← Quay lại trang sách

CHƯƠNG XIV TRỊNH – NGUYỄN PHÂN TRANH (1627 – 1775)

Giai Đoạn Gây Hấn Công Khai

Trong những năm đầu của thế kỷ XVII chinh sự Trung Quốc đi đến chỗ biến chuyển mạnh mẽ, nhà minh đã chống đỡ một cách rất yếu ớt cuộc tấn công của nhà Thanh bấy giờ đã thôn tính gần hết hai phần Hoa Bắc và Hoa Trung, con cháu nhà Mạc tại miền Cao Bắc Lạng mất hậu thuẫn về phía Trung Quốc tuy chưa hoàn toàn quỵ hẳn nhưng sự vẫy vùng cũng đã trở nên uể oải. Trịnh không còn thắc mắc nhiều như xưa về kẻ thù sát nách ấy nên liền chỉ ngọn cờ “Điếu phạt” về Nam Phương. Lúc này con chim Bằng Thuận Hóa cũng đã đủ lông đủ cánh để bay bổng dưới vòm trời Việt Nam (Đinh Mão 1627).

Trịnh nhật định rằng nếu không sớm diệt Nguyễn Thị thì rồi đây Nguyễn cũng sẽ tai hại không kém gì Mạc vừa qua, nhất là con cháu của Nguyễn Hoàng nhiều thủ đoạn, lắm mưu trí không thua gì ông cha. Trịnh lại còn bồn chồn bởi nỗi Thuận Hóa được một số chuyên viên Bồ Đào Nhà và Pháp giúp đỡ rất lợi hại về việc đóng các tàu chiến và đúc các đại bác theo kiểu tây phương, mà về phần Bắc Hà vẫn chưa lợi dụng được ngoại quốc vào công cuộc đấu tranh của mình. (Maybon chép rằng năm Giáp Dần (1614) chúa Sãi được Jean de la Croix người Bồ Đào Nha mở lò đúc đúc súng ở Thuận Hóa. Nơi có lò đúc súng bây giờ vẫn mang tên là Phường Đúc).

Nguyễn Hoàng mất năm Quý Sửu (1613) thọ 89 tuổi, kế vị Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên con thứ 6, dân chúng gọi là chúa Sãi (từ chúa Sãi họ Nguyễn thêm chữ Phúc làm đệm).

Chúa Sãi được cha tiêu di: đất Thuận Quảng này, bên Bắc có núi Hoành Sơn, có sông Linh GIang; phía Nam có núi Hải Vân và Bi Sơn là đất dụng võ trời dành cho kẻ anh hùng. Phải biết thương dân và rèn luyện quân sĩ để gây dựng sự nghiệp muôn đời…

Mười năm sau ở ngoài Bắc Trịnh Tùng qua đời, Quý Hợi (1623), Trịnh Tráng nối nghiệp. Tráng liền cho người vào Thuận Hóa đòi số thuế mà miền Nam không đóng góp cho triều đình từ 1620, biết rằng họ Nguyễn sẽ chẳng nộp nhưng có thế họ Trịnh mới có cớ hưng binh hỏi tội được[1].

Công Bộ Thị Lang Nguyễn Duy Thì và hoạn quan Phan Văn Trị được cử vào Thuận Hóa đòi thuế chúa Nguyễn.

Sãi Vương trả lời sứ giả Bắc Hà rằng Thuận Quảng mất mùa luôn không thể nộp lương thuế cho triều đình, xin khất chừng nào được mùa sẽ hay.

Thiết tưởng cũng cần chép ra đây tờ sắc mà Trịnh Tráng đã lấy lời vua Lê gởi tới chúa Sãi để hiểu rõ thái độ của đôi bên:

“Hoàng thượng sắc dụ cho Thái Bảo Thụy Quận Công là Nguyễn Phúc Nguyên được biết rằng:

Mệnh lệnh triều đình đạo làm tôi phải tuân thủ,

Thuế má phủ huyện, tướng cõi ngoài không được tự chuyên.

Trước đây TRẫm có sai Công Bộ Thượng Thư Nguyễn Duy Thì, Bá Khê Hầu Phan Văn Trị vào Thuận Hóa đạo đạt tình ý, chỉ bảo đường họa phúc để cho tỉnh biết mà phục tùng quyền chính triều đình. Không ngờ nhà ngươi mang lòng dùng dằng, tối đường tới lui, nói thoái thác cho lô thôi ngày tháng, để đến nỗi thuế má thiếu thốn, không đủ việc chi nhu, đạo làm tôi như thế đã phải chưa? Nhà ngươi này nên đổ lỗi trước giữ gìn phép tắc. Phàm ngạch thuế trong hai xứ Thuận Quảng từ năm Quý Hợi về trước, có phải đã mất mùa thì xá cả cho; còn từ năm Giáp Tý đến nay phải tính cho đủ theo lệ trước tải thuyền đem ra nạp cho đủ; và phải chỉnh tề binh mã, hoặc thân đến kinh đô triều hạ, hoặc phải sai con đi thay, để coi xem nghi vệ trong nước, và để tỏ giãi tấm lòng làm tôi. Nếu thế thì triều đình sẽ phong thêm cho tước vinh hiển, để rạng tỏ đến tổ tông. Nhược bằng thoái thác không đến thì tức là phạm tội với triều đình.

Khâm tai dụ sắc”

Thấy sứ giả về không, Trịnh Tráng lại cho sứ quay lại Thuận Hóa một lần nữa. Lần này Tráng không nói đến chuyện thuế mà đòi chúa Sãi cho con ra chầu và lấy 30 con voi cùng 30 chiếc thuyền để cống nhà Minh. Chúa Sãi khước từ nốt nhưng tiếp đãi sứ giả thì rất ân cần trọng hậu.

