CHƯƠNG XII LOẠN PHONG KIẾN VIỆT NAM-NAM, BẮC TRIỀU (1527 – 1592)
Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm
- Biến cố tại Nam Triều
- Những cuộc thất bại của Nam Triều
1 – Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm:
Mạc Đăng Dung lên ngôi, một số người bất cộng tác với tân trào hoặc tuẫn tiết, hoặc chạy thất tán đi các nơi, còn có một số chạy sang Lào. Thủ lãnh của những người này là Nguyễn Kim (hay Nguyễn Hoằng Kim) con Nguyễn Hoằng Dụ là một võ tướng dưới đời CHiêu Tông, cũng có nhiều tài năng, có chí lớn và cũng nắm giữ một phần binh sĩ trong tay.
Nguyễn Kim thay cha nắm binh quyền, vì Hoằng Dụ sau vụ đại loạn ở Thăng Long rút về Tây Kinh ít lâu thì mất. Bấy giờ Kim đã từng làm Hữu vệ Điền tiền tướng quân, An thanh hầu dưới đời nhà Lê.
Kim trốn qua Ai Lao được vua Xa Đẩu cho nương nấu ở xứ Cầm Châu thuộc phủ Trấn Man, tỉnh Thanh Hóa. Tại đây Kim lo tìm con cháu nhà Lê để dễ hiệu triệu các cựu thần.
Năm Quý Tỵ (1532) Kim kiếm được người con út của vua Chiêu Tông là Duy Ninh lập lên tức vua Trang Tông. Trong việc mưu đồ đại sự, Kim đã thâu nạp được một kiện tướng là Trịnh Kiểm. Một thảo dã anh hùng, xuất thân tại xã Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Kiểm có tài đảm, có mưu lược tuy không được học hành nhiều vì hàn vi thuở nhỏ. Sử sách chép về ông rất ít cũng như chép về Mạc Đăng Dung rất sơ sài từ lý lịch, thân thế đến sự nghiệp khiến ta thấy rõ rệt các sử thần cận đại không dám nói dài về Mạc Đăng Dung cũng như Trịnh Kiểm bởi hai người này là tử thù của cả hai Lê, Nguyễn.
Phe Nguyễn Kim ở Cầm Châu được bảy, tám năm, chiêu binh luyện mã đến năm Canh Tý (1540) thì đã có một lực lượn kha khá về đánh Nghệ An. Hai năm sau quân vua Trang Tông tiến ra Thanh Hóa rồi năm sau nữa (1543) Kim nắm hẳn được Nghệ An và thu phục được cả Tây đô (Thanh Hóa) bởi Tống trấn nhà Mạc là Dương Chấp Nhất ra hàng.
Theo Việt Nam Sử Lược, Dương Chấp Nhất ra hàng là một âm mưu của nhà Mạc. Năm Ất Tỵ )1545) Nguyễn Kim tiến ra Sơn Nam (vùng Nam Trung Châu Bắc Việt gồm các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Hà Nam) đi tới huyện Yên Mô (Ninh Bình) thì bị ngộ độc mà chết. Người ta đã cho rằng chính Dương Chấp Nhất đã đánh thuốc độc.
Nguyễn Kim chết đi, binh quyền dĩ nhiên sang tay Trịnh Kiểm. Kiểm thấy cuộc Bắc tiến bất lợi vì cái tang của chủ tướng liền rút quân về Thanh rồi lập Hành Điện ở đồn Vạn Lại (huyện Thụy Nguyên, tỉnh Thanh Hóa) để chỉnh bị nhiều nhân sĩ đã tìm đến giúp, tỉ dụ Phùng Khắc Khoan tức Trạng Bùng và Lương Hữu Khánh.
Bấy giờ Việt Nam chia ra làm hai lực lượng đối thủ một ở miền Bắc, kể từ Sơn Nam đổ ra thuộc ảnh hưởng của nhà Mạc gọi là Bắc triều. Thanh Hóa trở vào là thuộc khu vực của nhà Lê hay là Nam Triều. Tương đối cho tới năm Bính Ngọ (1546) là năm Mạc Phúc Hải mất, truyền ngôi cho con là Mạc Phúc Nguyên lấy niên hiệu là Vĩnh Định, Bắc Hà còn mạnh hơn Nam Hà.
