được vua Tàu phong cho: “Lưỡng quốc Trạng Nguyên” rồi về nước làm quan đến Đại liêu Bang Tả bộc Xa, tính rất thanh liêm, sau xin từ chức về quê dạy học. (Nay ở xã An Ninh còn di chỉ nền nhà học tức là Trạng Nguyên cổ đường. Làng Long Động thờ làm Thành hoàng).
Con Mạc Đỉnh Chi là Mạc Khán, Mạc Trực đều đỗ Hương Cống làm chức Viên Ngoại Lang đời Trần Dụ Tông. Đến đời thứ tư, một chi sang đất Ma Khê, huyện Thanh Hà rồi lại phân sang làng Cổ Trai thuộc huyện Nghi Dương. Ở Cổ Trai hai đời thì sinh ra Mạc Đăng Dung.
Trong việc thay đổi cảnh trên sân khấu chính trị nước ta bấy giờ, ngoài việc của Chiêu Tông bại trận bị giết, còn lại vua Cung Hoàng, bà Thái Hậu cùng đám quan liêu không thuận theo chiều gió mới bị rơi rụng là lẽ dĩ nhiên. Những nhân vật tuẫn tiết bấy giờ có các ông Vũ Công Duệ, Ngô Hoán, Đô ngự sử Nguyễn Thái Bạt, Lễ Bộ Thương thư Đàm Thận Huy, Tham chính sứ Nguyễn Duy Tường, Quan sát sứ Nguyễn Tự Cường, Bình hồ bá Nghiêm Bá Kỳ, Đô ngự sử Lại Kim Bảng, Hộ bộ Thượng thư Nguyễn Thiệu Trị, Phó Đô ngự sử Nguyễn Hữu Nghiêm, Lễ bộ Tả thị lang Lê Vô Cương, hết thảy là những người có cơm dày áo nặng với cựu triều. Theo Việt Nam Sử Lược, họ đã mắng chửi họ Mạc, nhổ vào mặt họ Mạc hoặc ôm ấn nhảy xuống sông tử vẫn. Đây là phản ứng kiểu tiêu cực của những kẻ yếu thế hay thất thế và chỉ là những hành động tuyệt vọng mà thôi. Một số người khác như Lê Công Uyên, Nguyễn Ngã, Nguyễn Thọ Tường đã khởi nghĩa ở Thanh Hóa bằng binh đao nhưng thất bại. Sau đó Lê Ý nổi quân ở đấy Mã Giang, mấy lần thắng được quân Mạc nhưng sau cũng bị tiêu diệt vì khinh địch.
Nhà Mạc bắt đầu từ năm Đinh Hợi (1527), lấy niên hiệu là Minh Đức. Mặc dù họ Mạc bị một số cố thần nhà Lê không tán thành để giữ tiết tháo. Vừa ra nắm giữ chính quyền Mạc Đăng Dung đã ra công thu dụng các cựu thần của tiền triều, các con cháu các nhà danh gia vọng tọc và truy phong cả những người tuẫn tiết.
Mạc Đăng Dung lên làm vua, theo Minh sử, có ban bố tân chính sách gồm 59 điều luật để áp dụng cấp thời về việc trị nước. Rất tiếc sử ta cũng như sử Tàu không nói rõ 59 điều của họ Mạc ra sao.
Mạc Đăng Dung trị vì được 3 năm thì theo lối nhà Trần nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh rồi về ở Cổ Trai làm Thái Thượng Hoàng. Tuy vậy Mạc Đăng Dung vẫn trực tiếp điều khiển quốc chính.
Năm Canh Dần (1530) Mạc Đăng Doanh lên ngôi lấy niên hiệu là Đại Chính, làm vua đến năm 1540 thì mất, truyền ngôi lại cho con là Mạc Phúc Hải. Mạc Phúc Hải lấy niên hiệu là Quảng Hòa.
Từ Mạc Đăng Dung đến con cháu, triều Mạc vẫn theo đuổi những công cuộc của nhà Lê và có nhiều thiện chí trong việc trị dân giúp nước. Trật tự được phục hồi dần, việc canh nông được khuyến khích, việc thi cử học hành được mở mang. Mạc Đăng Dung lại cho đúc tiền sắt, tiền đồng để tiện dụng trong việc mua bán. Uy quyền của nhà Mạc nhờ vậy mà thấu khắp cõi Bắc Việt. Trong khi này các lực lượng đối lập bị dồn hết vào Thanh Hóa, Nghệ An và Thuận Hóa.
2 – Vụ Trần Thiêm Bình Thứ Hai Trong Lịch Sử Việt Nam
Trong lúc xã hội Việt Nam đi dần đến chỗ đều hòa, thăng bằng, người dân đang tu tạo sự nghiệp sau hai chục năm nước nhà lụn bại về mọi phương diện, một bọn quan lại nhà Lê không thắng nổi họ Mạc lại phải dùng cái chước hèn hạ nhất và cũng tai hại nhất là sang lậy van con cháu Minh Thành Tổ, đúng cái vai trò vô sỉ của bọn Bùi Bá Kỳ, Trần Thiêm Bình đã làm hơn một thế kỷ trước.
Tâm lý của người Minh trước kia thế nào thì sau này cũng lại thế. Bài học lịch sử xưa đã ghi rằng: khi quân Minh cất quân sang đánh nhà Hồ có tuyên ngôn rằng để dựng lại họ Trần, rồi khi nhà Hồ bị tiêu diệt, quân Minh dở mặt lập ngay cuộc đô hộ. Vậy với chuyện thứ hai này, con cháu Minh Thành Tổ sẽ tử tế, nhân đức hơn chăng?
