Chương IV
Những buổi sáng không phải đi bay, chàng phi công tên An, thường đứng phất phơ ở cửa Phòng Hành-quân, như chờ đợi một ai. Thì chính là chàng đang chờ đợi một lá thư của người yêu.
Thấy người Trung sĩ Bưu tín viên từ đàng xa đi tới, An thấy hồi hộp lạ. Chàng giơ nắm tay ngang đầu, đưa lên đưa xuống, như làm động lệnh, dục dã của cơ bản thao diễn, hối thúc người bưu tín viên đi mau.
Nhưng tiếc rằng, nơi nầy không phải là quân trường. Người bưu tín viên vẫn tà tà, chậm rãi, bước từng bước một, rất khoan thai, rất từ tốn. Nhiều khi, như muốn chọc tức An, người bưu tín viên còn làm ra cái điều ngắm trời, ngắm mây, ngắm cả cái ống gió hãy còn rủ ướt sương đêm, ngắm ngôi lầu gương của Đài Kiểm Soát sừng sững nổi bật giữa phi trường.
Lúc đó thì An thật khổ sở, nhưng không thể làm gì được. Nổi giận với người Trung sĩ Bưu tín viên là một điều tối kỵ. Hắn chỉ cần vài ba ngày không tới, là cũng làm cho An phải khắc khoải, chờ đợi trong cả mấy ngày ấy.
Khi người Trung sĩ bước chân lên bực thềm, An sửa lại bộ mặt, cố lấy giọng tươi cười:
– Chân của cụ đi mà cứ như đếm bước thời gian…
Người Trung sĩ Bưu tín viên cũng cười nháy mắt:
– Già rồi mà, Thiếu úy! Thấy ông có vẻ sốt ruột chờ thư, nhưng đôi chân già không cho phép chạy nhanh. Bước chỉ cần mau một chút là đầu gối văng ra ngoài ngay. Nhưng mà Thiếu úy đọc thư chậm vài phút, hay sớm vài phút thì đã có sao?
Nói chuyện với anh chàng này hơi bực mình đấy…An tự nhủ thầm như vậy, và định bụng rằng sáng ngày mai thấy anh chàng từ đàng xa, không thèm tỏ ra nôn nóng nữa. Nhưng rồi sáng hôm sau cảnh chờ đợi vẫn cứ diễn ra đúng như ngày hôm nay. Sáng nay, An cũng chờ một lá thư. Thư người yêu của An, viết rất đều đặn. Không hiểu sao mà họ nhiều chữ nghĩa đến thế. Ngày nào cũng viết thư, mà viết rất dài.
Những người bạn của An cứ lẩn thẩn nghĩ rằng nếu lấy hết tất cả những lá thư tình của cặp tình nhân này, mang in thành sách, thì cuốn sách ấy phải dầy bằng cuốn tự điển. Ở trong phòng, An có một va-li thật đẹp để giữ tất cả những lá thư. An đánh dấu từng ngày, từng tuần, từng tháng, vì vậy tập thư của An có giá trị như một tập nhật ký tình yêu.
Người Trung sĩ Bưu Tín viên vẫn có một dáng điệu quen thuộc như mọi ngày. Vừa thấy anh ta cầm xấp thư bỏ vào từng hộp thư, An đã hỏi:
– Hôm nay có thư của tôi không?…
– Có là một sự bắt buộc…
Rồi người bưu tín viên thắc mắc:
– Bồ của thiếu úy ở đâu?…
– Ở Sàigòn!…
Người bưu tín viên trợn mắt:
– Ở Sàigòn…? Trời ơi đây tới Sàigòn cách nhau có ba chục cây số, sao không chạy xe về gặp mặt nói chuyện cho đã đời, tội tình gì mà mất thì giờ viết thư cho tốn sức lao động…?
– Thì vẫn gặp nhau luôn.
– Vậy còn viết thư làm chi?
Nhưng rồi người Trung sĩ cười lên hô hố:
– À, tôi hiểu rồi! Gặp nhau thì đâu có nói chuyện. Nói chuyện bằng tay chắc nhiều hơn.
An nổi giận:
– Đừng có bậy bạ! Tôi mà không nể ông già, thì tôi đã tặng ông một cú đấm rồi. Nói chuyện là một chuyện khác. Có nhiều chuyện, chỉ có thể viết cho nhau, kể cho nhau nghe ở trong thư. Ông đã hiểu chưa?…
– Tôi…tôi hiểu rồi!…
Người Trung sĩ Bưu tín viên, tuy rằng trả lời là hiểu rồi, mà kỳ thực, anh chàng chẳng hiểu cái con mẹ gì cả. Tuổi trẻ thật nhiều chuyện rắc rối, lẩm cẩm. Anh ta tưởng lại thời mình bằng tuổi An. Đâu có sự viết lách nhung nhăng như thế này. Hình như mình chưa bao giờ nói chữ “yêu” với ai, kể cả cô nàng mà bây giờ thành mụ gái xề, vợ của mình, vô địch về đẻ.
Mặt anh chàng Trung sĩ Bưu tín viên chợt tươi lên, vì anh ta có một tin, cần phải báo cho An biết:
– Thiếu úy à, hôm nay có chuyện lạ lắm.
– Chuyện gì?…
– Trung úy Dương, Trung úy Tâm đều có thư. