Chương III
Những người đã quen biết với Phượng và Dương từ trước, rồi thấy hai người xa nhau, ai cũng nhắc tới Phượng. Thì Phượng đang nằm đây, coi lại những bức hình cũ, kỷ niệm của những ngày tháng đã qua đi rồi..
Phượng nằm trên chiếc ghế sa-lông dài, kéo một tấm nệm để tựa lưng xuống làm gối. Mẹ là chúa ghét những đứa con gái nào trong nhà, nằm trên ghế. Cái ghế là để ngồi. Những chỗ nào đã đặt cái mông lên rồi thì không được đặt cái đầu lên đó…
Nhất là lại nằm ngoài phòng khách. Đang nằm trong một cái thế rất hớ hênh, lỡ có khách vào thì tha hồ mà đẹp mặt. Tiếng đồn ra ngoài thì ế chồng là cái chắc, lại chỉ ở nhà… với mẹ. Phượng cũng muốn ngồi để coi lại mấy tấm ảnh ngày xưa, nhưng mỏi lưng quá đành nằm nghiêng xuống. Rồi thân người cứ đè mãi cho tới lúc phải nằm dài ra cho thoải mái.
Hôm nay mẹ đi thu họ. Chắc là phải tới chiều mới về, nhưng biết đâu, mẹ lại không về sớm. Nghĩ tới chuyện bị mẹ mắng, Phượng chợt thấy rùng mình. Bà cụ có một lối mắng đặc biệt. Khi phạm một lỗi gì, bà cụ không mắng một tội đó, mà lôi những tội đã phạm từ tám mươi kiếp trước ra mà kể. Vừa dọn dẹp vừa nói… Từ nhà trong ra tới nhà ngoài…
Cững may là hồi nầy bà cụ bận chuyện buôn bán nên không có thời giờ để mắng nên Phượng nhiều khi cũng thấy nhớ cái điệp khúc được nhắc đi nhắc lại nhiều lần ấy…
Phượng có đông anh em… Những người anh trai thì đã có gia đình cả rồi, nên sống riêng biệt. Nhà chỉ còn ba cô con gái và một đứa em trai nhỏ. Bố Phượng mất từ ngày em Vinh mới lên ba và Phượng lên tám.
Năm nay, Phượng hăm hai, em Vinh mười bảy. Còn chị Yến, chị Loan, thì ba chị em có vẻ xung khắc. Loan học thật chăm, cứ thi là y như đỗ. Chị Yến và Phượng thì vì làm bài hay quá, nên thi đến bốn lần cái Tú Tài, mà các ông giám khảo chấm bài đều chê, không muốn cho đậu, để cho hai nàng cứ phải thi hoài, để các ông có việc làm.
Tức mình, Yến và Phượng không thèm thi nữa, tới hội Việt Mỹ, ghi tên học tiếng Mỹ chơi. Loan lên Đại Học, thấy mình là sinh viên, có lẽ lớn quá rồi, nên dần dần xa cách. Đã vậy, mẹ lại bênh Loan. Anh Thịnh, ông anh cả của Phượng, thường chế hai cô con gái:
– Hai cô là quan tư, hơn anh hẳn một lon rồi. Anh mới là đại úy…
Phượng hỏi:
– Tại sao em lại là quan Tư?…
– Chỉ vì cô thi đến bốn lần mà không đậu…
Bị chế như vậy, Phượng tức lắm, và định làm thêm vài chức nữa, cho lên tới quan Năm, quan Sáu. Nhưng rồi nhìn thấy Loan gầy guộc, xanh xao mỗi kỳ thi, Phượng lại thấy nản. Chẳng ăn được cái gì để mà phải đi vào con đường tàn phá dung nhan.
Phượng tự bảo thầm mình như vậy. Chị Yến ngừng lại thì đúng quá rồi. Đã gần ba mươi tuổi, ở nhà, trông nom cơm nước, rồi còn chờ một ông nào tới rước đi… Nhưng ba chị em Phượng cứ sống mãi với mẹ, năm này qua năm khác, và cái ngõ ấy, chẳng thấy bao giờ hân hạnh được đón một chuyến xe hoa…
Trong ba chị em, thì Phượng là một con người quá khổ. Phượng hơi cao, nếu so với một người con gái bình thường. Chỉ có một thước sáu mươi, mà trông lênh khênh như cây tre dựng lên ở đầu miễu… Cũng chỉ vì cái thân hình khác người ấy mà Phượng chịu thua thiệt. Trong lúc mà Yến và Loan có thể mặc chung áo của nhau, dùng chung với nhau cả những thứ đồ lót, thì Phượng được kể như con người cô đơn.
Những thứ mà Phượng dùng, không ai dám mượn. Phượng nhớ có một lần, chị Yến mượn của Phượng cái sú-chiêng, mặc mà phải gài đằng sau lại mấy nấc. Lúc đi vào chợ, chen lấn làm sao mà một phía ngực đằng trước bị lõm vào, rồi nhất định không thèm phồng ra nữa. Thiên hạ thấy vậy, nhìn chị Yến cười… Mãi một hồi sau. Yến mới biết, đi về nhà, tức đến phát khóc mất nửa ngày…
Phượng kéo chiếc bàn nước gần sát vào ghế, đè những tấm hình lên trên đó, rồi lần lượt coi lại. Phượng cũng bùi ngùi, nhìn một tấm ảnh vàng khè, chụp đã từ lâu lắm. Phượng đứng trước cửa nhà thờ, miệng còn mút ngón tay. Tấm hình này, anh Thịnh chụp lén đây. Quê Phượng ở tận mãi Bùi Chu, nơi có tháp chuông cao vút. Mỗi buổi sáng, buổi chiều, tiếng chuông vang dội mãi tới tận xa…
Con gái của xứ này, phần nhiều có đôi mắt đẹp, đôi mắt mở lớn như mắt nai màu biếc… Cũng có nhiều người khen mắt Phượng đẹp. Nhà thờ của xứ Phượng thật cổ kính, với những, cửa sổ ở trên cao, lắp toàn là kính màu xanh, màu đỏ, để giữ bên trong có được không khí trang nghiêm.
Thuở nhỏ, Phượng được mẹ dạy mỗi lần đi qua cửa chính nhà thờ phải quỳ một chân xuống làm lễ, rồi mới được tiếp tục di… Làng Phượng, có một giọng nói đặc biệt địa phương, mà Phượng cứ tiếc mãi rằng mình không sao giữ được.
Tiếng nói đặc biệt của quê Phượng, còn sót lại trong vùng xóm đạo Hố Nai. Lâu lâu một bà cô, một bà thím lên chơi, Phượng cũng phải mất vài giây ngớ ngẩn mới hiểu rõ được câu nói. Nhưng Phượng thấy người nói thứ tiếng đó, khuôn mặt tỏa ra sự vô tư, chất phác, làm cho Phượng phát thèm.
Nếu mình cứ sống mãi quê hương Bùi Chu, Phát Diệm, thì chắc rồi đây, mình cũng lại trở thành một thứ bà cô, bà thím, mỗi lần đi Saigon trở về nhà, mua quà cho con cháu, chỉ mua toàn 1à bánh mì. Còn như ở đây, thì Phượng sợ bánh mì quá. Việc làm bếp được chia phần. Một ngày của Phượng, một ngày của Yến. Còn Loan thì được miễn, vì bận học.
Yến và Phượng uất ức vì sự miễn trừ nầy lắm, nhưng khi mẹ đã bênh Loan, cho Loan được hưởng một quyền lợi đặc biệt như vậy, thì còn ai dám cãi. Nhưng Yến và Phượng lại nhường cho Loan một cái hân hạnh, là dọn đẹp chiến trường. Sau khi ăn, Loan có nhiệm vụ phải lau bàn, rửa bát đĩa nồi niêu. Công việc cũng chẳng nhẹ nhàng gì thành ra được kể như huề cả làng.
Còn về chuyện làm bếp được phân chia, thì cũng xẩy ra lắm chuyện. Phượng đề nghị với Yến, là dùng lối xe hơi đậu ngoài đường, theo ngày chẵn, ngày lẻ, để làm tiêu chuẩn:
– Phượng sẽ làm bếp vào ngày lẻ. Còn chị Yến vào ngày chẵn. Thì là công bằng quá rồi còn gì …
Mới nghe thì có vẻ công bằng lắm, nên Yến bằng lòng ngay. Được vài ngày mới thấv Phượng khôn như con mẹ ranh. ” Khôn như mẹ ranh ” đó là lời của Yến kết tội Phượng.
– Mầy khôn quá Phượng ạ!
– Tại sao chị Yến lại nói là Phượng khôn. Mỗi đứa một ngày, đã được phân chia ra chẵn, lẻ. Chẵn với lẻ thật riêng biệt như đen với trắng, như ngày với đêm…
Yến nổi giận:
– Ai mà nói cho kịp cái mồm của mầy. Những tháng có ba mươi mốt ngày như tháng nầy, tao phải làm bếp hai ngày liền, trong lúc đó thì hai ngày mầy phây phây ra, thật khoẻ cái thân xác. Khôn như con mẹ ranh!…
Yến nói như vậy nhưng cũng chẳng hiểu con mẹ ranh hình dáng nó như thế nào. Cả Phượng cũng vậy. Bị Yến khám phá ra cái sự khôn của mình, luật lệ trên đành phải bãi bỏ. Thay vào đó là cứ việc theo tuần tự. Ngày hôm nay Yến thì ngày mai tới lượt Phượng. Chẳng ai được hưởng một ân huệ nào. Nhưng cứ hôm nào Phượng biết là mẹ không ăn cơm nhà chỉ có bốn chị em, mà lại tới phiên Phượng làm bếp, là Phượng bèn đi một đường đóng kịch:
– Hôm nay Phượng thấy người cứ ngây ngất khó chịu, chẳng muốn ăn cơm…
– Lại giở trò rồi. Ốm đau ra làm sao? Chê cơm thì chắc là ốm nghén rồi…
Phượng biểu diễn một bộ mặt đau khổ:
– Chị Yến chỉ nghi bậy, Phượng đau thiệt mà! Không tin thì chị Yến cứ sờ tay lên trán Phượng mà coi. Thật nóng hơn cái lò lửa.
Yến cũng đưa tay sờ lên trán Phượng. Chẳng thấy nóng một tí tẹo nào, dù rằng Phượng đã quệt một khối dầu cù là. Nhưng khi thấy Yến đã sờ tay lên trán Phượng la om sòm:
– Đấy chị Yến coi! Coi chừng không chị Yến phỏng tay. Thôi, chị Yến sai Vinh đi mua bánh mì ăn một bữa. Lâu lâu chúng mình ăn một bữa bánh mì cho đổi khác di. Ăn cơm hoài chán quá…
Ấy thế là cứ lâu lâu một lần, tới phiên Phượng làm bếp là Phượng bắt cả nhà ăn bánh mì cùng với Phượng. Nhà Phượng ở ngay gần chợ nên việc mua bánh mì cũng chẳng nặng nhọc gì… Bà bán bánh mì cũng đã quen mặt với Vinh và quen thân với gia đình Phượng đến nỗi cứ buổi trưa nào mà Vinh đi mua bánh mì lại được bà ta tủm tỉm cười, hỏi một câu:
– Hôm nay tới phiên chị Phương làm bếp phải không…?
Nhiều lúc, Yến cũng tức lắm, nhưng phải tự an ủi rằng, thà ăn bánh mì, còn hơn phải ăn cơm nấu buổi sáng, dùng luôn cho cả buổi chiều. Bữa cơm chỉ thấy có giò, chả. Món canh là một tô nước phở mua của chú Xích. Vinh đã phải phàn nàn:
– Chị Phượng cứ cho ăn giò, chả với thịt quay, chẳng mấy lúc mà em thành cậu ấm con quan. Chị cho ăn cái gì bốc hơi đi chị Phượng!…
Thấy Vinh phàn nàn là không được ăn những thứ bốc hơi, Phượng cũng thấy thương hại. Thằng bé đang tuổi chóng lớn, cần phải đớp kỹ để nhổ giò nhổ cẳng. Nhưng đã nói nhiều lần, Phượng rất ngại xuống bếp, bày vẽ ra nhiều món ăn. Nói vậy, không phải là Phượng vụng về trong việc chế tạo những món ăn cầu kỳ. Phượng rất khéo, nhưng chỉ phải cái tội lười.
Mới đầu Phượng làm bếp vì thấy thích, nhất là khi ăn xong một món gì do Phượng làm, cả nhà xúm lại khen ngon. Về sau nầy thấy rằng chăm chỉ là thiệt vào thân, nên Phượng tới phiên làm bếp là phóng xe “xô-lếch” ra đầu phố, bắt vài chục giò chả và thịt quay. Chỉ còn phải nấu có nồi cơm thì Phượng nấu một bữa thật nhiều, để ăn được cả ngày. Ấy thế là một ngày của Phượng qua đi một cách nhàn hạ.
Phượng lơ đãng cầm từng tấm hình lên coi. Hình như tất cả những người con gái của đất Saigon đều tốn rất nhiều thi giờ trong công việc chụp hình. Riêng Phượng thì có cả đống. Phượng đã định rằng hôm nào đi mua dăm bảy cuốn “album”, bỏ ra hẳn một ngày làm công việc lựa chọn và dán vào tập ảnh. Nhưng cứ đi qua tiệm sách thì lại quên, rồi về nhà mới lại nhớ tới. Thật không còn ai dễ lú lẫn hơn là Phượng.
Yến từ trong bếp đi ra, tay còn cầm đôi đũa. Thấy Phượng nằm đài trén ghế sa-lông, Yến kêu lên:
– Ngồi dậy! Mầy nằm trên ghế, mà lại nằm ngoài phòng khách, mẹ về bắt gặp là lại ầm nhà, ầm cửa. Con gái gì mà cứ như không có xương sống…
– Thôi mà chị Yến! Phượng mỏi lưng quá!
Yến vẫn lắc đầu:
– Làm cái gì mà mỏi lưng? Cứ làm như bà lão tám mươi? Mày thử nhìn cái thân xác mày coi. Dài thườn thượt ra mà còn nằm chinh ình ở đó thì ai mà chịu được. Hai cái cẳng dài như hai cây tre.
Phượng nhìn xuống hai chân mình, cố tạo bộ mặt vui vẻ để có thể ” sống chung hòa bình ” với Yến:
– Ừ, mà hai cái cẳng của Phượng dài thật. Chị Yến cũng thấy là nó dài chứ… “Trường túc bất tri lao “.
Yến bật cười:
– Cái con nhỏ này ăn nói bậy quá…
Nói xong Yến bỏ vào trong bếp. Phượng lại vẫn nằm dài, lật từng tấm ảnh, rồi cầm lên một tấm chụp toàn thể gia đình.
Trong hình, mẹ cười thật tươi. Anh Thịnh, anh Vượng, anh Đạt đứng hai bên mẹ. Còn ở hàng dưới là Yến, Loan, Phượng và chú Vinh, lúc đó còn là nhóc tì. Phượng thấy nhớ lúc gia đình còn đoàn tụ, các anh chưa lấy vợ, đi ở riêng. Có các anh ở nhà, lâu lâu Phượng lại được nghe các anh kể chuyện về bố. Theo lời anh Thịnh kể, thì ngày mới sinh Yến, bố mừng lắm vì là cô gái đầu lòng.
Lúc đó thì bố lại bắt đầu đam mê vào một thú chơi nguy hiểm là hút thuốc phiện. Bởi thế bố mới đặt tên cô con gái đầu lòng là Phi Yến. Nơi bàn đèn mà bố hay lui tới, có treo một bức tranh, vẽ một con chim yến bay trên khu rừng mùa thu, bên cạnh có bốn chữ nho Phi Yến thu lâm, có nghĩa là yến bay rừng thu.
Nhưng bốn câu chữ nho ấy, nếu phát âm theo giọng các ông Tây, không bỏ dấu, thì lại có nghĩa là Phiện thú lắm… Anh Thịnh kể chuyện đó, làm cho Phượng và cả nhà cười, nhưng rồi sau khi cười, lại bâng khuâng nhớ bố
Anh Thịnh còn kể tiếp:
– Về sau này, thấy liên tiếp mẹ phát ra ba cái hĩm, bố cũng chán nản trong việc đặt tên. Tên của Loan và Phượng là do mẹ đặt. Đáng lẽ thì tên của Phượng là Phụng cơ đấy. Nhưng mà anh thấy cái tên Phụng, có vẻ nhà quê quá, bèn nói với mẹ đổi lại là Phượng. Phượng có nghĩa là một loài chim, cũng có nghĩa là hoa mùa hè. Vậy Phượng phải cám ơn anh.
Lúc đó thì Phượng cũng chẳng nghĩ ngợi gì…Tên là Phụng hay là Phượng thì cũng vậy. Nhưng rồi về sau nay, khi đi học, Phượng thấy mấy đứa bạn gái mang tên Phụng, mặt mũi có vẻ đần đần, ít tìm được chất sáng nào trong đôi mắt. Phượng thấy cần phải cám ơn anh Thịnh bằng cách một buổi chiều, Phượng đi chợ làm một bữa cơm tuyệt hảo.
Tiếng Yến vọng gọi từ trong nhà bếp:
– Phượng ơi vào đây chị nhờ Phượng một chút
Phượng nghĩ thầm:
– Ăn nói mà dịu dàng như vậy, thì chém chết cũng sắp sửa nhờ vả chuyện gì đây.
Nghĩ vậy Phượng tảng lờ như chưa nghe thấy gì. Cái gì chứ chuyện giả điếc, thì đó là nghề của Phượng. Lại có tiếng Yến:
– Phượng vào kho dùm nồi cá kho đi. Chị biết là món cá kho với tương, thì không ai qua mặt được Phượng. Có đầy đủ dụng cụ, đã sắp sẵn rồi, chỉ còn chờ Phượng ra tay nữa thôi… Phượng mà để chị kho thì thật là phí mớ cá nầy đi…
Một chuyến tàu chạy ầm ầm qua… Tiếng động cơ xe gắn máy ồn ào một lát, rồi khu phố đó lại trở về với sinh hoạt và tiếng động bình thường. Chuyến tàu mười một giờ đã đi qua…
Nhiều lúc, tới giờ xe lửa đi qua, Phượng cũng náo nức chờ một tiếng còi tàu hú lên tận đằng xa và tiếng bánh xe nghiến trên đường sắt làm rung rinh nhà cửa. Những gia đình ở đây phần nhiều đông con. Khi đọc một chuyện vui cười ngoại quốc, Phượng mới hiểu lý do về mẩu đối thoại chuyến tàu năm giờ sáng.
– Tại sao làng nay đông con nít quá vậy?.,
– Vì có chuyến xe lửa chạy qua làng lúc năm giờ sáng.
– Xe lửa đâu có dính dáng gì tới con nít?
– Tại sao lại không. Chuyến xe lửa ấy chạy qua rầm rầm, hú còi ầm ỹ, đánh thức cả làng dậy. Năm giờ sáng mà thức dậy sớm quá, chờ tới giờ đi làm thì hơi lâu. Mà ngủ lại thì rất dễ xảy ra một sự dậy trễ. Vậy thì chỉ có một cách cho thì giờ qua mau là làm chuyện vợ chồng. Bởi vậy con nít ở làng nầy mới đông như thế…
Phượng đã cười nhiều với câu chuyện ấy. Xóm nầy cũng có một chuyến xe Saigon – Biên Hòa chạy qua lúc năm giờ sáng. Có lẽ vậy mà con nít mới đông tới mức ghê gớm. Phượng chưa có chồng nên vào cái giờ ấy, chợt giật mình thức dậy, muốn ngủ lại mà ngủ không được, cảm thấy cô đơn và trống lạnh mênh mông. Ba cô gái nằm trên căn lầu đó, trở mình thở dài mà nghe thấy rõ cả tâm sự của nhau, nặng nề như đeo từng phiến đá…
Căn phòng ba cô gái ở trên lầu, nhìn ra đường có thêm một chiếc ban-công. Mẹ nằm ở phòng ngoài, còn Vinh thì nằm ở nhà dưới, vì Vinh vẫn tự phụ, cả nhà chỉ có một Vinh là đàn ông, tuy rằng chỉ là một thứ đàn ông nhóc tì. Vinh ở dưới nhà, để trông nhà nhưng hôm nào mà buổi tối được nghe kể chuyện ma, thì Vinh lại nhảy lên gác, nằm ở phòng ngoài. Nhiều đêm, ba người con gái, thức rất khuya nói chuyện rì rầm đến nỗi ở phòng ngoài, mẹ phải mắng:
– Mấy đứa nầy sao mà lắm chuyện nói thế?.. Đi ngủ đi! Nói chuyện cả ngày rồi không chán hay sao mà còn để dành tới tận khuya lơ, khuya lắc…
Mẹ chẳng bao giờ hiểu được tâm sự con gái. Chuyện nói về ban ngày, khác xa với những câu chuyện về ban đêm, nhất là cả ba cô con gái đều chưa có chồng và có đến hàng đống chuyện yêu đương. Loan thì ít chuyện hơn là Phượng và Yến, vì năm nào cũng phải thi, học đến độn cả người. Tuy cùng ghi tên học ở hội Việt Mỹ, nhưng mỗi tuần lễ, Phượng và Yến chỉ học có hai buổi tối.
Tối học cũng chỉ là ngồi chơi đấu láo, để thoát ra một chút ra khỏi không khí quá quen thuộc của gia đình.
Phượng xếp lại những tấm ảnh để bừa bãi trên bàn nước, rồi đi vào trong bếp, làm lành với Yến:
– Chị Yến cần Phượng làm gì, để Phượng làm giúp.
Yến biết rằng khi Phượng đã ngỏ lời làm giúp, thì dù có đuổi, có mắng, Phượng cũng cứ xông vào làm.
Bởi vậy Yến mát mẻ:
– Thôi, tôi chẳng dám nhờ tới bàn tay ngà ngọc của cô. Mời cô lên nhà trên ngồi chơi, khi nào cơm làm xong tôi sẽ lên mời cô ăn.
Phượng cười tươi:
– Chị Yến giận Phượng đấy à?… Vậy tối nay, chị Yến đi học bằng xích-lô nhé…
Câu nói của Phượng thật công hiệu. Đi đâu, Yến cũng phải dính với Phượng, vì phải nhờ Phượng chở đi bằng xe “xô-lếch”. Chiếc xe xô-lếch, là gia tài của Phượng, là quà sinh nhật của anh Thịnh tặng cho cô em gái út, sau một chuyến đi Mỹ học, để dành được một ít đô la.
Nhưng anh Thịnh đặt ra nhiều điều kiện. Phải cho Vinh mượn. Phải chở Yến, Loan – nếu Yến, Loan cần đi đâu. Nếu mẹ muốn phải chở luôn cả mẹ nữa… Phượng, trong lúc cần có xe để chạy vung vít, đã bằng lòng. Từ lâu, Phượng vẫn ao ước có một chiếc “xô-lếch” mới, để có thể cho “tà áo tung bay khắp các nẻo đường”, thì điều kiện gì mà Phượng lại không chịu.
Nhưng rồi khi lấy xe ở hãng ra, Phượng mới dở trò yêu sách. Hóa đơn xe đề tên Phượng, nên Phượng có toàn quyền muốn làm gì cũng được. Cái gì chớ chuyện đóng kịch thì đó là nghề của Phượng. Cần đến Phượng đưa đi đâu, Phượng chỉ cần biểu diễn một màn nhức đầu, chóng mặt là xong xuôi hết. Cả nhà đều biết như vậy, nên phải xuống nước vói Phượng.
Phượng thận trọng đặt từng con cá vào nồi, rắc một lượt muối lên mỗi lớp cá. Những lát khế thái thật mỏng. Phượng cho thêm một ít riềng, một vài miếng thịt mỡ. Đổ thêm một chút nước, rồi đặt lên bếp. Cái bí quyết về kho cá, Phượng vẫn giữ kín. Vinh đi học về, vừa vào đến nhà, dựng xe, đã chạy ngay xuống bếp hô hoán rất ồn ào:
– Cơm xong chưa, chị Yến, chị Phượng? Đói quá, đói gần chết rồi…
Yến dịu dàng:
– Làm cái gì mà la lối đữ vậy? Từ từ một chút nào! Sao mặt chú đầy mồ hôi, mà tái mét thế kia?
Vinh mở máy nước đưa cả cái đầu vào:
– Tại cái xe của chị Phượng. Máy nhất định không thèm nổ, em phải đạp bằng chân hoài, mệt qúa!…
Nghe Vinh nói, Phượng thấy hối hận. Nàng đã cho giấy vào chỗ cắm “bu-di”, đề máy không nổi, cho Vinh phải đạp hộc xì dầu ra. Thằng bé cũng kém thông minh thật. Thấy máy không nổ, thì phải biết chứ. Nhưng đâu ai có thể ngờ được kẻ hại mình, lại là bà chị thân mến của mình.
Cậu con trai út của gia đình, vì sống chung với đàn bà con gái, từ nhỏ tới lớn nên không có cái tháo vát và hăng tiết vịt của một anh con trai mới lớn. Ngày Vinh còn nhỏ, chị Yến, chị Loan và Phượng thường tinh nghịch, may quần áo đầm mặc cho Vinh, bắt Vinh để tóc dài rồi dắt đi chơi tới những nhà bạn gái….
Vinh là một trò chơi của các cô con gái. Bộ mặt xinh xắn của Vinh, được “trang bị” thêm mớ tóc dài cắt ” bôm bê “, lại còn được chị Phượng đánh móng chân, móng tay màu đỏ, chẳng khác gì một cô gái xinh đẹp dễ thương nữa mới đau chứ.
Chị Yến, chị Phượng thường dắt Vinh đi tới những chỗ tụ họp toàn là con gái làm cho Vinh quen với mùi phấn son, mùi tóc ngai ngái và lâu lâu, bị những phát ôm thật chặt đến nghẹt thở. Nếu có một cô gái nào lạ, thế nào Vinh cũng biến thành một trò đố vui để… chơi. Vinh thường được chị Yến hay chị Phượng dẫn tới trước mặt cô gái này rồi hỏi:
– Tao đố mầy, em tao là con trai hay con gái?…
Người con gái lạ ngắm nhìn Vinh, làm cho Vinh thẹn, phải quay mặt dụi vào lòng chị. Cử chỉ đúng là em bé gái, nên cô gái lạ không ngần ngại trả lời:
– Là con gái chứ con trai sao được…
Ấy thế là cả bọn cười vang lên. Chị Phượng kéo cái “xì-líp” của Vinh tuột xuống chân, để lòi “con chim” của Vinh ra. Thì con trai và con gái, chỉ khác nhau ở cái đó. Ảnh hưởng của các chị và mẹ, tính của Vinh cũng có phần nào giống đàn bà. Thuở nhỏ, Vinh thích chơi búp bê, chơi những trò khâu vá, trong lúc những người bạn cùng lứa tuổi chỉ thích đánh bi, đánh đáo, trèo cây, bắt chim…
Có một thời, Vinh còn bắt chước các chị, lúc đi tiểu là ngồi xuống, không đứng thẳng để làm thành cầu vồng như những đứa con trai khác. Vì đi theo các chị nhiều lần, nên Vinh có thói quen, gặp đàn bà con gái là gọi bằng chị.
Ở trong lớp học của Vinh cũng có mười cô con gái, ngồi ở hai đầu. Vinh gọi bằng chị hết. Trong lúc mà những người bạn cùng lớp, quấy phá chọc ghẹo những cô bạn học cùng lớp, thì Vinh lại lễ phép với các cô, một thứ lễ phép làm cho các cô bực mình. Con gái thời nay, còn ngổ ngáo hơn Vinh nhiều lắm. Đến sự nghịch ngợm ở trong nhà, Vinh cũng còn thua xa chị Phượng, hay bị chị Phượng đùa cho nhiều vố rất cay.
Có một lần, Vinh ngủ trưa, bị chị Phượng vẽ râu, rồi đánh thức dậy, nhờ chạy đi mua một tờ tuần báo điện ảnh, với lời hứa là sẽ để cho Vinh đọc trước. Mừng quá Vinh cầm tiền, chạy ra ngoài nhà, phóng xe “xô-lếch” chạy một mạch tới hiệu sách. Bị thiên hạ cười, Vinh nhìn vào tấm gương mới biết và lúc về đến nhà, cũng biểu diễn một màn giận dỗi, y như một nàng con gái chính hiệu. Hôm đó, mẹ đã mắng chị Phượng:
– Mày nghịch dại như thế, vẽ râu lúc nó ngủ, lỡ hồn nó về thấy mặt khác, không nhập vào xác, nó ngủ luôn thì sao…?
Phượng lè lưỡi ra dài đến cả tấc vì sợ. Nàng vẫn nhí nhảnh hỏi mẹ:
– Thế thì cứ thấy mặt khác, thì hồn không nhập xác nữa hả mẹ…?
Mẹ Phượng lại kể ra vài ba câu chuyện mà chắc là cũng chỉ nghe người ta kể lại. Gia đình này tuy theo đạo Thiên Chúa nhưng cững vẫn tin những chuyện hồn ma bóng quế. Nhà có mấy mẹ con phần đông là đàn bà con gái, mà buổi tối được nghe chuyện ma thì thật rùng rợn hết chỗ nói. Tối hôm đó, ba chị Yến, Loan, Phượng nằm ngủ ôm chặt lấy nhau.
Phượng được coi là nghịch ngợm nhất nhà… Buổi chiều, người bỏ báo tháng cho nhà, thường đứng ngoài đút tờ báo qua khe cửa. Cả bốn chị em, đều bỏ hết công việc, chạy thi ra phía cửa để cố chiếm lấy tờ báo đọc trước. Phượng nhờ cái chân dài, bao giờ cũng chạy lẹ hơn hết mọi người, nên thường chiếm được độc quyền đọc báo trước.
Bởi vậy, cứ tới giờ đưa báo là Vinh, vì nhàn rỗi nhất nhà, thường ngồi chầu chực ngoài ngoài phòng khách. Tờ báo chỉ vừa ló ra khe cửa, là Vinh đã vồ ngay lấy. Biết được chuyện này, Vinh lại bị Phượng lừa. Đợi tới gần giờ đó Phượng lấy một tờ báo cũ dấu trong người rồi ra đứng ngoài cửa.
Đoán là Vinh đang ngồi chờ báo, Phượng đút tờ báo qua khe cửa. Vinh vồ ngay lấy, nhưng lúc dở ra thì lại là tờ báo cũ…
Lúc đó, Pnưọng mới mở cửa vào nhà, nhìn bộ mặt ngẩn ngơ của Vinh rồi ôm bụng mà cười đến gần ngạt thở. Tuy bị chị Phượng đùa đai nhiều lần, nhưng Vinh yêu quí chị Phượng nhất nhà…
Vinh vừa lau mặt cho tỉnh táo, vừa nói:
– Chị Phượng à, em vừa gặp chị Hằng…
– Hằng nào?…
– Hằng có ông chồng là lính tàu bay ấy mà…
Phượng reo lên:
– A, con Hằng Tí Nai! Vinh gặp nó ở đâu? Trông nó hồi nầy có khá không? Sao Vinh không mời nó về nhà chơi?
Phượng hỏi dồn dập thêm mấy câu nữa. Tính của Phượng vốn ồn ào như vậy, cả nhà ai cũng biết rõ. Chờ cho Phượng hỏi đến câu chót, Vinh mới tà tà hỏi lại:
– Chị Phượng nói đã hết chưa? Em sẽ trả lời từng câu. Chị gọi chị Hằng bằng cái tên Tí Nai ngày xưa e rằng không đúng nữa rồi. Nai vàng ngơ ngác ấy bây giờ gần như một thứ nai đồng quê, nhưng vẫn còn giữ được đôi mắt tinh nghịch, chẳng kém gi chị Phượng đâu. Còn việc mời chị Hằng về nhà chơi, thì em chẳng cần mời, chị Hằng cũng về. Nhưng xe “xô-lếch” phải đạp, chị lại còn bồng thêm một cháu nhỏ. Em mà để cho chị Hằng ngồi về đến nhà, thì chắc đôi chân của mình phải xin phép đi chỗ khác chơi….
Vinh ngó đầu vào bếp, nhìn qua các món ăn mà hai bà chị đang sửa soạn, hít vài ba cái; rồi lên nhà trên, vừa đi, vừa nói:
– Em phải nằm nghỉ mệt, để lát nữa còn thưởng thức món cá kho của chị Phượng…
Mọi khi được nịnh một câu, Phượng đã vui cười hể hả. Nhưng hôm nay, Phượng nhe Vinh nói mà hồn cứ như ở mãi tận đâu. Nhắc tới Hằng, là nhắc tới cả một thời xa xôi, mấy năm về trước, ngày mới di cư vào Nam. Bước chân từ một con tàu bồng bềnh, nghiêng ngả, xuống tới đất liền, đoàn người ấy, trông thật tả tơi hoa lá, vì bị mấy ngày sóng biển hành hạ. Ngày đầu tiên, còn lạ với trời, mây, nước, đám con gái còn ríu rít, nói với nhau bằng những lời hót sơn ca.
