← Quay lại trang sách

Chương XV SỰ NGHIỆP CỦA HAI HỌ TRỊNH NGUYỄN TRÊN LỊCH SỬ VIỆT NAM

A – Các Hoạt Động Của Họ Trịnh

1 – Vấn Đề Họ Mạc Và Việc Giao Thiệp Với Nhà Thanh

Cuộc đại chiến năm Nhâm Tỵ (1672) chấm dứt thì từ đó đến 1775 tức là vừa đúng một thế kỷ, nhân dân Việt Nam được thoát khỏi sự khủng khiếp gây nên bởi khói lửa mịt mù, xương rơi máu đổ dồn dập liền trong 45 năm.

Người dân Việt nam ngày nay cũng nên tìm hiểu hai họ Trịnh Nguyễn đã làm những gì khác ngoài việc tranh giành ngai vàng, nghiệp chúa, khiến nhân dân phải điêu đứng, lầm than qua bao nhiêu thế hệ. Tội của họ đối với quốc dân là điều rõ rệt không phải nói nhiều, tuy nhiên ta cũng phải nhận họ cũng có làm được ít nhiều công chuyện có lợi ích để ta có thể giảm bớt một phần nào những lỗi lầm và trách nhiệm.

Vấn đề dẹp họ Mạc có phải là một sự nghiệp của họ Trinh chăng?

Theo quan niệm của các sử thần cận kim, người ta cho rằng có công đánh dẹp con cháu nhà Mạc. Chúng tôi muốn hỏi rằng Trịnh đánh Mạc cho ai? Cho nhà Lê chăng? Cho nhân dân chăng? Thiết tưởng không! Theo chúng tôi việc đánh Mạc của Trịnh chỉ là chuyện hai thú dữ đứng trước một miếng mồi, không chia sẻ được thì chỉ còn nước một kẻ sống một kẻ phải chết nghĩa là cái thuyết phù Lê hay vì dân của họ Trịnh cũng như dân của họ Nguyễn chỉ là ngụy ngôn, là thuyết che đậy manh tâm cá nhân mà thôi.

Tóm lại, dẹp Mạc trước quan điểm của chúng tôi chỉ là sự nghiệp riêng của dòng họ Trịnh. Việc này xét ra chẳng lợi gì cho nhân dân hết. Chúng ta còn có thể nghĩ rằng nếu Mạc không bị Trịnh hất nhào sớm, ngay từ khi Mạc Đăng Dung vừa lên ngôi đã tiếp tục mọi chính sách cai trị, kinh tế, khoa cử, trọng dụng nhân tài như các tiền triều, ai dám bảo Mạc không thể là một triều đại đứng đắn, há phải than tiếc một cách buồn cười mấy ông hoàng đế ấu trĩ, hoặc hôn ám, vô đạo, như Tương Dực, Uy Mục, hoặc bất tài, bất lực như Chiêu Tông để cho mấy ông đại thần đua nhau lợi dụng. Chúng ta không nên vì thế coi việc tiêu diệt nhà Mạc là một sự nghiệp của Trịnh đối với dân tộc ta để kỷ công vào lịch sử…

Nhà Minh cáo chung vào năm 1663, nhà Thanh lên thay, cho sứ sang ta dụ triều cống. chúa Trịnh Tạc cho sứ đem cống vật sang Yên Kinh xin mở cuộc giao hiếu và câu phong cho vua Lê theo tục lệ cũ. Bốn năm sau vua Khang Hy cho sứ sang phong cho vua Lê làm An Nam Quốc Vương.

Cuộc giao hiếu này xét ra nên có, vì mềm dẻo với kẻ mạnh để được yên thân vẫn là một chính sách khôn ngoan thuộc đường lối cổ truyển của các nhà chính trị xưa kia của chúng ta. Cũng do chỗ biết kết thân nên sau này có đôi khi xảy ra việc giặc cướp ở các vùng biên giới hoặc có chuyện tranh chấp đất đai ở các điểm lân cận của hai nước, nhưng đôi bên vẫn nhường nhịn lẫn nhau.