Đại Chiến Lần Thứ Nhất (Đinh Mão – 1627)

Trịnh Tráng liền cương quyết gởi Đô Đốc Nguyễn Khải và Thiếu Bảo Nguyễn Danh Thế tháng 8 năm Bính Dần (1626) đem 5.000 quân làm tiền phong, còn mình đem đại binh và rước vua Lê đi đánh họ Nguyễn sau. Quân Trịnh gồm 2 đạo: một do Nguyễn Khải đã đến đóng ở Hà Trung sẵn chờ lệnh của Trịnh Tráng. Một đạo dĩ nhiên quan trọng hơn là đại quân do vua Lê và Trịnh Tráng chỉ huy. Theo Maybon và Alexandre de Rhodes, tổng số quân đội thủy lục của Bắc Hà bấy giờ có tới 200.000. Xét ra với cuộc đại chiến thứ nhất này Trịnh Tráng đã tính quyết liệt ăn thua với họ Nguyễn. Còn ngày thường thì quân chính quy chỉ có tới 50.000 mà thôi.

Sãi vương được tin quân Bắc tiến vòa liền phong Hoàng Thân Vệ lãnh quyền Tiết Chế, lục quân trao cho Nguyễn Hữu Dật chức Giám chiến. Con đẻ của chúa là Nguyễn Phúc Trung chỉ huy thủy quân để tiếp tay cho Nguyễn Hữu Dật nếu cần đến.

Quân Bắc đến thì đóng ngay ở phía Bắc sông Nhật Lệ thuộc hữu ngạn. quân Nam cũng cắm trại bên sông này.

Bắt đầu kỵ binh của Bắc do Lê Khuê cầm đầu xông vào đánh quân của Sãi Vương tính gây một cuộc lộn xộn lớn nhưng quân Nam nhờ có đại bác chống trả lại rất có hiệu lực.

Quân Bắc liền rút về giữ các cồn cát nổi lên ở cửa sông để tránh hỏa lực của quân Nam. Đêm đến quân Nam nhân nước thủy triều dâng lên liền tiến đến đánh úp trại của Nguyễn Khải bằng đại bác. Quân của Khải rối loạn thì Tráng đem viện binh tới nên quân Trịnh được bình tĩnh trở lại và đánh chiếm được một phần quân nhucủa quân Nguyễn.

Quân Nguyễn rút lui một hồi rồi tung tượng binh ra. Quân Trịnh hoảng sợ bỏ chạy để lại nhiều xác chết trên bãi chiến trường.

Tráng vẫn còn ham chiến, chỉnh đốn lại quân sĩ ở một nơi xa đó, và tính tái chiếm luôn phen nữa.

Nguyễn Phúc Dật và một tướng tùy thuộc là Trương Phúc Gia liền lập mưu viết một lá thư nặc danh gởi đến cho Tráng nói ngoài Bắc đang có cuộc chuẩn bị dấy loạn của Trịnh Gia và Trịnh Nhạc là anh em của Tráng. Tráng sinh nghi lại thấy quân mình bị đẩy lui nhiều phen và bị thiệt hại nhiều lần rút quân về hậu tuyến.

Cuộc chiến tranh này đã kéo dài đúng bốn tháng, xuất quân vào ngày đầu tháng ba dương lịch, rút lui vào đầu tháng bảy.

Đại Chiến Lần Thứ Hai (Canh Ngọ - 1630)

Trận đánh này khai diễn vào mùa đông do Nguyễn Đình Hùng (Cháu gọi bằng ông của Nguyễn Ư Kỷ). Mục tiêu là châu Nam Bố Chính đang do Nguyễn Tịch coi giữ và đóng ở Dinh Ngói.

Tịch tử trận, tất cả địa phương này về tay quân Nguyễn. Trai tráng ở đây bị quân Nguyễn xung vào làm lính được 24 đội, đổi tên cũ ra Dinh (ý nghĩa cũ của DInh là nơi vua chúa ở, năm 1626 Dinh đổi ra Phủ. Sau này Dinh chỉ có nghĩa là một đơn vị hành chánh mà thôi, và đặt ở đây một quan Trấn Phủ. Dưới đời Võ Nương sau này giang sơn của họ Nguyễn chia ra làm 12 dinh tức là tỉnh bộ ngày nay).

Trước Phúc Chấn được cử đến làm Trấn Thủ đầu tiên ở địa hạt này.

Đầu năm 1634 quân Bắc lại vào.

Bia Trường Kiều chép rằng: vào tháng 12 (31 tháng 12, 1633 – 28 tháng 1, 1634) Trịnh Tráng họp quân thủy bộ mở cuộc Nam chinh.

Chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu Dật làm Đốc Chiến cà Chưởng Cơ ra ngăn định. Quân Trịnh ngừng lại và giữ thế thủ cách Đồng Hới không xa.

Hữu Dật ra lệnh tấn công. Quân Trịnh yếu thế trở nên rối loạn, thiệt hại đến một nửa rồi bỏ chạy. Lúc này người con thứ ba của chúa Sãi tên là Ánh ngầm tổ chức một cuộc đảo chính và thông đồng với chúa Trịnh.

Năm Tân Vị (1631) con cả của Sãi Vương là Kỳ Trấn Thủ Quảng Nam chết. Ánh bấy giờ là Chưởng Cơ được thay thế cùng với em là Tứ (con thứ tám của chúa Sãi) giữ chức Tham tướng (phó tướng). Sãi vương không ưa Ánh vì tính kiêu ngạo và bất nhất nên có phần nghi ngờ bèn đặt một ký lục tên là Phạm rất thân với người con thứ hai của chúa là Nguyễn Phúc Lan (chúa Thượng) để dò xét Ánh.

Sau này nhờ có Phạm mà chúa Sãi biết Ánh có dị chí. Về phần Ánh biết rằng không thể với vài trăm thủ túc mà cướp được địa vị của cha nên Ánh phải nhìn về Trịnh. Nhưng Quảng Nam xa, chỉ còn cách xin ra Quảng Bình làm Trấn Thủ thì Ánh mới dễ tư thông với Trịnh được. Do đó Ánh mới cử người ra điều đình ngầm với Lý Minh là văn chức ở tỉnh Quảng Bình vận động nhân dân đòi triệu hồi Trấn Thủ Tuấn là cháu của chúa Nguyễn Hoàng rồi xin cho Ánh rat hay. Sãi Vương thấy dân kêu ca vì sự hà khắc của Tuấn nên tin lời và cho Ánh ra Quảng Bình. Nhưng khi sắc phong tới Quảng Nam, Ánh lại vắng mặt bởi cuộc đi săn luôn một tuần lễ. Chúa giận nên cử Nguyễn Cửu Kiều.