Qua ngày thứ hai đã có vài ba nàng kềnh… Ngày thứ ba thì những người con gái đẹp của thủ đô ngàn năm văn vật, chỉ còn là những khối thịt được phủ lên người đống quần áo bèo nhèo, sau khi đã trải qua những trận cho cá ăn chè rất kịch liệt. Nghĩ tới đó Phượng lại thấy ghê ghê.
Khi con tàu vào tới cửa sông, cảnh vật hai bên bờ, lướt chạm trước mắt. Đám người ấy hít thở được không khí đất liền, đã như dần hồi tỉnh. Rồi rời con tàu xuống bến, bước đi trên đất mà sao cứ thấy chông chênh, cảm thấy đất ở dưới chân mình như không được vững. Đoàn người đứng tụ tập dưới đất, gia đình nào đứng vào gia đình đó, kiểm soát lại người, đồ vật, rồi lếch thếch xếp hàng lãnh tiền như một đám hành khất chính hiệu.
Trong đám người đó có gia đình Phượng, gia đình Hằng và còn nhiều, nhiều lắm. Thnh thoảng, gặp lại nhau, nhắc với nhau vài ba kỷ niệm rồi lại thấy bâng khuâng….
Bây giờ thì mỗi người con gái có một nếp sống riêng. Có người đã chết như Diệu, nàng ca sĩ thơm mát như trái xoài tượng miền Nam.
Diệu yêu một nam ca sĩ lớn tuổi. Chàng ca sĩ này, đã một thời là thần tượng của những người con gái học trò thuộc cỡ tuổi của Phượng, của Hằng, của Diệu. Khi Diệu cũng đã trở thành ca sĩ, được gần thần tuợng của mình, ấp ủ thương yêu từ những ngày còn thơ ấu, thì nhất định tình ái bắt buộc phải xảy ra.
Người đàn ông vốn tham lam. Có được một đứa con gái thơm như thế, ngã vào vòng tay, ai mà ngu dại từ chối. Chàng ca sĩ đã phát cho Diệu một bụng, lại còn bị vợ chàng ca sĩ, là một nghệ sĩ của đài phát thanh, tới đánh ghen nên sau một phút chán đời, Diệu tự tử… Ngày đó bạn bè di cư, sống chung nơi nhà hát Tây, đã tụ họp đông đủ nhất để đưa đám Diệu. Nước mắt đã thấm ướt hết khăn mùi xoa, ướt hết những vạt áo dài.
Nhớ lại những ngày sống ở nhà hát Tây, là nhớ lại một quãng đời nghèo mà vui. Buổi chiều, lũ con gái mượn được chiếc xe đạp, bèn đưa nhau ra đường giữ cho nhau tập đi xe. Cô nào cũng biểu diễn màn té xe đến vài ba phát. Đầu gối, khuỷu tay, còn lờ mờ vết sẹo, là kỷ niệm những này mới di cư, tập đi xe đạp. Đám con trai buổi chiều cũng đứng vỉa hè, bên đường, phì phèo điếu thuốc lá, tập làm người lớn. Mỗi lần có cô nào đạp xe ngang qua chỗ chúng đứng nói chuyện, thì lại có một tên la lên:
– Đạp khỏe nữa đi. Ngồi thẳng lên, đừng nhích qua nhích lại mà rụng hết.
Có tên khác, nham nhở hơn:
– Tháo cái yên ra mà đạp thì dễ tập hơn.
Nhiều lần Phượng đã ngừng xe xuống chửi nhau với chúng nó một trận. Phượng vẫn có tiếng là ngổ ngáo. May là Phượng đẹp, nên dù có mắng chửi chúng nó thậm tê tới đâu, dùng những danh từ nặng nề đến thế nào chăng nữa, chúng nó cũng chỉ cười.
Phượng gọi lũ con trai hay đứng ở đầu hè chọc gái, là một lũ mất dậy. Không ngờ rằng trong số này về sau cũng có vài ba thằng thi đậu phăng phăng, lúc ra đời, được làm những chức lớn. Người con trai ở vào cái tuổi nào đó, thấy con gái đẹp là nói trêu vài câu, chọc giận một tí, nhưng không phải có tính tình xấu. Chỉ có Phượng là khắt khe như vậy thôi, chứ Yến, Loan, Hằng hay Diệu, thì có bao giờ để ý tới những sự trêu chọc ấy đâu.
Hằng nhiều khi còn đối đáp lại vài ba câu cho vui câu chuyện. Bởi thế, Phượng được lũ con trai di cư, ngụ chung tại nhà hát Tây, đặt tên là Phượng quả ớt. Đặt tên là ớt có lẽ vì Phượng cay quá và có lẽ cũng vì cái màu áo đỏ mà Phưọng hay mặc.
Phuợng hỏi vọng lên trên nhà:
– Chị Hằng có nói chuyện gì nữa không Vinh?
Vinh trả lời, mà vẫn nằm trên giường:
– Chị Hằng hỏi thăm chị Yến, chị Loan và hỏi thăm về chị Phượng. Em có cho biết số nhà. Chị Hằng hứa là chiều nay sẽ tới chơi. Nếu xe “xô-lếch” không phải đạp, thì em đã đưa chị Hằng về nhà rồi… Cái xe khốn nạn quá.
Phượng lại thấy hối hận vì đã nhét giấy vào đầu “bu-di” xe, để cho Vinh phải đạp. Nếu cái xe cứ chạy phom phom như mọi khi, thì bây giờ, Phượng đã gặp Hằng. Lâu quá, không gặp bạn, Phượng thấy nhớ chúng nó quá. Nhất là gặp Hằng, coi xem người con gái, sau mấy năm lấy chồng, có khác đi cái gì không.
Tính của Phượng vốn tò mò…. Đi dự một đám cưới của người bạn gái, Phượng hay hỏi thăm những chuyện vớ vẩn. Sau đêm tân hôn của vợ chồng người ta, Phượng hay kiếm cớ quên một cái gì ở nhà bạn, để sáng hôm sau trở lại thật sớm. Lúc đó, người bạn gái phải ra tiếp khách.
Phượng nhìn ngắm người bạn gái đó hơi kỹ. Mà lần nào cũng vậy, Phượng thấy những người bạn ấy, từ thời kỳ con gái, bước sang đến thời kỳ đàn bà, đều như khác ngày hôm qua. Phượng đem chuyện này ra nói với chị Yến, chị Loan, lần nào cũng bị mắng, “muốn biết từ lúc con gái tới lúc làm đàn bà, sự khác nhau như thế nào, sao không mang thân ra mà tự thí nghiệm thử xem “.
Chị Yến mắng Phượng câu này, làm cho Phượng đỏ mặt, nhưng cũng thì thầm hỏi lại:
– Thế chị Yến đã thành đàn bà chưa? …
Chị Yến hét lên một tiếng, tưởng sập đổ cả căn nhà, vớ lấy cái chổi lông gà, định phang Phượng vài cái cho hả tức. Nhưng mà khi Phượng đã chạy thì đố ai mà đuổi được.
Mà cùng chẳng cần phải chạy đâu xa. Cứ chạy ra ngoài cửa, thì cho kẹo, chị Yến cũng không dám vác chổi lông gà, đuổi đánh em ở ngoài đường. Sau khi thấy chị Yến đã hết giận, treo cái chổi lông gà lên cái đinh trên tường, Phượng mới lại tà tà đi vào, cười rất tươi, và nói vài ba câu chuyện về trời mưa, trời nắng.
Cái gì chứ, câu chuyện làm quà, thì Phượng có nhiều lắm. Chỉ cần kể một tai nạn thật rùng rợn của chuyến xe lửa vừa chạy qua, chiếc xe hơi đụng gắn máy, hay chuyện mấy bà bán hàng đánh xé nhau ngoài chợ, cũng đủ để chị Yến hai tay ôm chặt lấy ngực, mắt thao láo nhìn Phượng, rồi dục kể cho hết câu chuyện.
Nhưng chuyện của Phượng, bao giờ đoạn kết cũng vui vẻ, nghĩa là chẳng chết một thằng Tây đen nào cả. Chị Yến thở một hơi thật dài như trút được một gánh nặng:
– Thế mà làm tao hết cả hồn …
Tới lúc đó, thì Phượng biết là câu chuyện đã êm, Phượng chọc tức người ta đã gỉỏi mà dàn hòa lại còn giỏi hơn.
Chị Yến, chị Loan còn hay bị mẹ mắng, chứ Phượng thì mẹ ít khi mắng được, vì chỉ mới mắng được có hai câu thì Phượng đã làm cho bà cụ phì cười, thì còn mắng làm sao được nữa.