Bọn Trần Thiêm Bình chưa có kinh nghiệm về Bắc phương còn tha thức được một phần nào, chứ bọn cố thần nhà Lê đầu thế kỷ 16 không còn bào chữa tội lỗi vào đâu nữa.
Ngoài bọn người phản đối họ Mạc bằng những xuẩn động này, một bọn người khác đàng hoàng hơn, giữa thanh niên bạch nhật, tung gươm giáo đo tài thử sức với họ Mạc bằng thực lực riêng của mình, tuy phải khoác cái nhãn hiệu “Phù Lê” để có lớp vàng son chính nghĩa. Đó là Nguyễn Kim, Nguyễn Hoàng, Trịnh Kiểm…
Còn Minh Triều lần này, nghĩ ngợi thế nào về vấn đề nước Nam? Cuốn “Quận huyện thời đại chi An Nam” do tác giả Lê Chinh Phụ biên soạn đã kê cứu khá đầy đủ những cuộc bàn luận của vua tôi nhà Minh và cung nhân đây xin nhắc cả đến những quan niệm của Trung Quốc từ Hán, Đường, Tống, Nguyên về dân tộc và đất đai nước ta. Ai thiết tha đến sử học xin lưu ý đến đoạn này.
Lê Chinh Phụ viết: Theo Minh Sử cuốn 182, Lưu Đại Hạ Truyện, từ vua Lê Thái Tổ đến Lê Thánh Tông, Việt nam là hùng cường đánh Chiêm dẹp Lào, có phen lại dám phạm cả biên cảnh các tỉnh Quảng Đông (Quỳnh Lôi), Quảng Tây (Long Châu, Hữu Bình), Vân Nam(Lâm An, Quảng Nam, Trấn An) các tiền triều Trung quốc cũng làm ngơ. Đến đời vua Tuyên Đức bấy giờ, triều Minh cũng không muốn gây sự đến Việt Nam nhưng Thái giám Uông Trực muốn được vua yêu muốn lập biên công, nhận thấy Lê Thánh Tông trước đây không thành công trong việc đánh Lão Qua đã dâng kế hoạch chiếm An Nam[1].
Uông Trực kiếm bản văn kế hoạch chiếm An Nam năm Vĩnh Lạc đưa ra, Đại Hạ Nặc không tán thành, mật báo vứi quan Thượng thư Du Tử Tuấn rằng: “Nếu dấy binh đánh An Nam thì miền Tây Nam Trung quốc không khỏi tơi bời trong khói lửa…” Tử Tuấn nghe ra liền đề nghị bãi bỏ ý kiến của Uông Trực.
Vương Miễn phụng mệnh Minh để qua khám xét việc rối ren do An Nam gây ra tại Quảng Đông trở về cũng xin động binh để hạch tội Lê Thánh Tông liền bị giam vào ngục Cẩm Y Vệ (Thật đáng ngạc nhiên là không thấycuốn sử Việt nam nào nói đến vụ này).
Chiếu xét các việc trên đây ta thấy triều Minh rất kiêng nói đến vấn đề biên giới phương Nam (hẳn là do vang bóng các chiến công diệt Minh của Lê Thái Tổ) rồi cái tâm lý ấy đã hiện trong bài biểu của Đại Học sĩ Từ Phổ như sau:
“Chúng tôi được biết Hoàng đế rất có lòng nhân, không phân biệt Di, Hạ. Nhưng trộm xét: Xuân Thu truyện có nói đấng vương giả không trị di địch, vậy nên ngự di và trị nước không cùng, nước An Nam tuy theo chính sách quan chức nhưng vẫn là ngoại di cậy có thể hiểm hay chống lại thiên triều nhưng thường được các liệt thánh bỏ qua.
Chúng tôi lại thấy trong Tổ huấn chép: Mọi rợ bốn phía đều ngăn sông cách bể, ở hẻo lánh xa xôi, được đất của họ cũng không đủ tốn phí, được dân của họ cũng không đủ sai khiến; nếu họ không lượng sức mà làm bậy, xâm phạm biên cảnh của ta chỉ chuốc lấy điều tai hại mà thôi. Còn ta đánh dẹp cũng không nên, e con cháu sau này cậy giàu mạnh, ham chiến công nhất thời vô cớ hung binh sẽ tổn hại sinh mạng dân chúng. Lời khuyên bảo của Liệt thánh thật là quảng đại, xác đáng cho vạn thế huống chi ngày nay binh mã mạnh yếu thế nào chưa rõ, hao tốn tiền bạc nhiều để chiếm mảnh đất không cỏ mọc chẳng là một việc vô ích thì lại càng không nên”.
Ngự Giao Ký quyển 8 có ý phản đối như sau:
Bọn Từ Phổ coi nước An Nam là ngoại di, đất An Nam không cỏ mọc, việc đánh An Nam là vô ích. Họ đã quên rằng từ đời Tống trở về trước Giao chỉ đã thuộc Trung Quốc hơn ngàn năm. Trong khoảng thời gian dài rằng rặc này, An Nam đã chịu một chế độ chính trị, văn hóa như các quận huyện của người Hán. Là một Đại học sĩ mà không hiểu biết một sự thực trong một ngàn năm lịch sử há chẳng là điều quái gở sao?
Năm Hồng Đức thứ 8 tháng 6 mùa Hạ, quan Trung thư nói về An Nam như sau:
“Đất An Nam ở tận phía Tây Nam, gốc không phải là đất Hoa Hạ, phong tục riêng biệt, nếu gọi là xứ mọi rợ thì các rợ khác khó sánh kịp, có thể nói trái lại An Nam là một nước văn hiến nên lấy lễ độ mà dẫn dắt…”
Ngự Giao Ký quyển 3 viết: Đức Minh Thái Tổ chưa từng có ý coi An Nam thuộc các rợ. Lời Tổ huấn mà bọn Từ Phổ đã nêu ra là: “Mọi rợ bốn phương trong đó không có đất An Nam” là đúng, vả lại từ Hán đến Đường, trải qua các triều đại khác đều cho đất Giao, Quảng là vùng đất phì nhiêu, tại sao đời Minh lại quan niệm về Giao Chỉ khác Hán, Đường?
Ta có thể kết luận rằng đời Minh đa số triều thần ngán việc binh bị với Việt Nam, lại sợ trách nhiệm bởi thuở đó nước ta đang hùng mạnh, nên nói nước ta là đất cỏ không mọc được, người chẳng đủ để sai khiến, của cải chẳng là bao nhiêu chỉ là để làm nản lòng tham của triều đình vốn sặc mùi thực dân đế quốc mà thôi. Thực ra một số khá đông người Minh rất hiểu nước ta ở chỗ văn hiến, kiêng nể chúng ta ở chỗ quật cường và không dám xử với ta như với các dân mọi rợ.
Đó là điều vô cùng vinh hạnh cho nòi giống Việt Nam. Nhưng đến đời Minh Thế Tông (1522 – 1566) con mắt của Bắc phương lại bắt đầu dòm ngó về phương Nam vì một số cố thần nhà Lê đã sang cáo tỏ mọi việc biến loạn trong nước. Thêm vào đó có vụ này:
Năm Gia Tĩnh 15, mùa Đông nhà vua sinh hoàng tử, theo lệ thường ban chiếu cho các nước phụ thuộc biết để đến mừng. Lễ Bộ là Hạ Ngôn trình: Nước An Nam bỏ cống từ hai chục năm nay…Nhà vua có ý bất bình rồi vấn đề Nam chinh được đặt ra bàn đi xét lại hàng tháng. Tuy đa số đình thần không tán thành như trên đã nói, vua Minh vẫn quyết định việc xuất binh “hỏi tội”. Vua cho Hạ Ngôn họp bàn với Binh bộ để tổ chức việc xâm lược, một mặt cho hai quan Cẩm Y qua xét tình hình Việt Nam, mặt khác ra lệnh cho quan trấn các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam chỉnh đốn quân lương đợi ngày hưng sự. Công tác cật vấn tội danh giao cho Thiên hộ Đào Phượng Nghi. Các tỉnh Tứ Xuyên, Hồ Quảng, Phúc Kiến, Giang Tây cũng phải dự trữ các thứ quân nhu để cung cấp cho đoàn quân “Nam phạt”.
Bộ Lễ và Bộ Binh sau đó đã ra chỉ thị cần thiết cho các tướng lĩnh viễn chinh.
4 – Một Cuộc Chiến Tranh Tâm Lý
Quân đội của Cừu, Mao tới Nam Quan thì ngừng lại. Họ cũng tung ra lời hịch như bọn tiền bối[2] của họ, rất thương dân An Nam và thương họ Lê rồi hứa ai bắt được cha con họ Mạc sẽ được thưởng hai vạn lạng bạc và quan tước. Bề khác, họ đưa thư lại cho Mạc Đăng Dung đòi phải sang nộp sổ sách điền thổ thì được tha chết.
Theo Việt Nam Sử Lược (trang 273): “Đến ngày 11 tháng 5 Canh Tý 1540, Mạc Đăng Dung thấy quân Minh sửa soạn sang đánh, sợ hãi quá chừng, bèn để Mạc Phúc Hải ở lại giữ nước, rồi cùng bọn Vũ Như Quế cả thảy hơn 40 người, tự trói mình ra hàng, sang chịu tội ở cửa Nam Quan, lậy phục xuống đất để nộp sổ sách điền thế và sổ dân đinh, lại xin dâng 5 động là: động Tế Phù, động Kim Lạc, động Cổ Xung, động Liễu Cát, động La Phù và đất Khâm Châu. Lại đem vàng bạc dâng riêng cho nhà Minh.
Quan nhà Minh tuy làm bộ hống hách nói đem binh sang đánh, nhưng cũng sợ phải cái vạ như mấy năm bình định ngày trước, và lại được tiền bạc của Mạc Đăng Dung rồi, cái lòng vị quốc cũng nguội đi cho nên mới tâu với vua Minh xin phong cho Mạc Đăng Dung làm chức Đô Thống Sứ hàm quan nhị phẩm nhà Minh.”
Một sự kiện cần được chú ý để hiểu rõ thái độ của triều Mạc khi nhà Minh sai Cừu Loan và Mao Bá Ôn đem quân sang Việt Nam vào năm Đinh Dậu tức là năm 1573 (ba năm trước khi Mạc Đăng Dung thân gặp các đại diện Minh triều) lúc nghe tin Minh dấy quân, triều Mạc chỉ cử một phái đoàn ngoại giao do Nguyễn Văn Thái cầm đầu. Sử không chép phái đoàn này đã thu xếp cách nào mà việc binh giữa nhà Minh và ta lại êm trong 3 năm[3] rồi tới năm Canh Tý (1540) lại thấy nhà Minh đem lực lượng võ trang sang ta.
Về phía Minh đế, ta thấy có chi tiết này đáng kể: Minh triều buổi đầu quả có cương quyết diệt nhà Mạc để cướp nước Việt Nam nên đã cử Đô Đốc Cửu Loan và Tán Lý Mao Bá Ôn vào loại danh thần lương tướng của họ đem quân lên đường, vua Minh đã tặng một bài thơ lời lẽ rất trang trọng, đầy thân mến và khuyến khích. Nguyên văn bài thơ đó như sau:
Đại tướng Nam chinh đởm khí hào
Yên hoành thu thủy nhạn linh đao
Phong xuy đà cổ sơn hà động
Điện thiển tinh kỳ nhật nguyệt cao
Thiên thượng kỳ lân nguyên hữu chủng
Huyệt trung lân nghị khởi năng đào
Thái bình đãi chiến qui lai nhật
Trẫm giữ tiên sinh giải chiến bào
Lược dịch:
Đại tướng Nam chinh khẳng khái sao
Lưng đeo sáng quắc nhạn linh đao
Gió lay trống trận sơn hà động
Chớp nhoáng cờ đồn nhật nguyệt cao
Trời thẳm kỳ lân sinh giống sẵn
Hang sâu kiến cỏ trốn đằng nào?
Thái bình khi chiếu đòi về nước
Trẫm cửi dùm khanh áo chiến bào
Tới khi họ Mao tiếp xúc với ta, tương truyền với cụ Trạng Giáp Hải của nhà Mạc đã trao đổi thư từ để dò xét thái độ nhau. Trên đường ngoại giao Hoa Việt, việc này gần như một thủ tục đặc biết vốn có trước khi định đoạt chiến hay hòa.
Nguyên xướng của Mao Bá Ôn là”
Vịnh Cánh Bèo[4]
Tùy điền trục thủy mạo ương châm
Đáo xứ khan lai thực bất thâm
Không hữu bản căn không hữu cán
Cảm sinh chi tiết cảm sinh tâm
Đồ trừ tự xứ minh tri tán
Đản thức phù thì ná thức trầm
Đại để trung thiên phong khí ác
Tảo qui hồ hải tiện nan tầm.
Lược dịch:
Ruộng nước lênh đênh nhỏ tựa kim
Nơi nơi trông thấy mọc nông mèm
Đã không cành cỗi còn không gốc
Dám có rễ mầm lại có tim
Nào biết nơi t an duy biết tụ
Chỉ hay khi nổi nọ hay chìm
Giữa trời giông tố thình lình nổi
Quét bạc ra khơi hết kế tìm.
Đại biểu nhà Mạc đã trả lời:
Cẩm lân mật mật bất dung châm
Đối diệp liên căn bất kế thâm
Thượng dữ bạch vân tranh thủy diện
Khẳng giao hồng nhật chiếu ba tâm
Thiên tùng lãng đả thanh nan phá
Vạn trận phong xuy vĩnh bất trầm
Đạ thiểu ngư lòng tàng giá lý
Thái công vô kế hạ câu tầm.
Lược dịch:
Vẫy gấm khen dầy chẳng lọt kim
Lá liền dễ mọc kệ nông mèm
Mây bạc không cho soi thủy diện
Ánh hồng đâu dễ rọi ba tâm
Sóng dồn ngàn lớp không xô vỡ
Gió rập muôn cơn khó đánh chìm
Rồng cá ít nhiều nương dưới đó
Cần câu Lã Vọng hết mong chờ.
Sau cuộc gặp gỡ này Minh triều bãi binh và phong cho Mạc Đăng Dung chức Đô Thống sứ như trên đã nói và nhà Mạc nhường cho nhà Minh 5 động ngoài biên giới (Việt Nam Sử Lược kể cả Khâm Châu, đây là điều sai lầm vì đời Lý đã định biên giới với Trung Quốc mấy trăm năm trước thì Khâm Châu là một địa hạt lớn, đã từ lâu thuộc về nội địa Trung Quốc).
Có thể nói rằng đây là một thắng lợi ngoại giao đặc biệt của nhà Mạc, vì cùng đứng trước một trường hợp mà nhà Minh đã quyết định đánh nhà Hồ, trái lại đã lui quân và thông hiếu với nhà Mạc. Tránh được một cuộc chiến tranh với một đại cường quốc giữa lúc trong nhà gặp cảnh huynh đệ tương tàn, nhân dân bạc nhược, mà chỉ mất ít vàng bạc va f5 động biên giới, nếu nàh làm sử công bằng hẳn chẳng đòi gì hơn nữa.
5 – Cái Án Mạc Đăng Dung:
Theo cáo trạng của Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược trang 274:
“Mạc Đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp ngôi, ấy là người nghịch thần, đã làm chủ một nhước mà không giữ lấy bờ cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ lấy bờ cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ cái danh giá cho trọn vẹn, đến nỗi phải cửi trần ra trói mình lại, đi đến quỳ lậy trước cửa một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú quý cho một thân mình và một nhà mình, ấy là một người không biết liêm sỉ.
Đối với vua là nghịch thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn ở của loài người không có nhân phẩm; mộ người như thế ai mà kính phục? Cho nên dẫu có lấy được giang sơn nhà Lê, dẫu có mượn được thế nhà Minh bênh vực mặc lòng, một cơ nghiệp dựng nên bởi sự gian ác hèn hạ như thế thì không bao giờ bền chặt được. Cũng vì cớ ấy mà con cháu họ Lê lại trung hung lên được…”
Xét bản cáo trạng và cả lời luận tội của tác giả Việt Nam Sử Lược ta thấy có vẻ dễ dàng và quá giản dị khiến ta ngạc nhiên về lối suy luận của tác giả, một nhà Nho kiêm cả tân học. Căn cứ vào cuốn sử nào mà Trần Trọng Kim đã hạ những tinh thần phục vụ quốc gia của họ? Trên tờ Đời Mới năm 1951 ông Lê Văn Hòe có viết mọt bài khảo luận khá đầy đủ để minh oan cho Mạc Đăng Dung. Họ Lê đã tỏ ra có công tâm trong vụ này.