Ánh vẫn không thoái chí cho hỏi dò Lý Minh về Kiều. Lý Minh nói Kiều là người nhút nhát, nếu quân Trịnh vào ắt Kiều sẽ bỏ chạy.

Được tin Trịnh Tráng vội đưa quân vào Nhật Lệ. Chúa Sãi liền mang quân cự địch.

Khi quân Trinh – Nguyễn đối diện nhau, Trịnh bắn đại bác làm hiệu cho Ánh. Nhưng rồi Trịnh không thấy động tĩnh về phía Nam quân. Trịnh sinh nghi, vội lùi quân lại nghe ngóng. Tình trạng này kéo dài luôn mấy tuần, chúa Trịnh rất bực tức.

Sau quân chúa Sãi tiến lên đánh, quân Trịnh thua bỏ chạy.

Trịnh đành mang quân trở về Bắc và để Nguyễn Khắc Liệt ở lại giữ Bắc Bố Chính.

Đại Chiến Lần Thứ Ba (Ất Hợi – 1635)

Chúa Sãi mất năm Ất Hợi 1635, Nguyễn Phúc Lan là con lên thay tức là Công Thượng Vương và việc đầu tiên là tiến quân chiếm miền Bắc Bố Chính.

Theo giám mục Alexandre de Rhodes: Bắc Bố Chính bị quân Nguyễn chiếm vào năm 1540. Sự kháng cự của quân Trịnh không được bền bỉ, rồi Trấn Thủ là Nguyễn Khắc Liệt bỏ chạy về Bắc, vợ con bị bắt làm tù binh. Nguyễn Khắc Liệt ra đến Thăng Long thì bị Tráng bắt giam rồi để chết đói (xin nhắc Trịnh Tráng là bố vợ của Nguyễn Khắc Liệt).

Vì quân Nguyễn lo chuẩn bị chiến tranh và đã chiếm một phần miền Bắc Bố Chính nên chúa Trịnh sốt ruột lại đem quân vào Nam tháng hai năm Quý Tỵ. Đại quân do Thái Bảo Trịnh Tạcvà Trịnh Lê hai con của chúa cầm đầu với sự giúp đỡ của Thị Lang Nguyên Quang inh, Tự Khanh Phạm Công Trức (một sử thần có tiếng của nhà Lê) và Nguyễn Danh Thọ. Hai quân gặp nhau tại Trung Hòa, (Tức Mỹ Hòa ngày nay) gần cửa sông Gianh về hữu ngạn. Tướng Nguyễn là Bùi Công Thắng chống không nổi bị bắt và bị giết (hay bị tử trận, chỗ này sử không nói rõ). Quân Trịnh thừa thắng tiến luôn vào cửa Nhật Lệ. Tháng ba, chúa Trịnh đem vua Lê Thần Tông đến An Bài lập Tổng hành dinh (An Bài là một làng cách sông Gianh về phía Bắc 4 cây số). Chiến sự bị ngưng ở đây vì trời nóng quá, quân Trịnh bị bệnh dịch chết hại rất nhiều, phải rút về, để lại 10.000 quân để phòng thủ và chờ dịp khác tấn công. Quân Trịnh về Bắc được vài tháng thì vua Lê Thần Tông nhường ngôi cho con cả là vua Lê Chân Tông, vào tháng 10 năm Quý Tỵ (1543).

Đại Chiến Lần Thứ Tư (Mậu Tý – 1648)

Tháng 6 năm 1647, Lê Chân Tông ra lệnh cho các địa phương miền Bắc kiểm soát những người lành mạnh bổ sung quân số.

Năm sau là năm Mậu Tý 1648 chúa Trịnh Tráng cử Lê Văn Hiển giữ chức Đô Đốc (các sách khác nói là Trịnh Đào) tước Tiến Quận Công lĩnh quyền tổng chỉ huy quân đội Nam chinh. Quân Trịnh tiến thẳng đến cửa sông Nhật Lệ. Tướng giữ căn cứ này là Hoành Lễ đánh không lại vội xin tiếp viện của Trấn Thủ Quảng ình là Nguyễn Cửu Kiều. Kiều cho Tham tướng là Nguyễn Triều Văn đi cấp cứu, nhưng Triều Văn vốn hèn nhát, đi tới nửa đường thì dừng lại, do đó quân Trịnh đi thẳng một mạch tới gần tỉnh lỵ Quảng Bình (bấy giờ là Dinh), đóng tại tả ngạn sông Nhật Lệ trước làng Văn La. Quân Nguyễn ở đây do Cai đội Trương Triều Lương và Trương Triều Nghi đem quân cự địch, bị tử trận. Ký lục Thanh Hội tới đánh cũng bại trận phải rút về bên kia sông. Quân Trịnh thừa thế đuổi theo tới làng Võ Xá (giữa sông) là vào đúng giữa Quảng Bình dinh, một phần tiến theo hữu ngạn sông Nhật Lệ, tiến đến An Đại (tức Long Đại ngày nay), ngừng trước lũy Trường Dục. Lúc này Trịnh Đào lập hành doanh tại Nam Bố Chính gần Dinh NGói. Rồi thành Đồng Hới và Dinh Mười lọt vào tay quân Trịnh. Trấn Thủ Nam Bố Chính là Trương Phúc Phấn thất vọng trước những thắng lợi liên tiếp của quân Trịnh liền lui quân vào phòng tuyến thứ hai do Đào Duy Từ xây từ 1630 tức là đồn Trường Dục để cự địch. Thành xây bằng cát nên bị đại bác của Trịnh bắn thủng toang khiến quân Nguyễn kinh khủng mười phần tháo chạy đến sáu bảy. Phấn cứ điềm nhiên thúc trống phất cờ tiếp tục trận đánh, cho quân lấy thuyền chở cát lấp lại các chỗ bị phá. Tên của quân Trịnh như mưa rào vào chỗ Phấn ngồi. Nhờ có sự can đảm và cố thủ này quân tiếp viện của Nguyễn kịp tới do Thế tử Nguyễn Phúc Tần cầm đầu (tức Hiền Vương sau này). Quân bộ có Thế Tử Lộc giữ chức Chưởng Dinh, Tống Hữu Đại là Trấn Thủ Cựu Dinh, và Giám chiến Nguyễn Hữu Dật chỉ huy. Thủy quân do Tham tướng Nguyễn Triều Văn, nhưng trận đầu vẫn giành thắng lợi cho quân Trịnh.

