CHƯƠNG XIII NƯỚC VIỆT NAM TỪ BẮC VÀO NAM (1674 – 1775)
1 – Họ Trịnh Làm Chúa Miền Bắc
Như ta thấy từ đầu thế kỷ thứ XVI, sân khấu chính trị Việt Nam đã trở nên một bãi chiến trường đẫm mẫu suốt cả một trăm năm giữa hai họ Mạc Trịnh qua thượng bản XVII thì họ Mạc suy tàn, họ Nguyễn tại Thuận Hóa bắt đầu thay thế vào vai trò của họ Mạc cũng không ngoài mục đích tranh giành vương bá, cả hai họ Trịnh Nguyễn đều nêu cao chiêu bài “Phù Lê”.
Họ Trịnh bắt đầu từ Trịnh Kiểm chưa có thái độ gì quá đáng nhưng vì Trịnh Tùng sau khi dẹp được họ Mạc liền lên mặt kiêu hãnh với khắp mọi người, lấn áp cả Vua, bất chấp dư luận quốc dân, Trịnh Tùng còn lộng hành thêm nữa vì đã thành công trong việc bang giao với nhà Minh, tuy việc này không được thắng lợi đầy đủ như vua Lê và họ Trịnh mong muốn để thêm uy tín trước nhân dân.
Khi họ Trịnh đã vào được Thăng Long và thấy tình thế bất lợi, người nhà Mạc sang kêu với vua Minh rằng họ Trịnh nổi lên tranh ngôi chớ không phải con cháu nhà Lê.
Một phái đoàn của Minh triều được cử sang Nam Quan khám xét.
Tháng 3 năm Bính Thân (1596) các quan nhà Lê là Hộ Bộ thượng thư Đỗ Uông, Đô Ngự Sử Nguyễn Văn Giai (sau lại có hai hoàng thân Lê Cánh, Lê Lựu cùng Công Bộ Tả Thị Lang Phùng Khắc Khoan) đem 10 người kỳ mục, 100 cân vàng, 1000 cân bạc, và cái ấn An Nam Đô Thống Sứ của nhà Mạc và cái ấn An Nam Quốc Vương của vua Lê ngày trước lên trình các quan nhà Minh.
Các quan nhà Minh đòi vua Lê Thế Tông phải lên gặp họ. Trịnh Tùng đành cử Hoàng Đình Ái, Nguyễn Hữu Liêu đem một vạn quân đi hộ giá.
Nhà Minh đòi phải nộp người vàng và ấn vàng như cũ, rồi không chịu đến hội. Chờ không lâu được vua Thế Tông lại trở về.
Tháng tư năm sau, nhà Minh lại mở cuộc họp thứ hai cũng vẫn tại Nam Quan. Lần này 5 vạn quân đi hộ vệ nhà vua cũng do Hoàng Đình Ái chỉ huy, chừng e quan nhà Minh trở mặt bắt vua Lê chăng.
Cuộc đàm phán thành tựu vì phái đoàn của nhà Lê chịu nhận chức Đô Thống Sứ và cử phái đoàn sang nộp cống tại Yên Kinh, sau này Phùng Khắc Khoan còn dâng sớ cố nài nhà Minh phong vương cho vua Lê. Từ đó hai nước có sự thông sứ như trước còn nhà Mạc thì được nhà Minh can thiệp nên nhà Lê phải để cao bằng thuộc quyền nhà Mạc.
Năm Kỷ Hợi (1599) Trịnh Tùng tự Xưng làm Đô Nguyên Súy, Tổng Quốc Chính Thượng Phụ Bình An Vương, chỉ cho vua Lê thu thuế 1.000 xã gọi là lộc Thượng tiến và 5.000 lính làm quân túc vệ, 7 con voi và 20 chiến thuyền. Rồi Trịnh Tùng lập phủ Liêu là một triều đình riêng gồm Lục Phiên (cũng như lục bộ), tự quyền đặt quan, thu thuế, bắt lính và chỉ khi nào có dịp long trọng đặc biệt mới mời vua ra để thiết triều hay tiếp sứ. Tóm lại vua Lê chỉ còn hư vị, mọi quyền hành đều qua phủ Chúa hết. Từ đó chế độ phong kiến toàn thịnh ở Việt Nam ra đời và con cháu nhà chúa được cả quyền thế tập với danh vị là Thế Tử (thái tử là con vua, thế tử là con chúa).