Vinh lại gọi:
– Chị Phượng à, chị Hằng có nhắn một tin rất hay cho chị..
– Tin gì vậy? …
Vinh đã bước ra ngoài, tới gần Phượng thì thầm:
– Chị Hằng nói là đã tóm được anh Dương cho chị Phượng rồi. Anh Dương đang làm tài xế tàu bay, cũng ở một đơn vị với anh Hậu, chồng của chị Hằng. Mấy ngày hôm trước, đã tụ họp ở nhà chị Hằng. Chị Hằng hứa là chiều nay tới chơi, sẽ ngủ lại ở đây để nói chuyện với chị Phượng về anh Dương. Chiều nay, chị Phượng ở nhà, đừng có đi đâu cả. Chị Hằng dặn như thế…
Cả một câu chuyện ngày xưa, hiện ra trước mắt Phượng. Hình ảnh của Dương hiện ra lừng lững, nụ cười ngạo nghễ nhưng rất trẻ thơ, mái tóc buông xõa xuống trán, đôi mắt tinh nghịch nhưng hơi dữ. Dương là một loại con trai bất cần đời, chẳng coi việc gì là quan trọng. Ngày di cư sống nơi nhà hát Tây ấy, Dương là người của tất cả mọi gia đình. Ai mời ăn cơm cũng ngồi xuống, ăn uống rất kỹ, rất tận tình. Một lần Phượng hỏi Dương:
– Gia đình của anh đâu?…
Dương thản nhiên trả lời:
– Ở ngoài Bắc…
– Thế anh vào đây một mình?
– Ừ, chỉ có một mình. Tôi xuống Hải Phòng chơi với một thằng bạn. Rồi thấy thiên hạ kéo nhau lên tàu, tôi cũng lên theo. Đến lúc hỏi, mới biết té ra là mình di cư. Đi làm một chuyến chơi xa như thế này, cũng vui.
Nghe Vinh nói đến tên Dương, Phượng thấy choáng váng cả người. Tim tự nhiên đập mau hơn. Lúc cầm đôi đũa để gắp từng con cá, Phượng mới nhận thấy tay mình run run. Chuyện yêu đương đã qua đi lâu quá rồi, mà sao lần nầy nhắc lại, vẫn thấy xốn xang trong lòng. Tình yêu thuở mười bäy mãnh liệt đến như thế đó.
Mới đầu, Phượng chỉ tưởng rằng Dương là một anh chàng vô gia cư sống bê bối như tất cả những anh chàng con trai mà mỗi chiều tập xe đạp, Phượng vẫn thấy đứng ở vỉa hè, đối diện với một nhà hàng lớn, thấy gái đi qua là chọc. Mãi về sau, Phượng mới biết Dương là một sinh viên, đi dậy học ở một trường Trung học tư thục lớn.
Số tiền mà Dương kiếm được không nhiều lắm, nhưng cũng đủ để cho Dương sống một mình thật huy hoàng. Nhưng đã nói, đối với Dương, chẳng có gì là quan trọng. Chàng thường than với Phượng về nghề dạy học:
– Cái nghề này chỉ hợp với đàn bà, con gái. Là đàn ông, làm cái nghề dạy học, không hiểu sao cứ thấy yếu xìu. Nhất là không được sống đúng theo ý mình. Thấy một món ăn ngon bày bán ngoài chợ, nếu ngồi được ngay xuống đó mà ăn thì thú vị biết mấy. Nhưng khi đã làm cái nghề nầy, phải giữ gìn. Ngồi xuống đó ăn thì khoái khẩu, nhưng lại lo ngại học trò. Nếu gặp học trò con gái, thì mất hương vị đi nhiều lắm.
Hình như dưới mắt Phượng, thì Dương chỉ coi có một việc quan trọng nhất là ăn. Khi nào thấy Dương vui vẻ, cười luôn miệng, lâu lâu lại còn đi một đường ca hát, thì thế nào Phượng cũng hỏi:
– Anh Dương chắc là lại khám phá ra một chỗ nào ăn ngon rồi…
Được người hỏi như vậy thì Dương sẽ tâm sự hết mình. Kể cả những câu chuyện nhỏ nhất như buổi đầu tiên đi ăn mì của Dương. Ngày mới vào đây, Dương tới một tiệm mì, kêu một tô mì, được một chú Ba tới hỏi:
– Ông ăn mấy “dắc”?.
Vì chưa quen với tiếng địa phương, nên Dương tưởng “dắc” là tiếng tây được đọc khác đi một chút, ở chữ một đồng bạc, nên Dương thản nhiên:
– Cho năm “dắc” đi…!
Chú Ba ngạc nhiên nhìn Dương tưởng rằng tên này là một anh mới nhịn đói vài ba ngày ở đâu mới mò về. Chú chẳng cần hỏi lại, vì chiều khách vẫn là nghề của chú Ba. Chú bình tĩnh gọi vào nhà bếp:
– Một tô mì năm ” dắc ”!…
Chú nhấn mạnh con số năm. Lát sau, chú đem ra một tô mì khổng lồ mà Dương tưởng rằng phải mấy người ăn mới hết. Hôm đó, không muốn tỏ lộ cái nhà quê của mình, Dương đã hì hục đớp hết một tô mì năm “dắc” để rồi no cả ngày.
Khi nào Dương có tiền, thường rủ cả bọn, bất kể là đàn ông, con trai, con gái hay con nít, đi ăn một bữa. Có những kẻ hẹp hòi thì cho rằng Dương định trả nợ những bữa cơm ăn ở nhà họ. Nhưng thật ra thì Dương không nghĩ như thế bao giờ. Dương chỉ nghĩ rằng, ăn uống càng đông thì càng vui, nhất là giữa những người bạn đã chia xẻ với nhau những ngày say sóng trên con tàu lênh đênh ngoài biển cả, đi về một phương trời xa lạ.
Tình yêu giữa Phượng và Dương tới lúc nào, Phượng cùng chẳng nhớ rõ được thời gian. Chỉ biết một ngày đi ăn, chỉ có Phượng và Dương, rồi chẳng cần tỏ tình họ ôm lấy nhau thật chặt, bỡ ngỡ hôn nhau, trên băng sau một chiếc tắc-xi dập dình lắc lư, chòng chành như con thuyền tình ái. Cái hôn đầu tiên của đời Phượng đấy!…
Buổi tối hôm đó, trời mưa ào ạt. Bầu trời mù mịt, giăng mây xám, và những cây nước từ trên trời cao đổ xuống, đập vào mái tôn, lên mặt đường, lên nóc mui xe, một thứ âm thanh hỗn độn, chập chùng. Phượng và Dương, hai đứa chỉ có một chiếc áo mưa, đứng nơi hàng hiên, cố tránh những hạt mưa làm ướt lạnh người.
Dương đưa hai ngón tay lên miệng, thổi lên một tiếng còi, vẩy được một chiếc xe tắc-xi. Hai đứa đội mưa, khoác chung nhau một chiếc áo chạy ra xe. Cửa xe mở ra, đóng lại thật vội vã. Chiếc xe lăn trên đường ướt át, đầy những vì sao vỡ tung, và phản chiếu ánh đèn đường mờ ảo. Nhìn xuống dưới nệm xe, hai bàn tay vẫn còn nắm lấy nhau, chưa kịp buông ra…
Trong cái bóng tối mờ mờ, Phượng nhìn thấy đôi mắt Dương sáng long lanh, Phượng cảm thấy như đôi mắt dã thú nhìn người thợ săn mà Phượng được đọc trong những chuyện tả về đường rừng. Rồi như có một tiếng mời gọi văng vẳng vọng lại từ xa xôi, dục dã hai kẻ tìm đến nhau. Động tác tới với hai người cùng một lúc. Hai bàn tay nắm lấy nhau thật chặt, và họ dính với nhau bằng một cử chỉ thật mạnh bạo.
Hai cái mặt đã kề sát gần nhau. Hai ánh mắt bây giờ thật mênh mông sâu thẳm. Cơn mưa lạnh ngoài trời như không còn đủ lạnh để thấm vào người Phượng. Tóc Phượng phủ xòa xuống mặt, và Dương để làn môi của mình phiêu lưu trên từng thớ thịt, từ đôi môi, đôi mắt, ngậm từng sợi tóc. Phượng nhìn qua vai Dương chỉ thấy ánh đèn đường loang loáng, và từng cụm lá me ướt át, buông rủ lướt thướt.