Quân tiền phong của Nguyễn đến An Đại (trước đồn Trường Dực) thì Dật bàn với Thế tử Lộc chia nhau đóng các nơi hiểm yếu, vì biết rằng Bắc quân không thông thạo địa hình địa vật ở đây.

Cũng lúc này Thế tử Nguyễn Phúc Tần kéo đến Quảng Bình gần sát quân Trịnh lợi dụng đêm tối tung tượng binh bất thình lình đánh vào trại của Trịnh hồi canh năm. Nguyễn Hữu Tấn chỉ huy 100 con voi trong công tác này, còn Thế tử Nguyễn Phúc Tân đi sau với đại quân. Quả nhiên quân Trịnh bị đánh bất ngờ bỏ chạy về Đồng Hới thì bị quân Nguyễn đem quân chờ Cẩm La chỗ đường bộ đi qua sông đón đánh chết hại rất nhiều. Sử của Nguyễn triều chép rằng trong các trận đánh giữa hai quân Trịnh Nguyễn chưa trận nào khốc liệt bằng trận này, khiến một caau tục ngữ còn nhắc lại rằng:

“hiểm nhất Lũy Thày, Thứ nhì đồng lầy Võ Xá”

Bởi ở đây quân Nguyễn nhờ có ưu thế của núi sông khiến quân Trịnh bị chết hại vô kể.

Trong trận này Trịnh bị bắt mất mấy tướng và vài ngàn binh sĩ. Trịnh Đào thấy tiền quân bị bại trận liền rút lui, bị quân Nguyễn đuổi tới sông Gianh.

Chiến tranh tới đây thì ngừng lại do cái chết của Công Thượng Vương cũng đi đốc chiến vào tháng hai năm ấy tức là lúc khởi chiến. Công Thượng Vương tới làng Trung Chỉ, cách Quảng Trị độ 10 cây số vào ngày 25 tháng 2 thì bị bệnh. Đến ngày 18 tháng 3 thì tình trạng quá nguy kịch, phải đưa chúa về Thuận Hóa bằng đường thủy, đến phá Tam Giang thì mất trên thuyền, vào ngày 19 tháng 3 năm Mậu Tý. Nguyễn Phúc Tần lên thay, tức là HIền Vương. Bảy năm sau lại tái chiến với quân Trịnh.

Trận Đánh Thứ Năm Tại Nghệ AN (Ất Vị - 1655)

Tháng tư sau Ất Vị 1655 cuộc xung đột lại tái diễn. Lê Văn Hiểu ra lệnh cho Phạm Tất Toàn đem quân vượt sông Linh Giang đánh vào Nam Bố Chính. Chúa Hiền cử Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hưu Tiến (Tấn) đối chiến với quân Trịnh ở đây. Quân Trịnh bị đánh bất ngờ, Phạm Tất Toàn phải đầu hàng và Bắc Bố Chính đổi chủ. Quân Nguyễn liền chia ra đánh Hoành Sơn. Quân của Lê Hữu Đức giữ không nổi bỏ chạy nhờ vậy mà quân Nguyễn đánh ra dinh Hà Trung. Lê Văn Hiểu ra công cự địch nhưng cũng thua rồi cùng Lê Hữu Đức chạy về An Trường. Nguyễn Hữu Tiến đánh Thạch Hà, Tham đốc của TRịnh là Đăng Minh Tác ra hàng. Văn Hiểu và Hữu Đứu kéo quân về đóng đồn ở Đại Nại cố giữ không cho quân Nguyễn đi xa hơn. Nhiệm vụ đánh vào Hà Trung sẽ trao cho hậu quân…Chúa Trịnh Tráng thấy bọn Lê Văn Hiểu bại trận cho sứ triệu về Kinh giáng chức (Hiểu bị đạn ở chân về đến nửa đường thì chết) và cho Trịnh Trượng vào thay với chức Thống Lĩnh, kinh lược đất Nghệ An.

Đầu tháng 8 năm Ất Vị 1655, Trịnh Trượng đến Lạc Xuyên cách Bắc Hà Trung 15 cây số thì hạ đồn. Võ Văn Thiêm đem 50 chiếc thuyền đóng ngay tại cửa sông Kỳ La là thủy đạo lên đến đồn Hà Trung. Thấy quân Bắc tới Hữu Dật và Hữu Tiến bàn nhau lui binh về sông Giang, bí mật đặt lục quân phục kích ở Lũng Đông, thủy quân giữ cửa Ròn. Nhưng quân Trịnh không mắc bẫy vì biết Hữu Dật và Hữu Tiến là hai danh tướng của Nguyễn có nhiều thủ đoạn. Nhử địch không xong và thấy đã hơn một tháng quân Trịnh không cử động, Hữu Dật và Hữu Tiến liền thay đổi chiến lược.

Đây là giai đoạn thứ hai của chiến dịch năm Ất Vị:

Nguyễn chia quân đóng hết các nẻo đường. Tiền quân của Trương Phúc Hùng, Phù Dương, Thuần Đức và Khuê Thắng đánh vào Lạc Xuyên. Trịnh Trượng thua chạy về An Tràng, sau bị giáng chức xuống Đô Đốc.

Trước tình thế nghiêm trọng này, chúa Trịnh Tráng lo ngại cử Tây Định vương Trịnh Tạc (con của chúa) vô Nam. Tháng 9 năm ấy Tạc mang đại quân vào Nghệ An rồi đóng ở An Tràng. Rồi sau hai tháng Thanh Đô vương lại kêu Trịnh Tạc về để Hữu đô đốc Ninh quận công Trình Toàn thay thế.