Trước sự hống hách của Trịnh Tùng, vua Kính Tông (là con vua Thế Tông, mất năm Kỷ Hợi (1599) húy là Duy Tân lên ngôi năm 1600 (niên hiệu Thận Đức) không chịu nổi, nhân con Trịnh Tùng là Trịnh Xuân muốn tranh quyền với anh cả là Trịnh Tráng liền mưu giết Trịnh Tùng. Công việc bại lộ Trịnh Tùng bức vua thắt cổ giữ năm 32 tuổi.
Hoàng tử Duy Kỳ lên thay tức là Thần Tông.
Năm Quý Hợi (1623) binh quyền của nhà chúa được chia cho Trịnh Tráng và Trịnh Xuân, một làm chánh, một làm phó. Nhưng Trịnh Xuân không chịu nổi, nổi loạn đốt Kinh thành, Trịnh Tùng phải chạy về xã Hoàng Mai (một làng ngoại ô Hà Nội ngày nay) ngụ tại nhà Trịnh Đỗ. Trịnh Tùng dụ được Trịnh XUân đến rồi giết đi. Mấy hôm sau thì Trịnh Tùng mất ở chùa Thanh Xuân, thuộc huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. Vì thời cuộc bấy giờ rối ren, dư đảng của Trịnh Xuân còn hoạt động, Trịnh Tráng phải tạm thời đưa vua về Thanh Hóa. Tráng được vua phong làm Thái Úy Thanh Quốc Công, Tiết Chế Thủy Bộ Chư Quân.
Sau này dẹp xong Mạc Kính Thoan, bình định được Đông Đô. Trịnh Tráng lại rước vua ra Bắc và tự xưng là Nguyên Súy Thống Quốc Chính, Thanh Đô Vương.
Kể từ thế kỷ XVI, có thể nói rằng uy quyền cua con cháu vua Lê Thái Tổ không còn gì nữa, họ Trịnh còn công khai giết vua này, làm mưa gió trên sân khấu chính trị miền Bắc như không còn biết có ai dưới mắt nữa.
Lúc này (1644) bên Trung Quốc nhà Thanh dấy nghiệp và thay thế nhà Minh sau khi Quế Vương, ông vua chót của tiền triều chạy qua Miến Điện thì bị bắt và bị giết.
2 – Họ Nguyễn Xưng Hùng Tại Phương Nam
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Ai vô xứ Nghệ thì vô?[1]
Giai đoạn thứ nhấtTrong khi họ Mạc, Trịnh chống nhau gay gắt, đồng thời với Trịnh Tùng (kể từ khi Trịnh Kiểm qua đời là năm Canh Ngọ (1570) một nhân vật kiệt hiệt không kém bắt đầu lộ diện, Nguyễn Hoàng.
Nguyễn Hoàng là con thứ hai của Nguyễn Kim mà các sử thần nhà Nguyễn đã đề cao vai trò phù Lê diệt Mạc và bị tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc năm Ất Tỵ (1545).
Dòng họ Nguyễn kể từ Nguyễn Hoằng Dụ với Nguyễn Kim đã được thiên hạ liệt kê vào các anh hùng thời đại, rồi tới con cháu là Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng người ta cũng thấy có nhiều khả năng và thủ đoạn lợi hại. Trịnh Kiểm là kẻ tinh đời thấy hai ông em vợ sớm muộn có thể trở thành nguy hiểm cho cái địa vị độc tôn của mình thuở ấy. Anh em Hoàng bấy giờ đang từng phục vụ dưới cờ của Trịnh Kiểm, lập được nhiều công lao. Nguyễn Uông được phong làm Lạng Quận Công, Hoàng được tước Đoan Quận Công. Rồi Nguyễn Uông chết. Người ta ngờ Uông đã bị độc thủ của ông anh rể. Ư Kỷ là Thái Phó của nhà Lê bây giờ và là anh cả của mẹ Nguyễn Hoàng thấy thế nguy hiểm khuyên Nguyenx Hoàng một thời giả ngây dại để khỏi bị Trịnh Kiểm để ý[2]. Trong lúc này gia thần của Kiểm là Nguyễn Hùng Long thúc dục Kiểm trừ Nguyễn Hoàng để tránh hậu họa.