Bàn tay của Phượng bấu chặt lấy lưng Dương, và nghe thấy cả tiếng đập của tim mình. Phượng lại nhắm mắt, mà tưởng rằng trong cái xe ngột ngạt mùi xăng ấy, có nhiều hương thơm của vườn hoa tình ái.
Tiếng hỏi của ông tài xế tắc-xi làm Phượng và Dương choàng tỉnh:
– Cô cậu về đâu?
Dương thở một hơi dài:
– Cho tôi về đường Ca-ti-na.
Rồi Dương thò tay lên túi áo ngực:
– Em làm nát hết gói thuốc của anh rồi…
Chàng lấy ra một điếu thuốc cong queo, vuốt cho thẳng lại, bịt ngọn lửa đốt thuốc. Trong ánh lửa yếu ót vừa bùng lên ấy, Phượng nhìn thấy khuôn mặt Dương như rạng rỡ hẳn lên.
Khi ánh lửa tắt lịm, Phượng thấy mùi thuốc lá ngai ngái luồn vào da thịt, tẩm vào từng mảng tóc, làm Plurợng ngây ngất cơn say. Từ đó về đến nhà, hai người không nói với nhau một lời nào, và từ hôm đó, họ yêu nhau.
o O o
Nồi cá kho sùi bọt, trào ra ngoài, chảy xuống, đụng vào lửa, thành tiếng kêu sèo sèo. Phượng như vừa thoát khỏi cơn mơ êm dịu.
Những âm thanh ấy, như điếu thuốc hút đến hơi cuối, được Dương ném vào vũng nước.
Cửa ở nhà trên vừa được mở ra. Chắc Loan cũng đã về, nhưng hình như theo sau Loan còn những bước chân khác nữa. Phượng chưa kịp hỏi, thì đã thấy Hằng hiện ra từ khung cửa trông xuống nhà bếp. Yến vừa thấy Hằng đã la lên:
– Ồ kìa, cái con trời đánh! Mầy hẹn đến chiều, mà sao bây giờ đã vác mặt tới.
Hằng là bạn của cả ba chị em Yến, Loan và Phượng, vì Hằng ở vào cái tuổi khoảng giữa. Hơn Loan một tuổi, hơn Phượng bốn tuổi và kém Yến hai tuổi. Bởi vậy, Hằng xưng mầy, tao với tất cả ba chị cm.
– Tao cũng định buổi chiều tới chơi với tụi mầy. Nhưng sau khi gặp chú Vinh, tình cờ tao gặp con Loan. Nó nói rằng, buổi chiều mày tới chơi thì ít khi gặp chúng mầy lắm, nên tao bèn theo nó về nhà. Lâu lâu, không gặp chúng mầy, tao chớ chúng mầy quá…
Gặp được bạn cũ, Hằng ríu rít nói chuyện luôn miệng. Bây giờ thì cái trại gia binh đầy bóng cây cao su cổ thụ, đầy những lũ trẻ hỗn và bẩn, đã lùi xa trong trí của Hằng, thằng bé thì được Vinh bồng đi chơi. Vì là con út, không có em nên Vinh rất khoái con nít. Mà thằng nhỏ, không hiểu sao cũng thích Vinh, được Vinh bồng đi chơi mà không có môt chút phản đối. Phượng để ngọn lửa thật nhỏ, giữ cho nồi cá kho còn nóng, rồi bảo Hằng:
– Lên nhà chơi đi mầy…
Hằng từ chối:
– Tao ở dưới này làm bếp cho vui. Lát nữa tao ăn cơm mà không giúp được việc gì, ngồi ăn cứ áy náy, mất ngon…
Phượng cười tươi:
– Hôm nay là phận sự của bà Yến. Số của bà ấy thật đỏ. Tao đã làm giúp, bây giờ lại thêm có mày. Nhưng mọi chuyện đã… an bài cả rồi, chỉ còn có việc ngồi đợi cho cơm chín.
Yến trở lại giọng mát mẻ:
– Làm giúp có một chút mà khoe hơi nhiều đấy nhé. Thôi thì mời các cô lên hết trên nhà, để dưới bếp này một mình tôi…
Tính của Yến vẫn khó chịu nhất nhà. Mẹ đã nhiều lần mắng Yến mà Yến vẫn chịu, không bỏ được cái tính ưa nói mát mẻ, như một bà cô già.
Loan từ trên lầu đi xuống, tay vừa cài mấy hàng khuy áo trên ngực, vừa hỏi:
– Hôm nay mẹ không ăn cơm nhà sao chị Yến? Không có mẹ ở nhà thì chị Yến cho ăn bánh mì cũng được rồi.
Loan và Phượng rất đồng ý ở mục ăn bánh mì. Phượng thì lười làm bếp, còn Loan thì lười rửa bát, đĩa, chùi nồi. Ai cũng chỉ rnuốn được nghỉ ngơi. Nếu không vì những người trong gia đình thì Loan và Phượng có thể ăn bánh mì thay cho cơm hàng tháng cũng được.
Bữa cơm qưa thật vui vẻ vì có Hằng. Chẳng bù với những bữa cơm khác, chỉ có một mình chú Vinh nói chuyện. Vinh thì nhiều chuyện để nói lắm. Chuyện ở trường, chuyện ở ngoài đường, chuyện về những cô con gái học cùng lớp. Nhưng hôm nay xướng ngôn viên của đài phát thanh là Hằng, vì xa vắng bao lâu rồi có nhiều chuyện phải nói. Nhìn thằng bé bò lê dưới sàn gạch đá hoa, Phượng hỏi Hằng:
– Đi đâu mầy cũng mang con đi à? Không mang con đi có phải khoái hơn không?…
Hằng cười buồn:
– Nhưng để ở nhà thì ai coi sóc nó?… Bố nó thì đi làm cả ngày, mà có trông con thì chỉ chừng mười lăm phút là nổi giận tưng bừng. Hàng xóm lại phải điếc tai vì tiếng la hét với tiếng khóc. Tao đã để thử con ở nhà một ngày nhưng rồi lúc về, nghe “ráp-bo” của hàng xóm, thật khổ hết chỗ nói.
– Mầy không có người làm?
– Sức mấy mà có tiền mượn người làm…
Hằng nói chuyện và trong khi nói chuyện, thêm rất nhiều ngôn ngữ của lính tàu bay, làm cho Yến, Loan và Phượng mất đến vài giây phút ngẩn ngơ, nhưng vẫn thích thú như thường. Hằng tuy than phiền về cái tính gàn dở của chồng, nhưng nhìn ánh mắt âu yếm mỗi lần nhắc đến tên Hậu, Phượng biết rằng Hằng rất yêu chồng.
Phượng nôn nóng chờ Hằng nói chuyện về Dương. Chẳng lẽ lại mang ra hỏi trước. Ánh nắng đã nghiêng chênh chếch, chiếu qua khung cửa sổ, bò dần vào trong nhà. Chiếc sân hẹp nầy chỉ cho một tí nắng vào buổi xế trưa. Hằng bắt đầu nói chuyện về Dương:
– Phượng còn yêu Dương không?…
Phượng cười:
– Yêu chứ! Yêu bỏ mẹ đi! Mày nói với chú Vinh rằng nói chuyện về Dương, làm tao choáng váng cả người.
Hằng nghiêm hẳn mặt lại:
– Tao nói chuyện đứng đắn, thì mày cũng chẳng nên đùa cợt. Nếu mà hai người còn yêu nhau, tao sẽ đóng vai bà mai, làm một phát giảng hòa. Nhưng ngày xưa sao hai đứa lại bỏ nhau?…
Nhìn bộ mặt nghiêm nghị của Hằng, Phượng buồn cười quá. Nhưng chợt nghe Hằng hỏi tới lý do của sự xa nhau, thì khuôn mặt Phượng bỗng tối hẳn lại. Phượng nhớ câu thơ Xuân Diệu “Tình vêu tới tình yêu đi ai biết? Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt… ” Một cuộc giận dỗi giả vờ tự dưng biến thành giận dỗi thật, rồi một kẻ một đường…
Vinh hằn học ;
– Em không hiểu sao chị Phượng lại bỏ anh Dương?… Với em anh Dương là nhất rồi. Em chẳng thấy một người bạn trai nào của chị Phượng ra hồn cả…
Phượng quát lên:
– Thằng chó, im ngay! Chỗ đàn bà con gái người ta nói chuyện, mày là con trai mà cũng leo vào. Ai cho phép mày phê bình bạn tao.