Theo ông Lê thì cả sử Tàu lẫn sử ta đã vô tình hay hữu ý; hữu ý có bề nhiều hơn trong việc miệt thị đối phương. Đó là thói thường của họ, mà gần đây cả các sử gia Âu châu cũng không tránh khỏi thói xấu này[5]. Sử Tàu đã chép hai bà trưng bị quân Đông Hán bắt được, xin làm tì thiếp không được rồi bị đem về chém ở Lạc Dương, bà Triệu Thị Trinh thì gọi là Triệu Ẩu (chữ Ẩu có nghĩa là mụ, đã phô bày rõ sự hằn học, cục cằn của sử gia Tàu khi nói đến một nữ anh hùng cách mạng của một địch quốc).
Sử ta như Việt Sử Toàn Thư, Đại Nam Thực Lục là những cuốn sử do chúa Trịnh sai chép từ đời Lê Trang Tông đến Gia Tông, đến sử nhà Nguyễn thì lại càng dễ hiểu. Họ Mạc đã thí vua Chiêu Tông, và đầu độc Nguyễn Kim tổ phụ nhà họ Nguyễn, tóm lại nhà Mạc là kẻ thù số một của cả Trịnh lẫn Nguyễn luôn từ năm 1527 đến 1592. Hai bên đều nhúng tay vào máu của nhau khá nhiều thì các sử gia của Trịnh và Nguyễn há dám giữ mực vô tư chăng? Dưới thời quân chủ độc tôn, phong kiến chuyên chế, đa số các nho thần chỉ biết uốn ngòi bút theo giòng tư tưởng của nhà vua, nhà chúa thì ta không lạ gì nếu họ mạc bị bôi nhọ, và sự nghiệp ngót 150 năm của Mạc triều bị lãng bỏ để lu mờ với thời gian.
Chúng ta hãy đi vào các chi tiết:
Mạc Đăng Dung bị buộc là nghịch thần, vì giết vua cướp nước, cắt đất dâng địch, thiếu liêm sỉ, nhân phẩm, gian ác không được bền vững lâu dài.
Mở cuốn sử đời Hậu Lê, coi đoạn nói về các vua Túc Tông, Uy Mục, Tương Dực, Chiêu Tông, ta thấy các ông vua này hầu như vừa bước lên ngai vàng đã chém giết lẫn nhau, đồng thời giết cả các đại thần. Dĩ nhiên việc này phải xảy ra vì mỗi ông vua hay ông hoàng thường có một phe nhóm riêng, do đó khi một vị bị hạ thì nhiều thủ túc thành nạn nhân của thời cuộc.
Vua Uy Mục còn giết theo cả bà Thái Hoàng thái hậu (chết theo có hai đại thần Đàm Văn Lễ, Nguyễn Quang Bật). Giản Tu giết Uy Mục rồi làm bao nhiêu chuyện hoang dâm, vô đạo khác, xây đắp rất nhiều điện đài, hao tốn công nhu và nhiều sinh mạng.
Có thể coi thời đó là một thời không đại loạn chăng? Ai chịu trách nhiệm về các mối loạn này? Các ông vua trên đây có còn xứng với địa vị nguyên thủ của mình nữa chăng?
Hậu quả của những hành động trên đây là triều đình từ đó bị một cuộc khủng hoàng tinh thần rất trầm trọng. Quan to quan nhỏ hoang mang, dân chúng cũng lo sợ, ai ai cũng thảng thốt sẽ đến lượt mình bị lôi kéo vào các cuocj tranh giành ảnh hưởng. rồi các việc trên đây thành một cái rớp. Nó mở đường cho bao nhiêu cuộc phiến động khác, đúng câu “Thượng bất chính hạ tắc loạn”.
Ngoài các kẻ đã bị chết, có kẻ oan, có kẻ chẳng oan, còn lại mấy nhân vật khác không kém quan trọng, đó là Trần Chân, Mạc Đăng Dung, Nguyễn Hoằng Dụ… là những nhân vật có đầu óc, có khí cương cường và cũng có cả quyền bính. Tất nhiên các con người ấy, dầu muốn hay không, đã phải có một thái độ nào đối với thời cuộc, chớ đâu chịu ép trong cái thế bị động. Họ biết rằng nếu nằm ép trong cái thế bị động thì chắc chắn phải đi đến chỗ chết uổng hay sống hèn. Họ còn nghĩ rằng thời có loạn, anh hnfg mới có dịp thi thố tài ba, xây dựng sự nghiệp.
Vì vậy Mạc Đăng Dung chẳng xuất hiện vào giờ phút này tất nhiên cũng có kẻ khác bước ra để làm một cuộc cách mạng. Họ Mạc không rat ay cũng không xong, vì vua Chiêu Tông đã mưu với Phạm Hiến, Phạm Thư hạ sát họ Mạc, khi Mạc vừa trừ xong nhiều vụ loạn đời bấy giờ (loạn TrịnhTuy, Trần Cao, Lê Do, Hoàng Duy Nhạc…) bởi dẹp xong các vụ loạn này thanh thế Mạc Đăng Dung bốc lên như gió.
Tóm lại vào thời các vua Tương Dực, Uy Mục, triều đình đã suy đốn, hôn ám, vô đạo, thác sinh đủ mối loạn, trên không ra trên, dưới không ra dưới, nghi ngờ mà giết nhau, hoang mang mà hại nhau, người làm tôi không còn biết đạt chữ trung vào đâu nữa.
Tác giả Nho Giáo cũng là họ Trần, đã từng nói đến chữ Trung và chữ Trinh quá thiên về lý thuyết, không nhìn thấy các tội ác của mấy ông “quỷ vương” nhà Hậu Lê nên đã khép Mạc Đăng Dung vào tội nghịch thần.