2 – Luật Pháp

Luật pháp đời bây giờ vẫn theo đời Hồng Đức. Mọi tội khinh, trọng đều quy định vào 5 thứ: suy, trượng, đồ, tử, từ nhẹ nhất đến nặng nhất.

Chỉ khác là xưa kia có thể lấy tiền chuộc tội, nhưng đến đời Trịnh Tạc đặc ân này của triều đình bị chấm dứt nghĩa là phạm tội thì phải chịu hình, trừ riêng những ai thuộc các trường hợp bát nghị. Ngoài ra cũng có sửa đổi về tội lưu (cũng thuộc tội trọng) là tội phải chặt hai bàn tay và đày đi xa. Đời chúa Trịnh Cương và vua Dụ Tông tội này cải sang chung thân. Trường hợp nhẹ hơn là phải chặt một bàn tay và đày ra ngoại châu (cũng như biệt xứ ngày nay) thì ấn định đổi làm tội đồ 12 năm. Ai phải tội chặt hai ngón tay trỏ và phải lưu cận châu nay đổi làm tội đồ 6 năm, những kẻ phạm tội cướp không thuộc vào những lệ này.

Đời chúa Trịnh Tạc phép xử kiện cũng phân loại để định đoạt nặng nhẹ:

a) Mưu, sát, đạo, kiếp thuộc về đại tụng (tức là đại hình).

b) Hộ, hôn, ẩu, đả thuộc tiểu tụng (tức là tiểu hình).

Có điều đặc biệt về vấn đề xử kiện và đi kiện là quan án xử không minh phải phạt tiền. Đi kiện được xử công bằng mà còn đi kiện nữa thì cũng phải phạt tiền.

Để xét xử các vụ hộ, hôm, điền thổ, trộm cướp nhà vua cũng đặt thứ tự như án mạng thì cấp Phủ. Huyện xét trước rồi đệ lên Thừa Ty và Hiến Ty họp nhau duyệt lại.

Việc trộm cướp ở kinh thành thì có quan Đề lĩnh xử (ở các trấn thì quan Trấn thủ xét. Trấn Thủ ngày xưa là chức võ quan kiêm cả việc hành chính. Chế độ trấn thủ áp dụng vào thời chưa có thái bình thật sự).

Xin nhắc rằng việc kiện dầu nhỏ, dầu to mà các Huyện, Phủ, Thừa ty, Trấn ty xét không xong, người dân còn có thể khiếu lên Hiến ty, Giám sát, Đề lĩnh và Ngự sử đài, tới ngự sử đài là tới triều đình tức là đến nhà vua. Ngự sử đài có nhiệm vụ đưa ra Chính đường (như hội đồng nội các của chính phủ đời nay) vào tháng chạp mỗi năm bản phúc trình về các vụ tố tụng đã duyệt lại các cấp dưới trở lên, đề nghị cải cách, tu bổ luật pháp và thủ tục tư pháp và luật lệ kháng án (việc này do sáng kiến của Trịnh Cương).

Thời hạn xử án cũng được ấn định như sau: việc án mạng thì bốn tháng phải xử xong, trộm cướp, điền thổ thì 3 tháng; hôn nhân, ẩu đả thì 2 tháng, không được kéo dài bất kể lẽ nào vì sợ mất thì giờ và công ăn việc làm của dân.

Sử còn chép rằng triều đình có lệnh cho các cấp hành chính tìm cách giảm bớt những việc tố tụng xét ra vì ảnh hưởng sâu xa và lâu dài của thời ly loạn, dân tình, dân phong bê bối quá do đó mà xảy ra nhiều vụ tranh chấp, bất hòa. Kiện lắm dân cũng coi thường mà quan cũng phát ngán, vậy ý của chính quyền là lo ngăn ngừa bớt việc kiện cáo (chỉ dụ ban hành từ năm 1718).