Vinh hậm hực bỏ chén cơm xuống. Chuyện của Phượng và Dương vẫn hấp dẫn Vinh. Phượng nói với Hằng:
– Ngày đó con Diệu đi hát ở đăng-xinh, phòng trà. Tao theo nó đi cho có bạn. Nó cứ rủ tao đi, nói rằng lúc hát xong về khuya một mình, buồn lắm.
Tao đi theo nó, một phần vì thương nó, một phần thì thích cái không khí mờ ảo của đăng-xinh phòng trà. Mẹ tao cũng mắng nhiều lần, nhưng con Diệu đến tận nhà xin phép. Cứ ngồi dài người ra chờ nó, cũng buồn, nên gặp người quen, tao cũng ra nhảy một vài bản cho qua thời giờ.
Dương gặp tao trong lúc đang nhảy nhót tưng bừng. Anh chàng không hỏi gì tao, nói gì với tao, chỉ ngồi ở một góc tối, uống rượu liên miên.Tao thì vì tự ái, cũng chẳng muốn giải thích. Với lại, ngày đó tao còn con nít quá, cứ tưởng rằng, ngày mai gặp lại nhau, cười với nhau là hòa cả làng. Ai ngờ…
Phải rồi, những chuyện xảy ra ở trên đời, nào ai có thể ngờ. Nói đến câu nầy, Phượng nghẹn ngào. Ô kia, Phượng khóc đấy à?… Một người con gái nghịch ngợm láu lỉnh như Phượng mà cũng khóc sao?… Thì ra người con gái nào cũng vậy, khi đụng chạm với tình ái cũng chỉ vẫn là một người con gái, dù người con gái ấy là Phượng, đứa con gái mà mẹ thường mắng “chỉ thiếu có cái đó thôi là thành con trai”.
Cái vui cười, đùa rỡn chỉ là bề ngoài, còn con tim đang đập trong bộ ngực xinh xắn kia, cũng có những sợi tơ mong manh, chỉ khẽ đụng là bật lên những tiếng tơ chùng. Hằng hỏi:
– Hình như có một thời, mày tàn phá cuộc đời ghê gớm lắm? Có một thời, tao đã nghe nổi tiếng Phượng đuôi ngựa.
– Tại Dương cả… Có một thời kỳ, tao la cà khắp các quán rượu, khắp các “bum” với mục đích là gặp mặt Dương. Nhưng không gặp đâu cả. Người con gái có lẽ chỉ yêu được có một lần. Những đứa con trai đến với tao sau này có đứa làm tao khinh bỉ. Rất may là cái thời kỳ lang thang ấy không kéo dài. Chỉ có sáu tháng, rồi tao giật mình nhìn lại quá khứ, rồi sau một đêm không ngủ, tao quyết trở lại cuộc sống cũ. Thắc mắc rất lớn trong tao là không biết Dươg đã đi đâu, mà vắng mặt quá lâu ở Sàigòn.
– À, theo như Dương kể thì lúc đó Dương đi lính, học lái tàu bay ở bên Tây.
Phượng thở dài:
– Thì ra thế!….
Về cuối bữa cơm, không khí như trầm hẳn lại. Chuyến tàu xế trưa lại xình xịch chạy qua, rồi văng vẳng đâu đây có tiếng gà gáy.
Vùng Phú Nhuận nầy là ranh giới của hai vùng thành phố và thôn quê. Những buổi trưa mùa hè, nhiều khi Phượng nghe thấy cả sự êm ả của tiếng gió rì rào luồn vào lùm cây, và lạc lõng bay chập chờn ngoài khung cửa sổ, một cánh bướm vàng hoe. Từ chiếc giường của Phượng nhìn thấy nóc chuông nhà thờ. Nơi đây đã gần như trở thành một xóm đạo, với tiếng cầu kinh rì rầm mỗi buổi chiều.
Tiếng của Loan cắt đứt câu chuyện:
– Các bà đã ăn xong chưa để tôi còn làm phận sự? Chiều nay, tôi còn mấy giờ học nữa đấy.
Hằng vui vẻ:
– Thôi, để tao làm cho. Mày cứ đi nghỉ, lấy sức đến chiều còn đi học.
Yến và Vinh nhao nhao lên phản đối:
– Không được. Hằng là khách mà!..
Hằng gắt yêu:
– Yêu cầu chúng mày cất dùm tao chữ “khách” đi, nếu như chúng mày muốn lần sau, tao còn tới chơi với chúng mày. Biết được nhà rồi, tao sẽ tới chơi luôn. Chúng mày dùng chữ “khách” có vẻ đuổi tao rồi đấy…
– Nhưng dù sao thì hôm nay cũng là ngày đầu…
– Ngày đầu hay ngày cuối cũng thế!…
Không ai nỡ nhẫn tâm bắt Hằng phải rửa bát đĩa, Loan làm việc dẹp bàn và rửa bát đĩa thật mau. Yến và Vinh đã bỏ lên lầu. Phượng vẫn còn ngồi trầm ngâm trên ghế, và Hằng vẫn còn ngồi bên cạnh Phượng. Mọi buổi trưa, Phượng ngủ rất kỹ, nhưng hôm nay, tự nhiên không thấy buồn ngủ một chút nào. Phượng hỏi Hằng:
– Mầy có hạnh phúc không?…
– Biết thế nào là hạnh phúc? Vì hạnh phúc không phải là một thứ sờ được, nắm được. Chỉ biết rằng, sống thiếu thốn rất nhiều, nhưng vui. Hậu là một người tốt. Nhưng nếu có tiền thêm một chút nữa thì chắc vui hơn.
Nghe Hằng nói, Phượng mới nghĩ tới những chuyện thực tế chua cay. Những người yêu nhau, ít khi để ý đến chuyện tiền, nhưng khi lấy nhau, thì cuộc đời lại đổi khác. Số người khổ sở, nhưng yêu nhau thì chịu đựng vẫn dễ dàng hơn. Hằng nói tiếp:
– Nếu tao biết như thế này thì ngày cưới chẳng làm linh đình làm chi cho tốn tiền, để đến bây giờ phải è cổ ra mà trả nợ. Nhưng ngày đó lại nghĩ khác. Đời người con gái, chỉ có một lần đi lấy chồng. Hậu cũng nói đến chuyện đó, chuyện tổ chức một đám cưới đơn giản, nhung rồi bị “đòn nước mắt” của tao, đành chịu thua. Nếu ngày đó tao thua, thì bây giờ sống sung sướng và đỡ lo nhiều lắm.
Trong chuyện tình ái, nhiều khi sự thua, lại làm cho con người thoải mái hơn. Chỉ có ở mặt trận tình yêu, là không thể bàn được chuyện thắng hay bại, vì thắng hay bại cũng chẳng vinh dự gì.
Không hiểu Hằng nói đến chuyện thua và thắng với Phượng để làm gì? Chắc có lẽ Hằng muốn khuyên Phượng nên thua, nên dẹp tự ái lại. Với những người yêu nhau, tự ái chẳng giúp được gì, nhiều khi chỉ đưa tới sự chóng tan vỡ.
Trong phòng, hai người ngồi yên lặng, để chợt nghe hai tiếng chuông đổ ngân rè của chiếc đồng hồ treo tường. Đã hai giờ trưa…
Phượng hỏi:
– Hằng có cần ngủ trưa không?…
Hằng đưa mắt quanh phòng kiếm đứa con nhỏ nhưng đứa con nhỏ đã được Loan hay Yến đưa lên gác, dỗ cho ngủ rồi. Trong một giây phút cảm động đến rưng rưng, Hằng muốn được bế con về đây, sống mãi với bè bạn ngày xưa. Nhưng còn Hậu thì sao? Hai đứa không thể sống thiếu nhau. Trông khuôn mặt khắc khổ của Hậu, nhiều khi Hằng cũng ái ngại, nếu bỏ đi chơi tới mấy ngày không về nhà.
Được hàng xóm cho biết là những ngày Hằng đi vắng, tối nào Hậu cũng uống say. Hằng cũng trách Hậu chuyện đó, nhưng Hậu nói rằng không uống say thì không ngủ được. Nhớ đến câu chuyện Phượng vừa hỏi, Hằng trả lời:
– Có bao giờ tao ngủ trưa đâu? Ngồi đây một lát, nói chuyện với mày cho đỡ nhớ.
Tuy Hằng nói là ngồi đây để nói chuyện, nhưng cả hai đều nghĩ tới Dương. Hằng hỏi tiếp:
– Tại sao ngày đó mày không viết thư cho Dương?,..<