Về phía Nam Hà, năm Mậu Thân (1548) cũng xảy ra một biến cố: vua Trang Tông chết, Trịnh Kiểm lập thái tử Duy Huyên lên ngôi tức vua Trung Tông cũng vắn số sau 8 năm. Vua Trung Tôn không có người kế tự theo dòng đích tôn của vua Thái Tổ. Trịnh Kiểm bấy giờ nắm giữ hết quyền hành tính tự lập làm vua nhưng còn do dự chỗ chưa chắc được lòng người nên bí mật phái sứ giả ra Hải Dương hỏi ý kiến cụ Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm (tức Trạng Trình người làng Cổ Am thuộc tỉnh này). Nguyễn Bỉnh Khiêm là Trạng Nguyên đời Mạc với Phùng Khắc Khoan (Trạng Bùng) là an hem cùng mẹ khác cha nổi danh đời bấy giờ về cái học uyên bác y nho lý số, nhất là về thuật số, ông được người ta coi như là một nhà tiên tri biết việc năm trăm năm trước, năm trăm năm sau. Ông có để lại một tập sấm truyền nói rất đúng về cả những thời cuộc xảy ra gần đây.
Vì ông đã từng làm tôi triều Mạc, dù bấy giờ đã về ở ẩn nhưng bởi lẽ thế nước chia đôi, lẽ thuận nghịch cũng chưa về hẳn bên nào nên ông có một thái độ rất dè dặt mỗi khi người ta hỏi đến việc quốc sự. Có thể nói rằng tuy ông đứng ngoài vòng chính trị, nhưng ông vẫn là cố vấn lâm thời cho các chính khách thuở đó. Với sứ giả của Trịnh Kiểm, ông trả lời gián tiếp bằng cách ngoảnh bảo với đầy tớ rằng: “Năm ngoái mất mùa, thóc giống không tốt, đi tìm giống cũ mà gieo mạ”. Rồi ông lại sai đầy tớ ra bảo chú tiểu quét chùa và dâng hương để ông ra chơi. Ông bảo tiểu: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản”.
Sứ trở về Thanh thuật lại từng lời nói, từng cử chỉ của cụ Trạng Trình, Kiểm hiểu nên không thi hành dự định cướp ngôi nhà Lê nữa rồi đi tìm người cháu huyền tông ông Lê Trừ là anh ruột vua Thái Tổ, tên là Duy Bang (ở làng Bố Vệ, huyện Đông Sơn).
Nhà Mạc đến Mạc Phúc Nguyên thì không còn dám coi thường lực lượng của nhà Lê, sai Mạc Kính Điển (chú của vua Mạc) làm đại tướng đem binh vào Thanh tới 10 lần nhưng lần nào cũng không có kết quả. Trịnh Kiểm tiến ra Sơn Nam trước sau cũng đến 6 lần cũng chẳng thắng lợi hoàn toàn lại trở về. Duy năm Kỷ Mùi (1599) Trịnh Kiểm huy động tới 6 vạn quân ra Bắc đánh các tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Kinh Bắc, Lạng Sơn rồi vòng xuống Hải Dương theo chiến lược phá hàng rào trước đột nhập vào Đông Đô sau, bởi kinh nghiệm đánh thẳng vào quân chủ lực của nhà Mạc thì không đủ sức.
Trên con đường cánh cung đó, Trịnh đã đánh bại được quân Mạc tưởng có nhiều hy vọng thành công thì nhà Mạc cũng khôn khéo chẳng kém, cử đại quân của Mạc Kính Điển theo đường bọ đánh gấp vào Thanh Hóa là sào huyệt của nhà Lê. Trịnh Kiểm hay tin hoảng sợ vội vã bỏ mặt trận Việt Bắc về cứu hậu phương của mình.
Tình hình này cứ nhùng nhằng mãi, khi thì Mạc Nam chinh, khi thì Lê Bắc tiến, chẳng bên nào được thua dứt khoát cho tới năm Tân Dậu (1561) Mạc Phúc Nguyên qua đời, con là Mạc Mậu Hợp lên nối ngôi.