3 – Binh Chế

Buổi đầu đời Trung Hưng là lúc họ Trịnh khởi đánh họ Mạc, số quân vào lúc thịnh nhất là 56.000 người bởi binh sĩ chỉ có thể tuyển mộ ở riêng hai tỉnh Thanh Nghệ. Nhưng sau khi buổi được họ Mạc ra khỏi miền Trung châu Bắc Việt (1592) thì binh lực của Trịnh mới được nhiều hơn vì đồng bằng miền Bắc vừa là kho người vừa la kho của. Binh chia ra làm hai hạng: Ưu binh và Nhất binh. Ưu binh là lính mộ ở ba phủ thuộc tỉnh Thanh Hóa và bốn phủ thuộc tỉnh Nghệ An (Đàng trong). Nhất binh là lính tuyển ở bốn trấn ngoài Bắc (Đàng ngoài): Sơn Nam, Kinh Bắc (Bắc Ninh), Hải Dương, Sơn Tây cứ 5 xuất đinh bắt một người sung quân ngũ. Lính Ưu binh đóng ở Kinh đo, được nhiều đặc ân, đặc quyền như được cấp công điền và cả chức sắc.

Lính Nhất binh phục vụ tại các trấn, phục dịch các quan, có việc loạn ly và chiến tranh mới được gọi đến, còn bình nhật thì về làm ruộng. Đến đời chúa Trịnh Doanh có nhiều giặc dã ở nhiều nơi nên phải gọi lính tứ trấn, động viên cả thảy được 115.000 hợp thành các đơn vị lớn nhỏ như sau:

1) Đội gồm có: 20 người.

2) Cơ gồm 20 đội có: 400 người.

3) Vệ gồm từ 5 đến 6 cơ: 2000 hay 2400 người. (Bên Vệ có Tư là đơn vị có: 100 người).

Đến Trịnh Cương (1709 – 1729) là lúc Nam Bắc đã đình chiến khá lâu, việc tuyển mộ và bao dưỡng quân đội cũng cáo chung. Xưa kia triều đình cho phép các quan lớn nhỏ tùy sức chiêu mộ trai tráng làm lính. Ai mộ được nhiều thì được cấp nhiều ruộng đất để có lợi tức dùng vào việc nuôi quân cung cấp cho chiến tranh, nay thì không còn nữa.

4 – Quan Chế

Về việc này họ Trịnh cũng thay đổi một phần vào chế độ quan lại đã do đời Hồng Đức lập ra. Xưa kia phụ trách về chính trị cấp tối cao trong triều đình là hai quan Tham tụng và Bồi tụng, quyền hành như chức Tể Tướng.

Dưới có lục bộ Thượng thư:

1) Đứng đầu Lục Bộ là Lại Bộ, cơ quan tuyển dụng, thuyên chuyển, thăng thưởng, trừng phạt các nhân viên trong bộ máy Nhà nước.

2) Hộ bộ coi về điền thổ, thuế khóa, chi thu của Nhà nước.

3) Lễ bộ coi việc học hành, thi cử, lễ nghi, tế tự, định các phẩm phục, phù ấn, việc làm chương, biểu, sắp đặt các sứ bộ ngoại giao, âm nhạc, xướng ca.

4) Binh bộ coi các võ quan, binh sĩ, động viên, quốc phòng như bộ Quân lực hay Quốc phòng ngày nay.

5) Hình bộ tức là bộ Tư pháp coi việc án tử, tu chỉnh luật pháp.

6) Công bộ lo xây đắp đường xá, cầu cống, thành trì, dinh thự, đào sông, lấp ngòi, khai thác rừng núi.

Năm Mậu Tuất (1718) đời vua dụ Tông, để tiện việc nắm hết quyền hành, Trịnh Cương lập phủ Liêu là một cái triều đình thứ hai để tự do quyết định mọi việc lớn nhỏ. Từ đó phủ Liêu át hẳn triều đình do sự hoạt động của lục Phiên (Phiên ở đây thay Bộ) còn khi nào tiếp sứ Tàu hay có quân quốc trọng sự chúa Trịnh mới đem các quan đến họp với vua Lê.