Sau này Nguyễn Hoàng ngày đêm tìm cách lánh xa Trịnh Kiểm, thấy không còn cách nào hơn là nhờ bà Ngọc Bảo (chị của Nguyễn Hoàng) vận động cho mình đi vào Thuận Hóa với chức vụ Trấn Thủ. Dịp may là lúc này Thuận Hóa thường vẫn bị người Chàm quấy rối, mặc dầu đất này đã thuộc về ta từ một thế kỷ. Thêm vào đó Thuận Hóa cũng như Quảng Nam hay bị nhà Mạc đem quân vào đánh để chia lực lượng của nhà Lê, Trịnh Kiểm bèn chấp thuận đề nghị của vợ.
Người ta nói rằng trong khi có mưu định đi Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng đã cho người ra Hải Dương hỏi ý kiến cụ Trạng Trình. Cụ đang đứng ngắm hòn giả sơn trước nhà và tại đây một đàn kiến đang bò theo chân ngọn núi. Cụ chỉ vào giả sơn nói: “Hoành sơn nhấn đái, vạn đại dung thân”[3]. Thế là Hoàng yên trí lên đường vào cuối năm Mậu Ngọ (1558) đời vua Anh Tông, mang theo một số bà con họ hàng và binh sĩ vốn ở đất Thanh Nghệ. Hoàng bấy giờ đã 34 tuổi.
Nơi đồn trú đầu tiên của Nguyễn Hoàng là xã Ái Tử (sau gọi là kho cây khế) thuộc huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị ở giáp ranh của hai phủ Tân Bình và Triệu Phong.
Tại Quảng Nam bấy giờ cũng có một quan Tổng binh là Nguyễn Bá Quýnh. Vào năm Kỷ Tyh (1569) Hoàng ra chầu vua ở An Tràng, lại sang thăm Trịnh Kiểm rất là thân thiết. Qua năm sau (1570) Trịnh Kiểm cho triệu Nguyễn Bá Quýnh về kinh. Quảng Nam từ đó hợp vào Thanh Hóa và đặt dưới quyền của Hoàng, định lệ mỗi năm Hoàng phải nộp 400 cân bạc và 500 tấn lụa. Chuyện này thành tựu, Hoàng cho người con thứ sáu vào trấn Quảng Nam và khuếch trương mọi việc.
Các sử sách từ trước đến nay chép về Nguyễn Hoàng đều có sự khen ngợi ông là người khôn ngoan, có tài tổ chức, biết cách trị dân nên được dân chúng rất mến yêu. Chẳng bao lâu vùng Thuận Hóa của ông trở nên trù phú sầm uất. Sauk hi Hoàng vào Thuận Hóa được một năm hai tỉnh Thanh Nghệ bị lụt to, nhiều dân ở các vùng lụt đã di cư vào Thuận Hóa để nhờ cậy.
Năm Nhâm Thân (1572) Trịnh Kiểm vừa mất, Trịnh Tùng và Trịnh Cối dành nhau quyền bính như trên đã nói, sau đó Trịnh Cối thua chạy sang hàng nhà Mạc. Lúc này (1572) Mạc động binh đánh cả Trịnh lẫn Nguyễn tại Thanh Hóa và Thuận Hóa nhân giữa Nguyễn Hoàng và Trịnh Tùng có sự xung đột nhưng Mạc không thành công.
Nguyên Trịnh Tùng vừa nắm được địa vj thay cha liền khiến ngay Tham đốc Mỹ Lương (Mỹ Lương là người huyện Khang Lộc, phủ Quảng Ninh tỉnh Quảng Bình ngày nay) vào Thuận Hóa thâu thuế nhưng bề trong có lẽ Mỹ Lương được chỉ thị mật[4] đi đánh Nguyễn Hoàng thì phải hơn. Hai em là Văn Lan và Nghĩa Sơn được lĩnh chức thủ vệ. Được cơ hội thuận tiện bọn này chiếm luôn huyện Võ Xương (phủ Triệu Phong tỉnh Quảng Trị bây giờ) và Minh Linh trong khi Mỹ Lương do đường núi vượt qua địa phận Bái Trời và Cam Lộ tới Ngọa Kiều cách thành Quảng Trị bốn cây số về phía Nam.Đây có dòng sông nối Quảng Trị vào Thừa Thiên. Rồi hai đạo quân của Trịnh đánh nhất loạn vào căn cứ của Nguyễn Hoàng.