2 – Biến Cố Tại Nam Triều
Năm Canh Ngọ (1570) Trịnh Kiểm hết số, trao binh quyền cho con trai là Trịnh Cối, nhưng Trịnh Cối thiếu nhiều đức tính làm lãnh tụ, ưa rượu chè, sắc dục, không chuyên cần như cha nên tướng sĩ mất cảm tình.
Em Trịnh Cối là Trịnh Tùng liền mưu với bọn Lê Cập Đệ, Trịnh Bách rước vua về Vạn Lại là nơi hành điện cũ của nhà Lê. Ý Tùng lúc này là muốn cướp địa vị của anh. Tất nhiên Nam triều nảy ra nội chiến vì sự tranh giành của hai an hem Trịnh Tùng. Nhà Mạc không bỏ lỡ dịp tốt này, cất luôn 10 vạn binh vào Tây Đô, Trịnh Cối tự liệu không chống nổi liền hàng nhà Mạc được giữ quan tước như cũ.[1]
Những ngày đầu, quân Mạc thừa thế tiến lên sông Mã, đóng ở đất Hà Trung rồi vây An Trường là chỗ căn cứ then chốt của vua Lê (thuộc huyện Thụy Nguyên).
Vua Lê Anh Tông thấy thế nguy dời về Đông Sơn, phong Trịnh Tùng làm Tả Thừa tướng thống lãnh binh đội để chống nhà Mạc. Quân Nam do sự khéo léo của Trịnh Tùng đã trấn giữ được các địa điểm trọng yếu nên Mạc Kính Điển đánh mãi không xong, phải rút về Bắc.[2]
Xét ra vào thời đó, hai quân Nam bắc đã gặp một trở ngại lớn nhất là về vấn đề chuyển dịch và tiếp vận. Mỗi khi chiến cuộc kéo dài thì đám quân ở xa tới không chịu nổi luôn rồi phải bỏ ra về, do đó ta không lạ sự tấn công của bên này cũng như bên kia luôn luôn khó khăn, thế hệ này qua thế hệ khác.
Tạm yên với quân Mạc, vua Lê phong cho Trịnh Tùng làm Thái úy, Trưởng quốc công và khao thưởng binh sĩ, lại sai Phùng Khắc Khoanchiêu tập các hoang dân ở Thanh Hóa trở về làm ăn và chỉnh đốn lại mọi việc chính trị, quân sự. Giờ phút này Trịnh Tùng nắm mọi quyền, lên mặt hống hách.
Vua Anh Tông lo ngại bàn với Lê Cập Đệ tính trừ Trịnh Tùng. Công việc chưa ra sao thì Trịnh Tùng biết được liền dùng mưu giết Cập Đệ. Vua Lê thấy thế nguy và không còn thế lùi, liền cùng bốn con rời bỏ Tây Đô chạy vào Nghệ An. Sau khi vua xuất ngoại, Trịnh Tùng cho rước ngay hoàng tử thứ 5 là Duy Đàm ở làng Quảng Thi, huyện Thụy Nguyên về làm vua lấy hiệu là Thế Tông, một mặt cho Nguyễn Hữu Liên đem quân đuổi theo vua Anh Tông. Vua Anh Tông vào tới Nghệ An, thế cùng chạy vào ẩn ở một vườn mía bị quân Trịnh tóm được. Tùng cho giết vua rồi tuyên cáo vua thắt cổ tự vẫn.
Từ năm Quý Dậu (1573) đến Quý Mùi (1583) quân Nam triều vẫn giữ vững được đất đại từ Thanh tới Nghệ. Các tướng Mạc là Mạc Kính Điển, Nguyễn Quyện, và Mạc Ngọc Liễn nhiều lần mang quân vào đánh chỉ hao binh tổn tướng mà thôi. Sau Mạc Kính Điển có Mạc Đôn Nhượng thay thế, cũng vẫn được thua một vài trận lại bỏ về cho tới năm Quý Mùi (1583) Bắc triều lâm dần vào giờ phút đen tối trước khi bị tận diệt.