Quân Bắc đóng ở An Tràng từ tháng 9, qua tháng sau mới hoạt động, tiến đánh Kỳ Hoa. Hữu Tiến rút quân của mình ra khỏi Lạc Xuyên và tới đóng ở Hà Trung (có lẽ để nghe ngóng thực lực của Trịnh). Nhưng đến tháng 11 quân Trịnh lại trở về An Tràng.

Vào tháng 12 (Ất Vị) quân Trịnh đóng ở Minh Lương vào đánh huyện Kỳ Hoa trước đã về hàng Nguyễn.

Tháng giêng năm Bính Thìn (1656) quân Nguyễn Bắc tiến đuổi được quân Trịnh tới sông Tam Ché thì bị một lực lượng Bắc Hà đánh lui. Trận này quân Trịnh thắng khá oanh liệt nên nhiều tướng lĩnh được thăng thưởng ngay lập tức.

Tháng hai Hữu Dật tiến đến Hồng Lĩnh (quân kéo từ Bắc xuống Nam qua hai huyện Nghị Xuân và Thiên Lộc) rồi gặp Võ Văn Thiêm đang cho thủy quân đổ bộ.

Hai bên giáp chiến. Quân Trịnh ở đây cũng như ở nhiều nơi khác lại rút về An Tràng. Hữu Dật và Hữu Tiến tập hợp các cơ hội về Vân Cát (huyện Thạch Hà) Chúa liền cho đem vàng lụa đến khao thưởng. Vòa tháng 5, Trịnh Nguyễn lại khởi chiến. Trịnh Toàn mang quân đến Thạch Hà. Đào Quang Nhiêu (Trấn thủ củ của Nghệ An) và Dương Hồ đóng ở Đại Nại, Hương Bộc ở ngoài thành (thành Hà Tĩnh bấy giờ) với bộ binh. Quận Công Thung, Lê Sĩ Hậu, Bùi Sĩ Lương đem thủy quân đóng ở cửa Nam Giới và cửa Sót. Võ Văn Thiêm đóng ở Đơn Giai (cửa sông Vinh). Bọn Hữu Dật thấy quân Trịnh kéo đến cũng động viên quân đội thủy lục để ứng chiến. Thủy quân của Nguyễn do Dương Trí kéo đánh cửa Nam giới do Quận Công Thung giữ. Tại đây cuộc thủy chiến đã diễn ra: Quận Công Thung bị đánh rất nguy được Trịnh Toàn cho Quận Công Lý đến cứu viện. Về phần Hữu Dật cũng đem bộ binh chạy tới tăng cường cho Dương Trí đang ở giữa khơi đánh quân Trịnh rất hăng đến nỗi thủy quân Trịnh vừa bị thủy quân Nguyễn tấn công mà trên bộ đại bác của Nguyễn cũng nã xuống tới tấp.

Quận Công Lý chạy được, Quận Công Thung bị bắt với ba chục chiến thuyền. Phò Mã Trịnh đến giải cứu bằng thủy quân nhưng lại rút lui vì hỏa lực của Nguyễn dữ dội quá. Các tướng của thủy quân Trịnh là Lê Sĩ Hậu, Bùi Sĩ Lương, Nguyễn Hữu Sắc, Thái Bá Trật cũng chạy hết. Hữu Dật liền tiến đánh Trịnh Toàn tại bến đò Hoạt, cố bao vây nhưng bị đánh lui phải bỏ về cửa Nam Giới thủ thế với Dương Trí.

Trong lúc này ở phía Nam cách đó không xa quân Nguyễn bị quân Trịnh đánh thua. Tiến quân của Nguyễn do các tướng Phúc Khang, Phù Dương bao vây tướng Đào Quang Nhiêu của Trịnh tại Hương Bộc rất ngặt, Trịnh Toàn liền đến cứu. Toàn trao cờ lệnh cho Đốc Thị Dương Hồ làm bùng cháy lòng ái quốc và trung thành rất hăng, còn Toàn tự mình dẫn đạo kỵ binh sát phạt quân Nguyễn như vũ bão. Nhờ có viện quân tới, Đào Quang Nhiêu mở rộng cửa thành đánh ra, quân Nguyễn bị đánh dồn dập cả hai mặt chịu không nổi phải thua chạy. Tại Đại Nại quân Bắc cùng quân Nguyễn cũng giao tranh kịch liệt. Quân Nguyễn bị thua và mất một só lớn binh sĩ, voi ngựa và vũ khí. Tướng Nguyễn là Nguyễn Cứu Kiều bị trọng thương ở trận này rồi chết (Kiều mất vào năm 58 tuổi, là em vợ của Sãi Vương). Bại trận luôn hai lần, quân Nam phải rút về Hà Trung, quân Bắc đuổi theo theo nhưng không dám vượt qua làng Tam Lông, huyện Cẩm Xuyên. Hữu Tiến liền nghĩ ra một kế hoạch phục kích quân Trịnh ở các thủy lộ bằng thủy quân của mình ở Phù Thạch thuộc huyện La Sơn, Triều Khẩn thuộc huyện Hưng Nguyên, Việt An thuộc huyện La Sơn, lại cho Hoàng Tín nấp ở bên sông Minh Lương huyện Thiên Lộc với một số chiến thuyền, còn đại quân của Hữu Dật thì mai phục ở làng nam Ngàn (La Sơn). Xem cách bố trí này của Hữu Tiến thì Tiến đoán Trịnh vùa thắng hai trận lớn ắt thừa thế sẽ từ Hà Tĩnh tiến vào Nghệ An nên cho quân ẩn nấp ở các nẻo đường thủy chờ chận đánh Quân Trịnh. Thủy quân của Nguyễn phần lớn bấy giờ để ở Lam Giang.

Được biết Hữu Dật đang có mặt ở Nam Ngàn, Trịnh Toàn cử hai tướng là Quận Công Tào Nham và Diễn Thọ đi đánh. Đạo quân này có bị rơi vào ổ phục kích của Nguyễn và hai tướng bị giết về tay Đỗ Tín. Còn Trịnh Toàn qua Bình Hồ (La Sơn) gặp quân Hoằng Tín cũng thiệt hại nhiều nhưng chạy được về An Tràng.