Về võ bị trước kia có ngũ phủ: Tung quân phủ, Đông quân phủ, Nam quân phủ, Tây quân phủ, Bắc quân phủ. Mỗi phủ đặt dưới quyền một Đô đốc.

Mỗi phủ đây có ý nghĩa như một quân khu ngày nay. Tỉ dụ: dưới đời vua Lê Thánh Tông, Thanh Hóa, Nghệ An thuộc về Trung quân; Hải Dương, An Bang thuộc Đông quân; Sơn Nam, Thuận Hóa, Quảng Nam thuộc Nam quân; Tam Giang, Hưng Hóa thuộc vệ tây quân; Kinh Bắc, Lạng Sơn thuộc về Bắc quân.

Năm quân phủ này được đặt dưới quyền hai cơ quan cao như bộ Tổng tư lệnh đời bây giờ tức là Chưởng phủ sự và Thự phủ sự. Hai cơ quan này được đặt ra từ vua Huyền Tông và chúa Tây Vương Trịnh Tạc (1657 – 1682).

Giới quan lại xưa nay chỉ có hai ban: văn và võ, nhưng để kiện toàn chính sách chuyên chính, họ Trịnh lập thêm một ban nữa là Giám ban. Ban này có vai trò như một nhà Tổng giám đốc hành chánh và chánh trị mà nhân viên là Nội giám tay chân của chúa.

Quan lại cứ sau mấy năm lại khảo hạch một lần, những kẻ bất tài bị loại, những kẻ sút kém năng lực phải giáng.

Hưu bổng của quan lại được định như sau: quan nhất phẩm mỗi năm được lĩnh 400 quan tiền, dân lộc của bốn năm xa; quan nhị phẩm được 300 hoặc 250 quan tiền của hai bà xã; quan tam phẩm được từ 150 đến 250 quan của một hai xã; quan tứ phẩm được 150 quan của một xã; quan ngũ phẩm được 100 của một xã.

Để tránh những vụ lạm dụng, áp bức dân chúng, triều đình cấm những quan lại lập trang trại ở địa phận đang thuộc quyền cai trị của mình.

Bộ máy cai trị đời Trung Hưng cho tới An Đô Vương Trịnh Cương đáng được coi là lành mạnh nên các sử gia Pháp khen tốt đẹp vào bậc nhất.

5 – Chế Độ Thuế Khóa

Muốn việc thuế khóa được minh bạch, chúa Trịnh Cương đã cải cách nhiều. Tỉ dụ, chúa sai các quan Phủ, Huyện, quan Thừa sát và Hiến sát định phép đo đạc và làm sổ thuế điền thổ khiến không còn ai ẩn nặc để trốn thuế hay bớt thuế. Chúa lại lập cả ngạch thuế mới đánh về rừng mỏ, sửa sang các hải cảng ở hai tỉnh Thanh, Nghệ cho thuyền buôn ngoại quốc ra vào buôn bán và lấy thuế thương chính.

Điền thổ chia làm ba hạng: hạng nhất mỗi mẫu đóng đồng niên 1 quan, hạng nhì 8 tiền, hạng ba 6 tiền. Số thâu hoạch nhờ phép mới này mà tăng lên rất nhiều. Về thuế đinh, trước cứ 6 năm sổ hộ tịch phải làm lại một lần. Đồng niên mỗi xuất đinh tùy giai cấp xã hội và tình trạng tài sản phải đóng một quan tám gọi là thuế thân. Thời ong Phạm Công Trứ làm quan Tham Tụng (năm Kỷ Dậu – 1669 – đời vua Huyền Tông) xin đặt ra phép bình lệ nghĩa là mỗi làng chỉ phải làm sổ đinh nhất định một lần, rồi mỗi làng cứ chiếu theo số xuất đinh đã ghi trong sổ mà nộp thuế cho quan. Nếu làng vào đẻ thêm hay có người chết đi số tiền nộp về thuế đã ấn định một lần thì cứ theo thế mà nộp mãi, nghĩa là không tăng không giảm nữa. Với phép này ta thấy Tham Tụng họ Phạm muốn giản dị hóa vấn đề thuế đinh cho rằng khó tin và khó kiểm soát số sinh và số tử hàng năm, tốt hơn hết Nhà nước khoán trắng cho thôn xã tùy tiện bổ bán với các đinh miễn sao dủ số thuế nhất định hàng năm thì thôi[1].