Nhờ được biết trước kế hoạch này, Nguyễn Hoàng cũng chia quân làm hai cánh, một giao cho chỉ huy cho Trương Trà gốc gác ở Tống Sơn (cùng quê với Hoàng) đón đánh quân Nghĩa Sơn. Còn Hoàng thân giữ mạn Ngọa Kiều, quân Trịnh bị đánh bất ưng tan vỡ ngay. Mỹ Lương bị bắt sống rồi bị giết, doanh trại bị đốt sạch sẽ. còn quân của Trương Trà gặp ngay Nghĩa Sơn ở trên quan lộ phía Bắc Quảng Trị ba chục cây số tại làng Phúc Thị. Quân Nguyễn lúc đầu bị bất lợi vì chủ tướng bị bắn không còn gượng được, đã tính tháo chạy thì vợ Trương Trà vội mặc quân phục thay chồng chỉ huy lại thúc quân tiến lên. Người đàn bà này họ Trần và chính bà ta đã chém được Nghĩa Sơn. Văn Lan thấy anh tử trận núng thế đành rút về với họ Trịnh.
Năm Nhâm Thân (1572) sau khi đánh Thanh Nghệ vô kết quả (dưới quyền chỉ huy của Mạc Kính Điển) thì quân Mạc tiến vào Thuận Hóa do tướng Lập Bạo (tước Quận Công người Bố Chính) kêu gọi. Mạc còn cho 60 chiếc thuyền do hải đạo vào đóng làng Hồ Xá và Lãng Uyển qua cửa Việt. Theo sách “Việt Nam Khai Quốc” thì lục quân của nhà Mạc có 1.000 người đi từ Khang Lộc tới.
Hai bên cách nhau chừng vài cây số thấy quân Mạc mạnh và thiện chiến vì đã đánh nhiều ở chiến trường miền Bắc. Hoàng liền dụng mưu. Ông kiếm được một cô gái thật đẹp là Ngô Ngọc Lâm[5] (người làng Thế Lai huyện Hương Trà) sai mang vàng lụa sang cầu hòa. Lập Bạo chịu liền tin rằng Trịnh Nguyễn xung đột với nhau thì Mạc với Nguyễn đoàn kết để diệt Trịnh là điều hợp lý và có lợi.
Lập Bạo không phòng xa nên lúc đến gặp Nguyễn Hoàng thì bị quân của Nguyễn phục kích bắn chết và đánh tan hết quân của Lập Bạo, một bọn chịu hàng được đưa vòa khẩn hoang ở vùng Tây Bắc Quảng Trị (vùng Bái Trời) lập được thêm 36 làng quanh Cồn Tiên.
Năm Quý Tị (1593) vòa tháng năm, Trịnh Tùng đuổi được nhà Mạc ra khỏi thành Thăng Long nhưng lực lượng của nhà Mạc vẫn còn hoạt động ở nhiều nơi. Nguyễn Hoàng đem quân đội ra chúc mừng vua Lê thắng trận và ở lại Bắc Hà luôn 8 năm để giúp vua. Ông lập được nhiều chiến công nhưng họ Trịnh vẫn không hết e ngại.
Tháng 5 năm Canh Tý (1600) bọn Phan Ngạn, Ngô Đình Hàm, Bùi Văn Khuê nổi loạn chống họ Trịnh. Nguyễn Hoàng tình nguyện đi chinh phạt, rồi Hoàng cho đốt doanh trại và đem thắng quân bản bộ do đường thủy qua cửa Đại An về Thuận Hóa.
Trịnh Tùng cho binh sĩ đuổi theo nhưng không kịp.
Về được đến nhà, sau đó 5 tháng Hoàng đem con gái là nàng Ngọc Tú ra gả cho Trịnh Tráng là con Trịnh Tùng và đồng thời lấy lời nói khéo dâng biểu xin lỗi vua Lê Thế Tông cùng họ Trịnh.
Sau khi Hoàng thoát khỏi nanh vuốt của họ Trịnh, Trịnh cho Thiêm Đô Ngự Sử Lê Nghĩa Trạch mang một bức tâm thư vào cho Hoàng. Chúng tôi gọi là bức tâm thư vì Trịnh Tùng không lấy danh nghĩa triều đình mà viết cho Hoàng, trái lại Tùng lấy tình cháu mà gởi thư cho cậu ruột. Bức thư này viết rất khéo léo, rất chánh trị đã đề cập đến các vấn đề dưới đây:
1) Ca ngợi tài đức của Nguyễn Hoàng, những tài đức này do tổ tiên là những bậc anh hùng hào kiệt để lại.
2) Nêu cái tình thân mật đặc biệt giữ Hoàng và Tùng nói riêng giữa hai họ Trịnh – Nguyễn nói chung.