Xét ra đôi bên cũng không hơn kém nhau bao nhiêu. Quân Trịnh bấy giờ không tiến được hơn đành chỉ cố thủ ở miền Bắc sông Lam mà thôi.

Tháng 7 năm 1656, Hiền Vương do tin thắng trận định đem binh lên Bắc Bố Chính nhưng lại thấy mình rút về Hà Trung nên ngừng lại ở An Trạch (Nam Quảng Bình).

Những tháng chót của năm Bính Thân (1656) hai phe Trịnh Nguyễn đều im hơi lặng tiếng. Có lẽ người ta đã muốn dưỡng sức cho quân dân sau những chiến trận vô cùng khốc liệt. Về phần Nguyễn tuy thường thắng trận nhưng thực lực của miền Thuận Quảng rõ rệt không đủ để theo đuổi một chiến cuộc trường kỳ. Về phần Trịnh đã bị bất lợi nhiều cũng xuống tin thần và cần phải cởi yên bỏ giáp còn do nội tình bối rối nữa vì Trịnh Tráng lâm bệnh sắp thở hơi tàn. Trong nhà an hem lại có sự nghi ngờ nhau nên Trịnh Tạc đang hành quân ở Nghệ An đột nhiên được gọi về Thăng Long. Trịnh Tạc đã được phong vương để thay Trịnh Tráng nhưng giữa Trịnh Tạc và Trịnh Toàn có sự ghen ghét. Tháng 5 năm ấy, con Trịnh Tạc là Trịnh Căn được phong thế tử mang chức Thái Bảo, tước Quận Công, tháng sau được cử vào Nghệ An làm thống lĩnh bề ngoài để giúp Trịnh Toàn nhưng bề trong có ý kiểm soát và chia sẻ quyền hành của chú. Rồi liên tiếp mấy tháng sau nhiều mưu thần võ tướng được lĩnh chức mới gửi vào Nghệ An trong đó có Trịnh Căn và Trịnh Đống. Tháng 11 năm Bính Thân (1656) quân đội Bắc Hà lại chuyển động và tiến xuống miền Nam Lang Giang. Trịnh Toàn đóng ở Quảng Khuyến tại huyện Thiên Lộc; Trịnh Căn cắm trại cũng ở huyện này đào hào đắp lũy phòng nhau Rối Toàn có ý mang hết binh đội về An Tràng. Trịnh Căn lo ngại lui về đóng ở Phù Long huyện Hưng Nguyên, tình thế rất là gay go.

Chúa Hiền tiến quân lên Dinh Trạm (Nam Quảng Bình) rồi lên đến Dinh Mười.

Ngày 16 tháng 4 năm Đinh Dậu (1657) chúa Thanh Đô vương qua đời. Trịnh Tạc liền thanh toán ngay vấn đề Trịnh Toàn và bắt giam Toàn vì không về Bắc chịu tang. Một số thủ tục của Toàn sợ cháy thành vạ lây chạy qua đầu hàng quân Nam.

Toàn chịu bó tay về Thăng Long sau khi trao hết quyền binh cho Trinh Căn. Số phận của Toàn ít ngày sau là bị giam và chết trong ngục. Rồi Trịnh Căn được thay Trịnh Toàn làm chủ Nghệ An. Quân Nam bấy giờ vẫn tiếp tục giữ thế chủ. Tháng 6 năm ấy Trịnh Căn khởi chiến, chia quân ra ba đại vượt sông Thanh Chương (sông Vinh). Quân Nam lùi rồi phản công. Trịnh Căn thấy quân minh núng thế liền đến cứu viện cho Đặc Thế Công. Quân Nam thua chạy. Nhưng tuy được quân Trịnh vẫn rút về An Tràng và khao thưởng tướng sĩ.

Đến tháng 9, Trịnh Căn phái Thắng Nham đi chiếm thành Đồng Hôn ở vào một vùng ẩm thấp e bị nước lụt nên sau quân Trịnh lại rời tới Thổ Sơn Hạ. Quân của Hữu Dật nhân một cơn mưa to gió lớn, nước sông dâng lên cao tấn công quân Trịnh ở đây. Quân Bắc bỏ chạy.

Bấy giờ bảy huyện ở phía Nam sông Lam – Giang (thuộc tỉnh Nghệ An) là huyện Kỳ Hoa, Thạch Hà, Thiên Lộc, Nghi Xuân, La Sơn, Hương Sơn và Thanh Chương đều thuộc về quân Nguyễn cả. Đầu năm Mậu Tuất, Trịnh Tạc gửi thêm tướng sĩ mới cho Trịnh Căn. Trận giặc này kéo dài khiến hai bên đều hao tổn mạnh. Tháng 5 (năm 1658) vua Lê Thần Tông phải ra sắc dụ yêu cầu nhân dân giúp gạo. Triều đình tuy theo số gạo mà cấp chức tước. Chúa Nguyễn cũng bắt dân Nghệ An nhập ngũ và đóng thuế khiến dân chúng vùng mới chiếm đóng rất là bất mãn. Trong những tháng chót của năm 1658 đôi bên vẫn tiếp tục đánh nhau, từ tháng 7 đến tháng 8 cùng có phen được thua nhưng tình thế của Trịnh cũng như Nguyễn vẫn không thay đổi là bao nhiêu.

Rồi suốt năm 1659 hai quân Trịnh Nguyễn cũng vẫn không có hoạt động quan trọng. Quân Nam thấy mình không mạnh nên không tiến đánh. Quân Bắc cũng chủ trương đợi thời.

Tháng 9 năm 1660, Hữu Tiến đem quân vượt sông Tam Chế đánh vào đồn Do Nha. Binh sĩ xa nhà đã lâu, chán nản nên đào ngũ rất nhiều, Hữu Tiến phải trở về.