3 – Những Cuộc Thất Bại Của Bắc Triều
Như trên chúng ta đã nói, cho tới năm Quý Dậu (1573) lực lượng của Bắc triều có phần xung mãn hơn lực lượng của Nam triều nhưng người cầm quân của Bắc Triều là các tướng lãnh, thân vương nhà Mạc không sành chiến thuật, chiến lược như họ Trịnh ở miền Nam, do đó Mạc chỉ mua lấy sự hao binh tổn tướng. Rồi cũng từ năm Dậu, Trịnh Tùng áp dụng kế cố thủ để đợi quân Mạc vào, càng va chạm bao nhiêu càng tổn thất bấy nhiêu. Tất nhiên như vậy, Trịnh ở tình trạng sức cố thủ có thừa, sức tấn công thì đuổi. Việc tấn công của họ Mạc có khi theo thế gọng kìm là đánh cả vào Thanh Hóa do đường bộ và đánh thốc cả vào hậu tuyến của Tây Đô là Nghệ An. Với cuộc hành quân đại quy mô này Mạc phải chia quân làm hai cánh nhưng không đủ sức nên chẳng thâu lượm thêm kết quả nào đáng kể.
Trong giai đoạn này, họ Trịnh dưỡng được sứcquân đội và đến năm Quý Mùi thì lực lượng Nam triều bắt đầu mạnh mẽ. Rồi năm nào quân Nam Hà cũng ra quấy phá Sơn Nam để lấy thóc gạo về. Chắc chắn là Tây Đô không sẵn thực phẩm như vùng Sơn Nam, ngay từ bấy giờ đã là kho gạo như ngày nay.
Nam triều mạnh thì Bắc triều không những đình chỉ việc tấn công mà chỉ còn đủ sức để giữ thế thủ mà thôi. Ngay tại thành Đại La (Vào đời Lý là Thăng Long thành, thủ đô cũ của Đại Việt ta) Mạc cũng cho xây đắp lại: lũy đắp tới ba tầng, hào cũng thành ba lần vậy mà vẫn không đủ chống lại quân Nam. Do vậy mà Trịnh Tùng cương quyết cả phá Thăng Long để ăn thua một lần chót với họ Mạc.
Năm Tân Mão (1591) Trịnh Tùng bố trí cuộc Bắc tiến như sau: phòng xa quân Mạc đánh vào hậu tuyến của mình như trước đây khi Trịnh Kiểm đem quân ra Bắc (hành quân năm Kỷ Mùi 1559). Trịnh Tùng bèn chia một phần lượng phòng thủ ở nhà do Diễn Quận công Trịnh Văn Hải, Thái Quận công Nguyễn Thất Lý trấn giữ các cửa bể xét quân Mạc có thể tiến vào, Thọ Quận công Lê Hòa giữ Tổng hành dinh là toàn hạt Tây Đô.
Đạo quân tiến ra Bắc gồm có 5 đội, tổng số là hơn 5 vạn có các quan Thái phó Nguyễn Hữu Liên, Thái Úy Hoàng Đình Ái, Lân quận công Ngô Cảnh Hữu mỗi người phụ trách một đội. Riêng Trịnh Tùng lãnh đại quân hai vạn người tiến ra Ninh Bình. Binh tướng Nam hà lần này hăng hái hơn bao giờ hết.
Mạc Mậu Hợp cũng điều động tới 10 vạn quân (quân bốn vệ và năm phủ) để ứng chiến. Mạc Ngọc Liễn và Nguyễn Quyện làm tả hữu dực, Mạc Hậu Hợp dẫn trung quân tiến đánh.
Quân Trịnh tinh thần cao, chiến đấu rất mạnh nên chẳng bao lâu quân Mạc thua to chạy về Thăng Long. Bấy giờ Tết Nguyên Đán đã đến, Trịnh Tùng ngừng chiến cho binh sĩ nghỉ ngơi, rồi qua tháng sau (giêng Nhâm Thìn 1592) Trịnh Tùng thiết ba điều quân luật để gây cảm tình với dân chúng Bắc Hà:
- Không được lấy đồ ăn và củi đuốc của dân.
- Không được cướp bóc và phá hủy vườn tược.
- Không được hiếp dâm và giết người vì tư thù.