3) Nói đến sự nghiệp phục hưng hoàng triều, diệt Mạc Phù Lê là công lao của hai họ.
4) Nhắc nhở đến điểm Trịnh vẫn luôn luôn đề bạt Nguyễn vào những chức vụ quan trọng trong nước; ngay cả khi Trịnh dẹp xong Mạc vô cùng vất vả gian lao Hoàng mới ra Bắc mà vẫn được giữ chức lớn (quản đốc phủ Hà Trung thuộc tỉnh Thanh Hóa và 7 huyện thuộc Sơn Nam với chức Hữu Tướng).
5) Trách Hoàng nhân dịp có vụ loạn Bùi Văn Khuê, Phan Ngạn, Hoàng xin đi đánh rồi về thẳng Thuận Hóa. Trong việc này Tùng phàn nàn Hoàng và có ý ngờ Hoàng bí mật nhúng tay vào vụ loạn hay đồng lõa với phiến loạn mà Tùng không dám nói ra một cách quyết liệt.
6) Khuyến cao Hoàng kíp sửa đổi nhiều điều lầm lỡ, cho người mang thư ra xin lỗi vua Lê cùng lo nộp thuế cho Triều đình để cung ứng cho các nhu cầu của Nhà nước, như thế là vẫn giữ được thanh danh của mình và của tổ tiên, nếu cứ nganh ngạnh nhà vua sẽ đem quân trị tội, e lúc đó là hối tiếc quá muộn.
Rồi Hoàng tiếp được thư này rất niềm nở, hậu đãi sứ giả, theo lời Tùng dâng biểu lên vua Lê và đề nghị kết thông qua với Tùng như trên đã nói…
Về vấn đề lương thuế giữa nhà Le và họ Nguyễn, sử chép có những vụ lôi thôi như sau:
Năm Bính Tuất (1586) Tùng cho Hiến Sát Sứ Nguyễn Tạo vào Thuận Hóa khám xét ruộng đất. Do việc này ra thấy việc Hoàng đóng góp với Lê triều bây giờ có lẽ rất sơ khoáng, nên kể từ 1600 tình thế giữa hai họ Trịnh – Nguyễn trở nên căng thẳng, việc thuế cống hẳn thất thường cho tới 1620 vấn đề thuế má đã thành cớ cho Trịnh đem quân vào hỏi tội Nguyễn.
Sau những vụ lộn xộn với hai họ Trịnh, Mạc trên đây Hoàng được rảnh tay để mở mang địa phương của mình về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội và quân sự.
Với Chàm năm 1607 Hoàng có mở cuộc kết giao và do một phái bộ ngoại giao gửi đến, nhưng việc này không được lâu bền. Hai năm sau Chàm xua quân vào đất Quảng Nam bị Hoàng đánh lui sau đó Hoàng chiếm thêm của Chiêm Thành một phần đất để lập ra tỉnh Phú Yên gồm ba phủ dưới đây:
1) Phủ Thăng Hoa có 3 huyện: Lê Giang, Hạ Đông, Hi Giang.
2) Phủ Tư Nghĩa có 3 huyện: Bình Sơn, Mộ Hóa, Nghĩa Giang.
3) Phủ Hoài Nhơn có 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn.
Sử gia Pháp Maybon còn nói rằng Hoàng thành công trong việc kiến tạo giang sơn và sự nghiệp ở miền Nma nhờ ở bàn tay của một số quan lại và tướng lãnh miền Bắc đã mến cái đức của Hoàng mà tới.
Rồi với cái thời gian 55 năm yên ổn từ 1572 đến 1627, họ Nguyễn đã xây dựng được khá nhiều cơ sở ở Nam Hà với 3 tỉnh Quảng Bình, Thuận Hóa, Quảng Nam và dần dần trở nên cường thịnh. Do những thực lực khuếch trương kể trên sau này họ Trịnh phải chịu công nhận nền tự chủ của họ Nguyễn và lấy con sông Gianh làm đường phân giới cho hai miền Nam Bắc.
B - Giai đoạn thứ nhì.