Ông Lê Văn Hòe trái lại, nói: “…Muốn họ Mạc cung cúc tận tụy thờ các vua Uy Mục, Tương Dực thật là bắt Võ Thang thờ Kiệt Trụ[6] và triều Lê rối loạn hai chục năm rồi Mạc Đăng Dung mới bước lên sân khấu để thay trò đổi cảnh, kể ra đã chịu nghe ngóng lòng người, xét suy thời cuộc nên tới năm Đinh Hợi mới nhảy ra lãnh vai trò hoán cải chánh sự không thể bảo là vội vã và thiếu thận trọng.
Ông Lê còn nghĩ nếu giết vua là nghịch thần bất kể trường hợp hữu lý hay không thì lịch sử các quốc gia chỉ có và chỉ nên có một dòng họ làm vua mà thôi chăng? Lý Công Uẩn cướp ngôi nhà Tiền Lê, Lê Hoàn tư thông với Dương Hậu thay thế nhà Đinh, Trần Thủ Độ lừa gạt một cô gái nhỏ (Lý Chiêu Hoàng), xét việc họ Mạc cướp ngôi nhà Hậu Lê còn đang hoàng hơn. Hạ sát vua Chiêu Tông, Mạc chỉ có mục đích hủy bỏ cái bình phong mà các lãnh tụ phong kiến đã dùng để che đậy hành động mưu đồ vương bá của họ và vì cả lý do bảo vệ cho chính bản thân nữa.
Và đứng trên quan điểm nhân dân thì lại càng vô lý, nếu người ta muốn rằng đám vua quan ác bạo thối nát đời bấy giờ cứ đè đầu cưỡi cổ người dân mãi mãi. Không có họ Mạc ra đời thuở đó, thì trong nhân dân cũng phải có một người khác nhảy ra để thiết lập trật tự mới. Có bao giờ trong một quốc gia chỉ có một dòng họ duy nhất xứng đáng để làm vua, còn những dòng họ khác chỉ đủ tư cách làm thứ dân mà thôi?
Điều gàn dở của mấy nho thần viết sử đã thiếu lý luận và nhận xét thực tế, cứ luôn luôn đem chữ Trung và Trinh ra đọc như kinh nhật tụng, dậy người ta Trung, Trinh một cách bừa bãi, bất kể trường hợp nào. Nói cách khác, cuộc sống của con người vô cùng phức tạp, mỗi chặng đường đi phải có một lối xử thế riêng, đâu có thể lúc nào cũng Trung và Trinh một cách máy móc, phải chăng cái sở học của thời phong kiến tai hại và lạc hậu là ở chỗ này?
Tác giả Kim Vân Kiều là Nguyễn Du cũng nặng về giáo lý Khổng Mạnh mà còn có câu này:
Xưa nay trong đạo đàn bà
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường
Có khi biến, có khi thường
Có quyền nào phải một đường chấp kinh
Thì ta thấy tuy Nguyễn Du không làm sách dạy người ta Trung, Trinh mà ông hiểu chữ Trung, Trinh rất là khoáng đạt, sáng suốt.
Nay chúng ta thử hỏi “Họ Mạc có thể hết lòng phù trợ con cháu vua Thái Tổ nhà Hậu Lê được chăng?’
Một thời đại hỗn loạn như thời Tương Dực đế, Uy Mục đế, Hoàng gia cũng kéo bè kéo đảng, các triều thần tướng lĩnh cũng năm lòng bảy dạ, chẳng ai tin ai thì Mạc Đăng Dung có thiết tha phù Lê diệt ngụy cũng không được. Mạc dẹp xong các mối loạn, quy phụ được các lực lượng phiến động, uy tín tất nhiên lên cao thì bao nhiêu kẻ ghen ghét xúm nhau dèm pha khiến họ Mạc dầu muốn hay không cũng phải bước từ thế thủ sang thế công, nhất là có sẵn binh lực trong tay. Ở địa vị họ Mạc, không ai làm khác hơn.
Còn việc cắt đất cầu hòa của họ Mạc?
Để bãi một cuộc chiến tranh với một cường quốc trong khi dân mình yếu hèn, rối loạn. Họ Mạc phải cắt năm động thổ mán vùng thượng du, thật ra chưa là bao. Đây không hơn không kém là cái lối cũ nước Tấn hiến ngọc và ngựa quý cho nước Ngu, Hán Cao Tổ nhường Quang Trung cho Hạng Vũ khi xưa để hòa hoãn với địch trong một giai đoạn. Lịch sử cổ kim Đông Tây, chuyện này rất thường. Ngay gần đây, năm 1854, Nhật phải mở hải cảng Hạ Điền, Châu Quan cho Mỹ, mở Deshima cho Hòa Lan vào giao thương, và gượng gạo đón chào cả Pháp, Bồ Đào Nha cùng một lúc.
Năm 1876, Nhật mạnh sau cuộc duy tân, đến lượt Nhật bắt Triều Tiên mở ba hải cảng cùng đặt ngoại trị pháp quyền ở đây. Trung Hoa với nhà Thanh gần đây phải cắt Hương Cảng cho Anh, nhường Mãn Châu cho Nhật, đó là chuyện yếu phải nhường mạnh, thiếu gì việc như vậy, hôm qua cũng như hôm nay.
Tóm lại trên trường chính trị quốc tế, việc nhường đất để giảng hòa, để bãi một cuộ binh đao tai hại hơn, các nhà lãnh đạo vẫn phải làm. Nhà viết sử không chiếu xét kỹ tình thế mà cứ hạ lời phê phán gắt gao không khỏi có sự cố chấp, nông cạn.