Đến năm Quý Tị (1717) đời vua Dụ Tông sử chép: số dân nội tịch phải đóng thuế cho triều đình cả thảy chỉ được 206.315 xuất (đinh). Có lẽ sử chép sai việc này!

Xin nhắc rằng giữa thế kỷ 15 đời Lê Thái Tổ, ông Nguyễn Trãi được lệnh kiểm tra nhân khẩu bấy giờ đã biết tổng số nhân dân có tới khoảng 7 triệu người (dĩ nhiên cả nam, phụ, lão ấu).

Ngoài hai thứ thuế chính trên đây, còn một thứ thuế nữa là tiền sưu dịch, thứ tiền để Nhà nước chi dụng vào việc xây dựng cầu cống, đường xá, tế tự, giữ gìn đê điều… các quan cũng liệu bổ bán cho các xuất đinh.

Mười năm sau tức là năm Quý Mão (1723) Tham Tụng Nguyễn Công Hãng thay đổi phép thuế đinh điền theo kiểu nhà Đường bên Tàu như sau:

a) Phép tô (thuế điền thổ) cứ mỗi mẫu công điền phải nộp 8 tiền thuế, ruộng cấy hai mùa thì chia ba, quan lấy một phần thóc.

Đất bãi của quan thì mỗi mẫu phải nộp 1 quan 2 tiền; Ruộng dâu mỗi mẫu nộp một nửa bằng tơ, chỗ nào không trồng dâu thì nộp bằng tiền.

Ruộng tự điền xưa không phải chịu thuế đến đầu thế kỷ 18 mới phải nộp: ruộng hai mùa mỗi mẫu 3 tiền. Ruộng một mùa chịu 2 tiền.

b) Phép dung (thuế thân) Mỗi xuất đinh đồng niên đóng một quan 2 tiền. Sinh đồ (học trò bận khoa cử), lão hạng (từ 50 đến 60 tuổi) và hoàng đinh (từ 17 đến 19 tuổi) chỉ phải đóng có một nửa.

c) Phép điệu (tiền sưu dịch) Mỗi xuất đinh phải đóng nhất định 6 tháng một kỳ vào mùa Hạ và mùa Đông, mỗi kỳ 6 tiền không như trước làm đến đâu gọi dân đóng góp đến đấy, có điều phiền nhiễu lôi thôi hơn nhiều.

6 – Các Thứ Thuế Linh Tinh

1) Thuế tuần ty – thuế này đánh vào các thuyền buôn đi lại trên các dòng sông. Bấy giờ có tất cả 23 sở tuần ty trong nước. Tre, gỗ nứa, lá gồi thì cứ đánh lấy 1/10, hàng tạp hóa thì đánh lấy 1/40.

2)Thuế muối – Năm Tân Sửu (1721) Trịnh Cương đặt quan Giám Đương (quan Thương Chính ngày nay) để đánh thuế muối, cứ 10 phần thì phải nộp 2 phần vào thuế. Người buôn muối phải có thẻ của Giám Đương mới được mua muối mà phải mua của quan trước sau mới được mua của người làm muối. Vì muối phải chịu thuế nên giá cao tới một tiền một đấu muối, dân sự ta thán rất nhiều. Năm Nhâm Tí (1713) chúa Trịnh Giang bỏ thứ thuế này.

Đến năm Bính Thìn (1746) chúa Trịnh Doanh lại lập việc đánh thuế muối chia ra 50 mẫu ruộng muối thì phải làm một bếp, mỗi bếp phải nộp cho nhà nước 400 hộc muối làm thuế (mỗi hộc muối bấy giờ giá là ba tiền, mỗi tiền là 60 đồng kẽm).