Sau này Trịnh lại chuyển binh qua sông Lam Giang, tiến đánh Lận Sơn, Tả Ao. Quân Nguyễn rút về Hoa Viên đến đóng ở Nghi Xuân. Lúc này hai đại tướng của Nam Hà là Hữu Tiến và Hữu Dật bất hòa với nhau nên rút hết quân lực về Nam Bố Chính. Quân Nam rút đến Hoành Sơn thì quân Trịnh đuổi kịp, đôi bên cùng thiệt hại rất nhiều. Rút cục Trịnh về đóng ở Kỳ Hoa, Nguyễn giữ cửa Nhật Lệ. Bảy huyện ở vùng sông Lam lại trở về đất Bắc. Trịnh Căn cho Đào Quang Nhiêu ở lại làm Trấn Thủ Nghệ An, trông coi thêm cả Bắc Bố Chính rồi về Thăng Long. Chiến dịch Nghệ An xét ra đã kéo dài tới 6 năm.

Đại Chiến Lần Thứ Sáu (Tân Sửu – 1661)

Trịnh Căn về Thăng Long hồi tháng hai năm Tân Sửu như trên đã nói do hai cớ: Cớ thứ nhất để hưởng thụ sự chào đón tưng bừng của vua quan và nhân dân miền Bắc đối với người anh hùng chiến thắng miền Nam. Cớ thứ nhì là để binh sĩ có dịp nghỉ ngơi sau nhiều năm gian lao, mệt mỏi rồi cuối năm Sửu, Trịnh lại khởi chiến[2].

Trịnh Căn vẫn giữ chức Thống lĩnh; Đào Quang Nhiêu làm Thống Suất[3] Lê Hiến và Hoàng Nghĩa là Đốc Suất thêm 3 Đốc Thị là Lê Sĩ Triệt, Trịnh Thì Tế và Thân Tuấn. Lần này chúa Trịnh rất khôn khéo, mời vua Lê Thần Tông đi dự chiến để lấy thêm uy tín vì dân Hà Tĩnh và Bố Chính vừa đây nghiêng ngả theo Nguyễn. Vừa đóng ở Phủ Lộ trên hữu ngạn sông Gianh mà trước đây không lâu chúa Hiến đã có dịp đến hạ Tống hành dinh. Quân Trịnh chia ra 3 đạo: Thủy quân đến đóng ngay tại cửa sông Nhật Lệ. Bộ binh qua sông Gianh tiến vào Nam Bố Chính, còn đại quân bắt đầu từ làng An Nam chỗ bờ biển đến chân núi Châu Thị[4]. Thành này có tác dụng bao lấy thành Đồng Hới về phía Tây. Người ta đặt đại bác ở đây và hai quân đối diện nhau chỉ có cách bức thành này mà thôi. Trịnh cho một quant ham mưu là Hoàng Trung mang lọng vàng và hương án cùng vài tên lính đến dụ địch bằng một sắc chỉ của vua Lê.

Tướng giữ đồn là Vân Trạch không chịu tiếp sắc và đã bắn chết Hoàng Trung rồi đôi bên nổi lệnh đánh nhau kịch liệt tại tả ngạn sông Rào Dinh. Chúa Hiền cho lệnh rút quân tới phía sau thành Đồng Hới để cố thủ vì rào lũy phía trước không đủ vững để che chở cho quân đội.

Quân Trịnh lại tiến đóng tại làng Trần Ninh, phía Bắc thành Đồng Hới, giữ con đường biển vào làng Chính Thỉ (tức Trung Ngãi bây giờ) gần phía Tây thành Đồng Hới, như thế là Trịnh giữ cả đường đi vào miền núi. Hữu Dật lại rút về Vũ Xá (Dinh Quảng Bình tức Lưu Đồn). Nhiều lần Trịnh muốn đánh mà không thấy quân Nguyễn ra mặt[5], sự thực Nguyễn trốn đánh bởi không đủ sức chống chọi thì cứ kéo dài sự cố thủ để quân Trịnh hao mòn về lương thực có lợi hơn. (Các vùng Nam, Bắc Bố Chính vì là chiến trường lâu năm nên quân đội của đôi bên không nhờ được một thứ gì của dân sở tại). Quả nhiên sau một tháng quân Trịnh trong một đêm tối, nhưng trận đánh ở đây cũng không có lợi gì đáng kể. Tháng ba năm Nhâm Dần (1662) quân mệt, lương hết Trịnh Tạc lại ra lệnh rút quân về Bắc. Vua Thần Tông về đến Thăng Long thì mất vào tháng 9. Thái tử Duy Vũ lên thay tức là vua Gia Tông.

Trong dịp này Hữu Dật và Hữu Tiến đắp thêm một cái lũy nữa là lũy Trần Ninh bên sông hữu ngạn sông Nhật Lệ có ý ngăn thủy quân của Trịnh. Bên tả ngạn đối chiến với lũy Trần Ninh, Nguyễn cho xây thêm lũy Sa Phụ về phía đầu sông tục gọi là Đồng Cát.

Đại Chiến Lần Thứ Bảy (Nhâm Tý – 1672)

Tháng 6 năm Nhâm Tý (1672), tức là 10 năm sau hai họ Trịnh, Nguyễn còn xô xát với nhau một lần nữa và lần này là lần chót. Trịnh Căn làm thủy quân Nguyên súy. Lê Hiến làm bộ quân Thống suất. Quân Bắc có 100 ngàn nhưng phao đồn có 180 000. Vua Lê Gia Tông cũng có mặt trong cuộc đại chiến này bên cạnh Tây Vương Trịch Tạc.

Quân Nam lúc này có tân nguyên soái là Thế tử Thuần (tên lúc nhỏ là Hiệp)[6] mới hai mươi tuổi, phụ tá có Vệ úy Mai Phúc Lãnh, Ký Lục, Võ Phi Thừa làm Tham mưu, Chưởng cơ Trương Phúc Cang con thứ Trương Phúc Phấn (đã nổi danh trong nhiều trận vào năm 1648) và Nguyễn Đức Báu. Phấn giữ chức Tiên Phong hữu dục, Báu làm Tiên Phong tả dực. Ty Tướng Thần Lại[7] lo liệu việc thâu thuế bằng tiền bặc hay thóc gạo để cung cấp cho quân đội sung vào ba kho ở Lai Cách (Bắc Quảng Trị) An Trạch và Trường Dục (Nam Quảng Bình) Tượng binh có 5 đội mỗi đội có 150 voi trận.