Thấy thế bất lợi, vua nhà Mạc đặt các tướng Mạc Ngọc Liễn, Bùi Văn Khuê và Nguyễn Quyện chống nhau với quân Trịnh ở Thăng Long, còn mình đem quân qua sông Nhị Hà đóng ở làng Thổ Khối. Mặc dù thành cao hào sâu, cuộc phòng thủ đáng kể là chu đáo, quân Mạc vẫn thua vì thành lũy bị phá hết. Bọn Bùi Văn Khuê và Mạc Ngọc Liễn bỏ chạy, Nguyễn Quyện bị bắt.
Sau cuộc toàn thắng này, Trịnh Tùng cho san phẳng thành Thăng Long rồi rút về Thanh Hóa. Sử không chép nguyên nhân việc rút quân của Trịnh Tùng sau khi hạ được thành Thăng Long và tại sao quân Trịnh không thừa thắng để tiêu diệt họ Mạc, có lẽ tại Trịnh nhận thấy sức quân mình không đủ giữ cũng như không đủ để bình định một cách chu toàn toàn bộ miền Bắc. Hơn nữa rút quân về sớm để quân sĩ nghỉ ngơi sau cuộc viễn chinh, ắt kết quả của sự chiến thắng hôm nay sẽ làm nức lòng họ trong cuộc hành quân Bắc phạt tương lai.
Về phần nhà Mạc không nhìn vào cuộc thất bại chua cay này để tu chỉnh lại quân đội, trái lại Mạc Mậu Hợp đã bạc đãi tướng sĩ, trễ nãi chính sự, đắm say tửu sắc, lại còn có thái độ chán nản của kẻ chiến bại (Mạc Mậu Hợp thấy vợ Bùi văn Khuê có nhan sắc, định giết Khuê để chiếm lấy). Khuê hoảng sợ chạy sang hàng Trịnh Tùng. Sau này Mạc Mậu Hợp thấy bại hẳn thì riêng cái tính hiếu sắc cũng đủ như các ông tướng hiếu sắc có bao giờ được ở địa vị trọn vẹn).
Sử không chép trận cuối cùng giữa Mạc và Trịnh vào tháng nào năm Nhâm Thìn (1592), có lẽ nghỉ ngơi được ít lâu quân Nam lại tiến ra Thăng Long. Đôi bên gặp nhau chặng đầu tại cuối huyện Ý Yên và huyện Phong Doanh tỉnh Nam Định. Mạc mất 70 chiến thuyền, tướng chỉ huy là Trần Bách Niên ra hàng.
Chặng thứ hai, quân Nam ra tới Bình Lục (Hà Nam) kéo lên Thanh Oai, đóng ở bãi Tinh Thần (thuộc xã Thanh Thần, huyện Thanh Oai) bằng đường thủy rồi ra tới Hát Giang.
Thủy quân nhà Mạc cầm cự không nổi, bị mất hàng trăm chiến thuyền. Mạc Mậu Hợp chạy sang Kim Thành (Hải Dương) thì quân Nam được lệnh đuổi theo. Vào thành Thăng Long, Trịnh Tùng thâu được rất nhiều của cải và bắt được Quốc Mẫu của nhà Mạc (mẹ của Mạc Mậu Hợp). Một số quan nhà Mạc 17 người xin đầu hàng là Đỗ Uông, Ngô Tạo…
Đại quân của Trịnh Tùng đóng ở huyện Vĩnh Lại. Phạm Văn Khoái được lệnh tiến lên huyện Yên Dũng và Vũ Ninh (Bắc Giang) bằng đường sông. Mậu Hợp chạy lên bộ vào ở ẩn một ngôi chùa ở huyện Phượng Nhỡn thì có kẻ tố cáo. Mạc Mậu Hợp bị Phạm Văn Khoái bắt được và giải về Thăng Long làm tội sống ba ngày rồi chém đầu đem bêu ở Thanh Hóa.
Trước ngày tàn của mình, Mạc Mậu Hợp đã cử Mạc Toàn thay thế để rãnh tay chống với quân Trịnh. Con Mạc Kính Điển là Kính Chiri cũng tự lập làm vua cùng 100 người trong hoàng tộc và các quan văn võ lại cố quy tụ phen nữa ở huyện Thanh Lâm, chiêu tập quân đội được hơn 7 vạn người (Đây là tài liệu của Việt Nam Sử Lược trang 281[3]). Mạc Toàn lại theo Mạc Kính Chi. Thanh thế quân Mạc nổi lên, chiến cuộc kéo dài được ít tuần. Sau Trịnh Tùng tự mình đem quân sang huyện Cảm Giang và Thanh Lâm đánh rất gắt, bắt được Kính Chỉ cùng 60 thủ túc cho họ Mạc.