Trong giai đoạn đầu tiên ta thấy Trịnh – Nguyễn chưa ra mặt chống nhau. Cả hai tuy bên trong muốn ăn gan nuốt mật nhau nhưng vẫn e dè sự dị nghị của quốc dân, nên thư đi từ lại vẫn dùng lời lẽ nhân nghĩa, ôn hòa. Đôi bên còn tiếp tục thông gia với nhau và Trịnh còn đề nghị thăng tước cho chúa Nguyễn là khác (địa vị của chúa Nguyễn chỉ kém chúa Trịnh mà thôi. Trịnh được phong vương còn Nguyễn chỉ được đến tước Công là hết. Tước của Hoàng tới 1593 là Đoan Quận Công, còn khi Hoàng vào làm Trấn thủ Thuận Hóa, Hoàng mới được có chức Thái Phó). Việc này khiến họ Nguyễn rất uất ức, vì Nguyễn nghĩ rằng ít nhất địa vị của mình phải ngang địa vị của Trịnh, bởi họ Nguyễn đã có công trung hưng nhà Lê.
May nhờ được rảnh rang trên nửa thế kỷ, Nam Hà xây dựng tổ chức được mọi việc trở nên hùng mạnh không thiếu về một phương diện nào, thì sự kình địch, sự ghen ghét giữa hai họ càng nảy nở thêm lên cho tới năm Canh Thân (1620) cuộc xung đột bằng sắt máu bùng ra không còn che đậy nữa.
Quân lực của Trịnh – Nguyễn nếu so sánh có khác nhau nhiều. Những giáo sĩ ngoại quốc từng ở Việt Nam thuở đó kể rằng bộ binh của Bắc Hà có tới 100.000 người, 500 thới voi, 500 chiến thuyền lớn, mỗi chiến thuyền có ít nhất là 3 chiếc thần công (đại bác) yểm hộ. Theo A. de Rhodes, lực lượng thủy quân này với sự mau lẹ của hỏa lực có thể khuất phục được cả chiến hạm Âu Châu thường vãng lai trên bờ biển Trung Hoa thuở đó.
Về quân lực của nhà nguyễn, cá sử của ta không thấy nói rõ rệt mà các nhà viết sử ngoại quốc cũng không đưa ra được những con số nào khả dĩ chuẩn đích, người ta chỉ biết rằng Nguyễn ít lính và chiến thuyền hơn Trịnh, bởi sông ngòi ở đây chật hẹp nên chúa Nguyễn không tính đến thủy chiến chưng? B. Vachet trong cuốn ký ức lục về Nam Hà do Linh Mục L.Cadière xuất bản năm 1943 (Mémoire sur la Cochinchine)nói tuy vậy trong năm 1674 các chúa Nguyễn có 133 chiến thuyền, nhưng lục quân của họ Nguyễn đáng kể hơn cả. Các giáo sĩ cũng nói Nguyễn có tới 40.000 quân chia ra như sau: 15.000 canh phòng biên giới – 9.000 đặt tại Kinh Đô – 6.000 phòng vệ Hoàng Gia và các thân vương – 1.000 trấn các tĩnh.
Nhờ sự giao dịch với người Bồ Đào Nha, có thể Nguyễn đã tu chỉnh được một phần nào về vũ khí của mình như đóng tàu chiến, đúc súng đại bác và xây thành đắp lũy rất là kiên cố để chống nhau với quân Bắc. Và nói đến thành lũy là nói đến lũy Tường Dục và thành Đồng Hới do Đào Duy Từ kiến thiết quả đã bảo vệ được miền Nam rất có nhiều hiệu lực, nếu không, với những cuộc tấn công ào ạt của miền Bắc, tình thế của Nam Hà khó mà giữ vững.
Chú thích:
[1] Đây là câu ca dao tuyên truyền cho nhà Lê khi mới nổi lên ở hai miền Thanh-Nghệ.
[2] Nguyễn Kim khi xưa có gửi Ư Kỷ nuôi Nguyễn Hoàng từ năm hai tuổi để rảnh tay chạy qua AI Lao vận động sự giúp đỡ của quốc vương xứ này cho con cháu nhà Lê.
[3] Nghĩa là: một giải Hoành Sơn có thể bao dung cho vạn đời. Cụ Trạng khuyên Hoàng vào Thuận Hóa để yên thân.
[4] Vụ Mỹ Lương và Lập Bạo đánh quận Thuận Hóa có thể được coi là một chuyện miền Bắc thử sức miền Nam xem mạnh yếu thế nào. Trịnh lấy cớ cho người vào Thuận Hóa thâu thuế cốt để Thuận Hóa không ngờ thì đánh mới dễ có kết quả.
[5] Ngô Thị sau được gả cho một vị quan của chúa Nguyễn.