Tháng 7 năm ấy Hiệp mang quân đến Quảng Bình, Hữu Dật trước đây giữ chức Chưởng Dinh được thay Hữu Tiên đang làm Đổng Suất ở Lưu Đồn hồi tháng sau nay phụ trách giữ thành Sa Phụ (xây năm 1662). Mỹ Đức Trấn Thủ dinh Quảng Bình nay được coi Chính Lũy là phần chính của thành Đồng Hới ở mạn Bắc sông Lệ Kỳ. Trương Phúc Cang được ủy giữ Trấn Ninh để đón cuộc tấn công đầu tiên của Trịnh. Triều Tín, Trấn Thủ dinh Bố Chính giữ thành Đồng Hới về phía Tây. Thuần Đức Trấn Thủ Cựu Dinh, giữ phần thành giáp núi Đầu Mâu (cũng về phía Tây, chắc nơi này cần giữ ráo riết hơn cả). Thuận Trung Cai Cơ đóng ở cầu Mũi Nại (nơi làm muối) ngay ở đầu ngã ba sông Nhật Lệ và Lệ Kỳ (sau này quân Nguyễn cũng đắp một cái lũy nhỏ gọi là Lũy Ngang, vì lũy này chạy sang theo thành Đồng Hới ra sông, thành một phòng tuyến thứ hai).

Tham Tướng Tài Lê lĩnh thủy quân cho đóng một hàng rào cây lớn ở cửa song đề ngăn cản sự đột nhập của các chiến thuyền của Trịnh. Nhìn vào việc bố trí này ta nhận thấy thủ và lục quân của Nguyễn có ý đóng liền nhau để dễ liên lạc và tiếp ứng cho nhau. Tháng 8 quân Trịnh kéo đến Bắc Bố Chính.

Tháng 9, quân Trịnh tấn công quân của Triều Tín, tướng giữ thành Đồng Hới, được thắng lợi. Trịnh còn cho tập trung một ngàn chiến thuyền ở cửa sông Gianh và sông Nhật Lệ. Quân thủy bộ có thể hoạt động cùng nhịp. Chiến cuộc xem chừng gay go.

Chúa Hiền thấy lực lượng quân Bắc quá hùng hậu hợp các quan tỏ ý lo ngại bàn nên đánh hay nên giữ. Toàn thể đều đề nghị cố thủ để khai thác lối “Tiêu hao chiến”.

Ngày 23 tháng 9 năm Ất Vị hai quân thủy lục của Nguyễn lên đường để lại hai đạo quân phòng bị hậu tuyến và cửa Thuận An lấy dân quân năm quận miền Nam Quảng Bình gồm tỉnh Quảng Trị và Thừa Tiên lập các đồn theo dọc bờ biển từ Đồng Hới vào tới phía Đông kinh thành Thuận Hóa.

Thành Đồng Hới bị nhiều lần nao núng, suýt lọt vào tay quân Trịnh.

Hữu Dật phải đến tiếp cứu còn Hiệp tự đem quân đến trợ lực cho Sa Phụ.

Chiến ự đang khai diễn gắt gao thì chúa Trịnh Tạc ra lệnh kéo quân về, vì đánh lũy Trấn Ninh mấy tháng trời không chuyển, thời tiết lại quá xấu (mưa lạnh buốt vì có gió Đông Bắc). Trịnh Căn bị bệnh nặng ở Linh Giang. Lê Gia Tông lui về Phù Lộ, thuộc tả ngạn sông Gianh. Theo Đại Nam Liệt Truyện, Đại Nam Thực Lực chứng minh quả quân Nguyễn bị đánh lùi nên vua Lê, chúa Trịnh mới vào được tới miền Nam Bố Chính.

Trước khi lên đường về Thăng Long, chúa để Lê Thời Hiến ở lại làm Trấn Thủ ở Nghệ An, Lê Sĩ Triệt làm Đô Đốc Hà Trung giữ các căn cứ trọng yếu vùng sông Gianh.

Từ đó sông Gianh là đường phân giới cho hai miền Nam Bắc, chiến sự ngừng lại cho đến năm Bính Ngọ (1786) tức là năm thứ 47 đời Lê Cảnh Hưng nhà Tây Sơn dấy nghiệp thì Nguyễn vong mà Trịnh cũng mạt.

Chú thích:

[1] Từ 1620 Sãi Vương quả không nộp thuế cho nhà Lê về hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam. Họ Trịnh cho đòi lương thuế chỉ là để biết thái độ của họ Nguyễn mà thôi.

[2] Cương Mục nói Trịnh khởi trận đánh vào tháng 10 nhuận. Theo De Calendrio Sinico của P. Hoàng thì vào tháng 7. Thực Lục cho rằng cuộc khởi hấn Trịnh – Nguyễn nhằm vào tháng chạp (tức là 20 tháng 1 – 17 tháng 2, 1662).

[3] Theo Việt Nam Sử Lược: Đào Quang Nhiêu làm Tổng Suất, ý nghĩa vẫn như vậy.

[4] Theo sự kê cứu của C.B. Maybon thì thành này có lẽ xưa kia đã do Trịnh Toàn đắp nên có tên là Lũy ông Ninh. Ninh là tước Ninh Quận Công của Toàn, vì thành này cũng đi từ đường quan lộ đến chân núi như sử sách của triều Nguyễn đã nói. Vậy lúc này quân Nguyễn chỉ có sửa lại mà thôi.

[5] Bia Trường Kiều dựng ở phía nam thành Đồn Hới cách vài cây số, từ 1661-1662 chép: quân Trịnh không dám nhìn quân Nguyễn tận mặt. Lời nói chua ngoa này dã bị các sử liệu khác đính chính bởi 10 năm sau vào 1672 quân Bắc còn kéo vào đánh Nam Hà lần nữa, làm cho chúa Nguyễn hết sức lo lắng. Đây là một trong nhiều chứng cớ tỏ rằng sử thần của Triều Nguyễn thường hay xuyên tạc sự thực để làm đẹp lòng vua chúa.

[6] Hiệp là con thứ tư của Chúa Hiền.

[7] Tướng Thần Lại là Ty coi việc lương thuế như nha Quân Nhu ngày nay.