3)Thuế thổ sản – Năm Giáp Thìn (1724) dưới đời Trịnh Cương các thứ thổ sản như vàng, bạc, đồng, kẽm, sơn, than, gỗ, tơ lụa, quế, cá, mắm, rượu, mật, dầu, giấy, chiếu, vải…phải chịu thuế.

Về đời Trịnh Giang, giặc giã nổi lên như ong, nhà nước phải chi tiêu nhiều mà vấn đề sổ sách kế toán cho tới bấy giờ chưa được thiết lập nên không biết được tình trạng công khố, chúa mới cho các Hộ phiên lập sổ sách chi thu đồng niên để liệu trước vấn đề ngân sách hàng năm.

Chúa Trịnh Giang ấn định thể lệ khai mỏ, giảm bớt thuế cho người Việt nhưng đánh thuế nặng vào Huê Kiều. Dưới đời Lê Thuần Tông, chúa lại khuyến khích việc in sách Tứ Thư, Ngũ Kinh, sử ký và các loại sách học do nơi người Việt để khỏi mua của Tàu và chúa còn cấm không cho Tàu nhập cảng sách vào đất Việt nữa. Riêng về điểm này chúa Trịnh GIang được sử gia Pháp rất ngợi khen. Vấn đề khai mỏ vào thời chúa Trịnh cũng có nhiều điều phức tạp đối với người Tàu. Trước chúa Trịnh Giang, chúa Trịnh Cương đã phải ấn định số người Tàu sang khai mỏ ở nước ta chỗ đông nhất chỉ được tới 300 người, chỗ vừa 200 người, chỗ ít là 100 bởi để cho họ tập trung đông quá rất khó giữ gìn an ninh, trật tự. Vậy mà về sau công nhân Tàu có chỗ đông tới hàng vạn người hay sanh sự đánh nhau và quấy nhiễu dân chúng làm triều đình có phen phải huy động quân đội đánh dẹp như trừ giặc vậy[2]. Xin lưu ý rằng: nhân công khai mỏ phần nhiều là những người Nùng, Thổ sinh quán ở các vùng biên giới Hoa Việt (giáp Quảng Đông và Quảng Tây) tính tình ngang ngược và thường là những thổ phỉ nên phải áp dụng biên pháp cứng rắn trên đây.

Sau này chúa Trịnh Giang phải sửa đổi và đưa ra thêm nhiều điều lệ mới về vấn đề khai mỏ của người Tàu lúc bấy giờ vẫn chưa ổn định về nhiều phương diện. Sử con chép rằng trong việc khai mỏ người Tàu thu 10 phần ta không được một, hẳn họ đã gian lận, ta không có chuyên viên để kiểm soát chăng?

Còn mỏ của chúng ta thì có khá nhiều ở các tỉnh Hưng Hóa, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Thái Nguyên. Tại các nơi này có vàng, bạc, kẽm, đồng… nhưng phương pháp khai mỏ của người Tàu bấy giờ cũng chưa được chu đáo lắm.

7 – Việc Đúc Tiền

Đến đời Lê Trung Hưng người ta còn tiêu tiền đúc của đời Hồng Đức. Đời Trung Hưng nối tiếp việc này cho các trấn tự lập sở đúc tiền lấy nên nhiều việc lạm dụng đã xảy ra.

Năm Quý Dậu (1753), chúa Trịnh Doanh muốn chấm dứt tình trạng này đã cho bỏ các sở đúc tiền ở tứ trấn, chỉ giữ lại hai sở ở gần kinh thành.

Năm Bính Thân (1776) đời vua Lê Hiển Tông, Trịnh chiếm được Thuận Hóa lại mở ở đây một lò đúc tiền, đúc thêm ba vạn quan tiền Cảnh Hưng nữa.

Ta còn thấy đời bấy giờ đúc cả bạc lạng nữa. Mỗi lạng trị giá 10 đồng, mỗi đồng ăn hai tiền. Bạc ấy chặt ra tiêu cũng được.