Trái lại không lượng sức mình mà đưa cả dân tộc vào chiến tranh đến nỗi mất cả xứ sở, chết choc muôn vạn sinh mạng, đó mới là xuẩn động và đáng trách. Tại đây chúng tôi xin ngừng lại để chung ta cùng suy tưởng: cái bại trận dưới thời nhà Hồ chưa đủ cho ta rút kinh nghiệm sao? Nước ta dưới thời Uy Mục, Chiêu Tông có nên có một chính sách gang trì với nhà Minh không? Nếu nói rằng khong thì Mạc Đăng Dung nhường năm động ngoại biên là có ý thức sáng suốt về thời vụ và đó là một hành động khôn khéo cần được tán thưởng.
Ngoài việc nộp 5 động, Việt Nam Sử Lược còn nói Mạc Đăng Dung cởi trần, tự trói mình trước cửa viên của địch có thật chăng? Sử nào chép chuyện này?[7]
Chúng tôi e rằng việc này đã căn cứ vào tài liệu trong An Nam Truyện quyển 231 có nói đến quyết định cảu vua Minh Thế Tông là: “Nếu cha con họ Mạc chịu trói và quy hàng thì sẽ tha tội chết”. Theo chúng tôi đây chỉ là cách nói mà thôi cũng như câu “Bó giáo lai hàng”, còn trên thực tế miễn có sự quy thuận của đối phương chứ có mấy khi người ta áp dụng hẳn hoi hình thức này. Trái lại nếu người ta bắt được kẻ địch tự trói ra hàng thì kẻ đó khó lòng mà thoát chết (tỷ dụ trường hợp tướng Phạm Ngô Cầu giữ thành Thuận Hóa cho họ Trịnh năm Bính Ngọ (1786) thấy quân Tây Sơn mạnh quá vội xé áo bào và tự trói mình xin hàng thì bị Nguyễn Huệ mang giết).
Nay xét tình trạng và tâm lý của Mạc Đăng Dung thuở đó có thể có chuyện tự trói mình trước cửa viên của Mao Bá Ôn không?
Chúng tôi quyết đoán rằng không, bởi vì lúc này trong nước có lực lượng của vua Lê Trang Tông và Nguyễn Kim đang dấy động, bên ngoài thì quân Minh đang đánh ở biên cương, họ Mạc dại gì mà nghe giặc tự trói mình để lao mình vào cuộc phiêu lưu vô cùng nguy hiểm. Một con người xuất thân hàn vi rồi trở thành danh tướng, đánh Đông dẹp Bắc hạ bao nhiêu kẻ địch lợi hại, con người ấy phải là một kẻ anh hùng lỗi lạc, đâu có thể dễ tin giặc Bắc như vậy. Trong trường hợp này đàn bà con nít cũng chẳng khờ khạo đến thế.
Một chứng cớ nữa về sự khôn ngoan của Mạc Đăng Dung là khi Mao Bá Ôn đưa thư sang đòi Mạc nộp sổ sách ruộng đất, nhân dân và chịu tội thì được tha chết như Việt Nam Sử Lược đã chép, họ Mạc chỉ phái bọn Nguyễn Văn Thái lên Nam Quan để điều đình. Việc này xảy ra ra vào năm Đinh Dậu (1537). Phái đoàn Nguyễn Văn Thái thành công nên Bắc quân không tiến vào nội địa nước ta nữa.
Rồi tháng 11 năm Canh Tý (1540) quân Bắc lại sang. Lần này họ Mạc biết rõ tình ý của nhà Minh chỉ làm chuyện diệu võ dương uy mà thôi, nên đã thân hành lên gặp người Minh. Sự thật đôi bên cần giáp mặt nhau để cùng quyết định mọi vấn đề đã nêu ra ba năm trước mới có tính cách đại cương, sơ bộ mà thôi.
Một điểm khác, ngoài điểm tâm lý của Mạc Đăng Dung, trong việc đụng chạm với người Minh thuở ấy đã nói khá nhiều ở trên, còn thái độ của Mạc Đăng Dung cũng cần phải xét để hiểu Mạc Đăng Dung có hèn như Việt Nam Sử Lược đã nói không. Ta xem bài thơ xướng họa giữa Mao Bá Ôn và cụ trạng Giáp Hải nhà Mạc thì càng rõ, kẻ xướng có vẻ kiêu căng mà người họa không kém phần ngạo nghễ.
Nào biết nơi tan duy biết tu
Chỉ hay khi nổi nọ hay chìm
Giữa trời going tố thình lình nổi
Quét bạt ra khơi hết kế tìm.
(Mao Bá Ôn)
Sóng dồn ngàn lớp không xô vỡ
Gió rập muôn cơn khó đánh chìm
Rồng cá ít nhiều nương dưới đó
Cần câu Lã Vọng hết mong chờ.
(Trạng Giáp Hải)
Vua tôi nhà Mạc đã dám ăn miếng trả miếng đến nơi đến chốn như vậy mà bảo rằng chính những người này đã phải quỳ lậy trước cửa tướng của địch, ta có thể xin được chăng? Và cứ khẩu khí bài thơ họa của nhà Mạc đã đáp lại bài nguyên xướng của Mao Bá Ôn ở trên, từng điểm thì đủ rõ, ta thấy nếu Minh quá gang thì Mạc cũng dám đo gươm thử giáo. Vậy họ Mạc không hèn như người ta đã nói.
Trần Trọng Kim còn cho rằng Mạc đã xây dựng sự nghiệp trên tàn ác nên không bền. Lời phe ephasn này lại càng hàm hồ nữa. Ông Lê Văn Hòe cho rằng người ta đã cố ý quên rằng nhà Tiền lê, nhà Hậu Lý, nhà Trần và các chúa Trịnh sau này cũng đi đường lối ấy. Các xã hội phong kiến bao giờ cũng gây ra những cuộc đảo lộn ngai vàng. Nó hư hỏng ngay từ nền tảng, khuôn nếp hay hệ thống tổ chức thì mối loạn là một tình trạng thường trực không sao tránh được nếu không làm gì có nhà Đường, nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh bên Trung Quốc.