Theo tài liệu Maybon, có lẽ đúng hơn, thì Mạc Toàn bị bắt sau Mạc Mậu Hợp ít lâu do đó Mạc Kính Chi mới lên kế vị; có lẽ nào Mạc Toàn còn ở bên ngoài mà Mạc Kính Chỉ lại lên thay rồi Mạc Toàn lại chạy về với Kính Chỉ như Việt Nam Sử Lược đã nói.[4]
Điều chắc chắn là sau đó cả Mạc Toàn cùng Kính Chỉ đều bị tử hình cùng một ngày, chỉ khác kẻ bắt chước kẻ bắt sau.
Mặc dù bị chém giét bắt bớ nhiều như vậy, con cháu nhà Mạc vẫn không tuyệt. Nhà Mạc còn chiến đấu dai dẳng cho tới hơn 80 năm sau nữa (1677) mới hết hẳn[5].
Tính ra nhà Mạc khởi nghiệp từ 1522 đến 1592 mới tạm ngừng, vừa đúng 65 năm ở ngôi ngự trị suốt cả miền Bắc, lấy Thăng Long làm thủ đô, đàng hoàng như mọi triều vua trước và sau. Duy từ 1592 trở đi, con cháu họ Mạc bắt đầu tàn, phải rời khỏi Thăng Long để lên chiếm cứ từ Trung du và duyên hải miền Bắc lên đến Cao Bằng cho tới 1667 mới tuyệt.
Vậy sử thần cần chép rằng nhà Mạc có hai thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất là thời ngự trị toàn cõi miền Bắc, hưng thịnh như các tiền triều. Thời kỳ thứ hai là thời ký thất thế chỉ còn nắm giữ được nửa xứ Bắc từ vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái nguyên trở lên mà thôi, cũng kéo dài được trên nửa thế kỷ nữa.
Sau cuộc đại thắng nhà Mạc, Trịnh Tùng cho người đón vua Thế Tông ra Thăng Long và mở tiệc ăn mừng cùng khao thưởng tướng sĩ. Từ giai đoạn này nhà Lê trở về cố đô, còn con cháu nhà Mạc bị phiêu bạt khỏi miền Trung xứ Bắc nhưng vẫn không thoái chí.
Năm sau, tông thất nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn lại tôn lập con Mạc Kính Điển là Mạc Kính Cung giữ châu Yên Bắc ở đất Lạng Sơn làm căn cứ nhưng chẳng bao lâu lại bị Thái úy Hoàng Đình Ái đuổi sang Long Châu. Nấn ná tại đây được ít tháng, Mạc Ngọc Liễn lâm bệnh rồi trước khi chết để thư lại cho Kính Cung khuyên đừng tranh giành với họ Trịnh nữa: “Nay nhà Lê lại nổi lên được, đó là việc trời định, dân có tội gì mà khổ mãi vì chiến tranh? Nên đành phận mình ở nước ngoài, còn hơn là ganh nhau lại rước người Tàu sang, làm hại cho dân nước”.
Lời khuyến cao tốt đẹp này không được con cháu họ Mạc nghe theo, nay xưng vương nơi nay, mai dấy quân nơi khác khiến họ Trịnh cũng lao tâm khổ trí khá nhiều. Và sỡ dĩ con cháu họ Mạc còn hoạt động, một phần cũng bởi nhà Minh vẫn tiếp tục giúp đỡ mà dân chúng cũng chưa bỏ hẳn họ Mạc.
Theo Việt Nam Sử Lược trong đám con cháu họ Mạc còn có Mạc Kính Chương xưng Tráng Vương ở Đông Triều, Quảng Yên bị Trịnh Tùng cử trấn thủ Hải Dương là Phan Ngạn đánh dẹp và bắt được. Lại có Mạc Kính Dụng (con Mạc Kính Chỉ) giữ đất Yên Bắc (Lạng Sơn) xưng Uy Vương sau cũng thất bại.