8 – Sự Đo Lường

Cho tới năm Giáp Thìn (1664) việc đo lường ở nước ta vẫn cứ 6 hạp là một thăng, có chỗ gọi là thưng. Thưng có lẽ là đồ đo lường lớn nhất để đong ngô, khoai, đậu, đỗ và nhỏ nhất là đấu. Đấu cũng có đấu lớn đấu nhỏ nữa cho tới gần đây ở các vùng quê miền Bắc vẫn dùng.

Chúng tôi ngờ thăng là đồ đo lường của Tàu mang sang từ lâu chớ không phải của ta có từ trước. Theo Việt Nam Sử Lược trang 314, ông Phạm Công Trức định lại, lấy một cái ống gọi là Hoàng chung quản làm chừng. Ống này đựng được 1.20 hột thóc đen gọi là thược, rồi cứ 10 thược là một hạp, 10 hạp làm một thăng, 10 thăng làm một đấu, 10 đấu làm một hộc[3].

Theo Hoa Bằng tác giả Quang Trung Nguyễn Huệ, Anh Hùng Dân Tộc thì thưng là đơn vị đong lường ngày xưa: cứ 10 hợp (hạp) là một thăng (thưng), một thưng bằng 316 tấc khối tức là 10.354.688 công thăng ngày nay.

9 – Học Chính và Khoa Cử

Về việc học vào thế kỷ XVII các triều đình nước ta vẫn không có gì thay đổi, khoa cử cũng vậy. Nho học vẫn được tôn sùng, duy việc học hành, khoa cử bị gián đoạn ít nhiều vì nội tình rối ren của quốc gia từ thượng bán thế kỷ thứ 16. Khi nhà Mạc còn thịnh (1527) Mạc vẫn mở khoa cử để tuyển dụng nhân tài ở Thăng Long, còn nhà Lê bấy giờ còn thất thời chỉ đủ thì giờ lo việc binh nhung mà thôi.

Tới năm Canh Thìn (1580), nhà Lê mới mở được khoa thi ở Tây Đô. Cách thức thi cử còn sơ lược và cứ ba năm mới có một kỳ thi Hội. Ngót một thế kỷ sau (1664) đời vua Huyền Tông, chúa Trịnh Tạc mới quy định lại thể thức thi Hội. Còn thế lệ thi Hương tới năm Mậu Ngọ (1678) cũng có chỉnh đốn lại. Từ đó 3 năm có một kỳ thi Hương. Trường thi đặt tại Thanh Hóa, Sơn Nam (Nam Định) Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thái Nguyên, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Lạng Sơn và Yên Quảng.

Sử chép rằng: tuy vậy thi Hương còn “hồ đồ” lắm, không nghiêm như dưới đời Hồng Đức. Đời Dụ Tông niên hiệu Bảo Thái, có lệ nộp tiền Minh Kinh là tiền kinh phí cho các quan trường. Năm Canh Ngọ (1750) đời Cảnh Hưng, nhà nước thiếu tiền, ai nộp được ba quan gọi là tiền thông kinh thì được thi, khỏi phải khảo hạch. Sự kiện này đã gây nhiều vụ lộn xộn làm mất uy tín của khoa cử do đó người làm ruộng, kẻ đi buôn, học hành lỗ mỗ cũng nạp quyển để thi. Vào đến trường học chen chúc nhau, có kẻ bỏ mạng, nhiều người còn làm những trò gian lận như thuê người gà bài, thí sinh với quan trường thông gian, khiến người ta có cảm tưởng là đi học chợ chớ không phải là đi thi nữa. Chúa Trịnh CƯơng cũng mở cả trường dạy võ, đặt quan giáp thụ trông coi. Học sinh thường là con cháu các quan đến học võ kinh, chiến lược, cứ một tháng một lần tiểu tập, ba tháng một lần đại tập. Ngoài ra trường học vào cấp sơ đẳng thì vẫn do nhân dân tự động mở lấy khắp thành thị và thôn quê do tư nhân, các ông đồ xuất thân là các vị khoa mục hay các nhà nho số phận hẩm hiu với cử nghiệp, các quan trí sĩ hay các người không muốn ra làm quan với bản triều. Về phần Nhà nước cũng có mở trường cho các thanh niên ưu tú đến học như Quốc Tử Giám. Giảng dạy ở đây là quan Tế Tửu hay Tư Nghiệp, mỗi lần tiểu tập, ba tháng một lần địa tập để bình luận văn thơ, thi phú và khảo hạch năng lực của các nho sinh. Mùa Xuân, mùa Thu thì tập vũ nghệ, (đánh côn, đánh thuyền, bắn cung, cưỡi ngựa, múa khiên, múa gươm, giáo, chạy bộ…). Mùa đông, mùa Hạ thì tập võ kinh (phần lý thuyết). Ba năm Nhà nước mở một khoa thi võ. Võ sinh phải biểu diễn các môn kể trên rồi vào vấn đáp là để duyệt khảo phần lý thuyết.