Nếu cho rằng nhà Mạc đã làm việc gian ác, thì Trần Thủ Độ âm mưu với Trần Thị (vợ vua Lý Huệ Tông) đem cháu trai vào cung bầy cuộc hôn nhân để chiếm ngôi nhà Lý. Thủ Độ lại lấy vợ của Huệ Tông là em gái họ mình, giết chết con cháu nhà Lý, ép vua Trần Thái Tông bỏ Chiêu Hoàng lấy chị dâu là vợ Trần Liễu, anh ruột Trần Cảnh đã có thai 3 tháng, ra lệnh cho con cháu nhà Trần lấy nhau, các hành động đó có gian ác không? Vậy mà họ Trần còn làm vua được 175 năm.
Nhà Tây Sơn sau này dấy nghiệp lên trừ tham nhũng của bọn Trương Phúc Loan, đạp đổ chế độ tồi bại của hai họ Trịnh, Nguyễn ở miền Nam Bắc Hà, giải nạn xâm lăng cho dân tộc, oanh liệt đàng hoàng như vậy mà chỉ ở ngôi có 24 năm, có nói được là bền chăng?[8]
Nhà Mạc phát khởi từ năm 1527 đến 1667 mới tuyệt hẳn. Nhìn vào việc mở mang văn học, chính trị, kinh tế, ta thấy họ Mạc cũng đã có nhiều thiện chí với dân với nước và với sự lâu bền trên đây bảo rằng dân không theo, không mến sao được. Tiếc rằng nhà Mạc khởi nghiệp chưa lâu, trong nước đã có phong trào qua phân Nam Bắc rồi nước Việt Nam ở vào thế chân vạc (Trung Nam Bắc), Bắc thuộc Mạc, Trung từ Thanh đến Nghệ thuộc Lê-Trịnh, Nam từ Bố Chính (Quảng Bình) trở vào thuộc Nguyễn, gây nên bao nhiêu cuộc lộn xộn để rồi cùng mang tội với quốc dân.
Tóm lại cái an Mạc Đăng Dung cần phải xóa bỏ trên bộ quốc sử của chúng ta để tránh một sự vu khống và thóa mạ tiền nhân một cách bất công và vô lý. Chúng tôi tin rằng các trí thức và học giả ngày nay suy xét hay bày tỏ sự việc không hàm hồ như một số sử thần của thời phong kiến vừa qua.
Chú thích:
[1] Việc này không đúng vì vua Lê Thánh Tông, trái lại có đánh qua Lão Qua và thành công. Uông Trực nghe lầm hay cố ý xuyên tạc sự thật để lập biên công chăng?
[2] Tiền bối nói đây là Trương Phụ, Hoàng Phúc…
[3] Phải chăng đây là một thắng lợi chính trị mà sử thần hai triều Lê, Nguyễn muốn làm mờ đi?
[4] Với cái đầu đề “Vịnh Cánh Bèo” Mao Bá Ôn đã có ý khinh thị triều Mạc, hẳn Mao muốn ví dân ta mỏng manh như cánh bèo mà Trung Quốc là going tố giữa trời đánh tan cacnsh bèo biệt tích như chơi. Mao không ngờ đại biểu của triều Mạc đã trả lời họ một cách hào hùng, ngạo nghễ không kém. Ta có thể nghĩ rằng chính bài thơ họa vần này với hùng khí của nó đã làm cho Trung Quốc hoảng sợ mà chịu bãi binh và tất nhiên Mạc Đăng Dung có mặt ở đó, Trạng Giáp mới dám cương quyết ăn miếng, trả miếng.
[5] Theo lời giáo sư thạc sĩ Sử Địa Melzi d’Eril người Ý đã gặp chúng tôi trong một hội nghị các giáo sư sử địa Việt Nam tại Bộ Quốc Gia Giáo Dục (ngày 12 tháng 12, 1958), các nhà sử học Âu Châu cũng có cái tật xàm báng ngoại quốc khi viết đến một sự kiện lịch sử có liên can giữa nước mình với nước láng giềng.
Ông Lê Văn Siêu tác giả Văn Học Đời Lý cũng thường đồng ý với chúng tôi về chỗ không thể quá tin sử liệu, vì sử thần đời sau thường xuyên tạc sự việc đời trước để phí báng theo lệnh của vua chúa. Nếu không co óc suy luận, ta sẽ vô t ình tiếp tay cho một bọn văn phiệt, tay sai của phong kiến trả thù báo oán một cách quá ư hèn nhát cho các ông chủ.
[6] Sự so sánh có phần quá bạo một chút.
[7] Việt Vương Câu Tiễn ngày xưa khi mất nước phải đem cả vợ con cùng các đại thần sang giữ ngựa cho vua Ngô Phù Sai, rồi nếm phân đoán bệnh cho Phù Sai để thi hành kế hoạch phục quốc của Phạm Lãi, các nhà viết sử còn không ai chê, huống hồ chỉ có chuyện trần vai áo, dầu có chăng nữa!
[8] Ông Lê Văn Hòe quên không kể Mạc Đăng Dung vì tính thế đã giết một ông vua (Chiêu Tông) nhà Lê, trái lại họ Trịnh sát hại năm bảy ông mà cũng kéo dài nghiệp chúa tới trên hai thế kỷ (238 năm). Như thế có gian ác không? Sự nghiệp của họ Trịnh có gọi là lâu bền chăng?