Năm Kỷ Hợi (1599) vua Thế Tông qua đời, hoàng tử Duy Tân lên thay, lấy hiệu Kính Tông. Năm sau, bọn Phan Ngạn, Ngô Đình Hàm và Bùi Văn Khuê nổi loạn ở cửa Đại An (Nam Định) vì họ Trinhk kiêu hãnh và lộng quyền thái quá. Về phía con cháu nhà Mạc cũng không ngừng chống đói, phần bọn Bùi Văn Khuê cũng có một lực lượng đáng kể nên Trịnh Tùng lại rút quân về Thanh Hóa.
Nhà Mạc trước tình thế này liền tôn thứ mẫu của Mạc Mậu Hợp là Bùi Thị lên làm Quốc mẫu rồi đón Mạc Kính Cung ở Cao Bằng về, tiếp tục chiến tranh ở trung châu Bắc Việt.
Sau bọn Bùi Văn Khuê và Phan Ngạn nghi ngờ mà giết lẫn nhau, còn Ngô Đình Hàm chạy qua phía nhà Mạc.
Trịnh Tùng lúc này lo chống Mạc ở miền Bắc, lại ngại họ Nguyễn ở phương Nam đánh thốc lên nên cho người vào gặp Nguyễn Hoàng lúc này kế nghiệp cha là Nguyên Kim làm trấn thủ ở Thuận Hóa. Được rõ thái độ của Nguyễn Hoàng không có ý phá Trịnh vì kiêng nể nhà Lê nên Trịnh Tùng có thể đem quân ra Bắc phen nữa. Thủy, bộ đại quân của Trịnh bắt được Bùi Thị giết đi còn Mạc Kính Cung chạy thoát được về Cao Bằng.
Dưới đời vua Lê Thần Tông (1619-1643) Mạc Kính Cung lại nhiều lần chiêu tập được những quan lại bất mãn của họ Trịnh khởi binh đánh nhau với họ Trịnh. Năm 1625, Kính Cung cũng bị bắt rồi bị giết. Mạc Kính Thoan là cháu Mạc Kính Cung về hàng vua Thần Tông, được phong tước Thái Úy Thông quận công, cho giữ đất Cao Bằng nhưng con là Mạc Kính HOàn không chịu nộp cống, năm 1660 chúa Trịnh Tạc lại đem quân đánh lui nhiều phen, sau Kính Hoàn theo Ngô Tam Quế chống lại nhà Thanh bị tướng Trịnh là Đinh Văn Tả chiếm mất Cao Bằng. Hoàn chạy sang Long Châu bị quân Thanh bắt được giải sang trả cho Trịnh. Từ đấy họ Mạc hết quật khởi, nhưng con cháu có nhiều người được về làm quan với nhà Lê.
Chú thích:
[1] Theo C.B. Maybon thì Trịnh Cối bị các binh tướng không phục nên phải trốn sang Mạc.
[2] Cũng theo C.B. Maybon trong “Histoire modern du pays d’An-nam”, một số bộ đội của nhà Mạc chạy vào Thuận Hóa bị Nguyễn Hoàng là con Nguyễn Kim đón đánh tan tành.
[3] Trong giờ phút đen tối này mà chỉ trong ít ngày nhà Mạc lại chiêu mộ ngay được sáu, bảy vạn quân thì rõ lòng dân không phải không theo họ Mạc. Có lẽ nhà Mạc bại vì những người lãnh đạo kém tài mà thôi. Việt Nam Sử Lược trong trang 282 nói: Ô Chỉ tiếc vì họ Mạc không ai chịu theo Ổ chúng tôi không đồng ý theo lẽ trên.
[4] Theo Mạc triều thế phổ thì Mạc Kính Chỉ là chú ruột Mạc Mậu Hợp, tức là ông chú của Mạc Toàn. Ta có thể nghĩa rằng lúc này họ Mạc đang suy bỉ mà ông cháu tranh nhau ngôi vị chăng? Nếu có sự tranh giành thì Mạc Toàn khinafo lại theo Kính Chỉ. Vậy xin lưu ý độc giả sự kiện này cho hợp với sự thật.
[5] Các sử gia Pháp cũng chép sau khi rút khỏi thủ đô Thăng Long, nhà Mạc còn kéo dài được hơn 80 năm nữa.