Năm Canh Thân (1740) chúa Trịnh Doanh cho lập võ miếu thờ Vũ Thành Vương Khương Thái Công, Tôn Vũ Tử… Đàng sau có miếu thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và có cả miếu thờ Quan Vân Trường.

Xuân Thu đôi lần triều đình cử các quan ra tế lễ.

10 – Việc Chép Sử

Cho tới đời Lê Trung Hưng chúng ta mới có bọ Đại Việt Sử Ký gồm các bộ chánh sử làm trong hai triều Trần Lê do ông Lê Văn Hưu biên soạn, bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư do ông Ngô Sĩ Liên làm ra thế cho bộ sử trên mất đi, bộ Đại Việt Sử Ký Tạc Biên của Phan Phù Tiên phụng mệnh vua Lê Nhân Tông chép tiếp vào bộ Đại Việt Sử Ký nay cũng không còn.

Đến đời vua Lê Tương Dực, ông Vũ Quỳnh được lệnh soạn ra cuốn Đại Việt Thông Giám Thông Khảo xong vào năm 1511 cũng như bộ Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên chép từ đời Hồng Bàng đến đầu năm Đại Định của Lê Thái Tổ (1428).

Năm 1665 ông Phạm Công Trứ soạn bộ Đại Việt Sử Ký Bản Kỷ Tục Biên là một công trình không riêng của ông (phần sáng tác của ông Phạm Công Trứ từ Lê Trang Tông đến hết đời Lê Thần Tông (1662) sau chúa Trịnh Tạc sai ông và nhiều người khác sửa và xét lại.

Đến năm Bính Thìn (1676) vua Hy Tôn sai Hồ Sĩ Dương xét lại bộ quốc sử, chẳng bao lâu họ Hồ mất đến Lê Hy và Nguyễn Quí Đức chép nối từ đời vua Huyền Tông đến vua Gia Tông gọi là Quốc Sử Thực Lục.

Năm Ất Vị (1775) đời Cảnh Hưng, chúa Trịnh Sâm sai các ông Nguyễn Hoàn, Lê Quí Đôn, Ngô Thời Sĩ, Nguyễn Du chép thêm từ Hy Tông đến Ý Tông gọi là Quốc Sử Tân Biên.

Chú thích:

[1] Sau này trong thời Pháp thuộc việc ruộng đất được đo đạc cẩn thận vạy mà ở nhiều nơi chính phủ thuộc địa cũng còn thi hành lối khoán trắng” này.

[2] Tại Thái Nguyên hai họ Trương, Cát người Tân quê ở Trào Châu, chuyên nghề khai thác mỏ đúc quặng đã có lần tụ tập được tới vạn người để hướng ứng với quân Nghĩa Dũng Điển Châu của nhà Thanh sau này theo Tôn SĨ Nghị sang xâm chiếm nước ta.

[3] Đời nhà Hồ tư điền phải đóng 5 thăng thóc, trước đó nhà Trần chỉ thu 3 thăng, thăng hay thưng cùng theo một nghĩa. Xin coi Quang Trung Nguyễn Huệ, Anh Hùng Dân Tộc trang 24 – những dòng cuối cùng của phần chú thích.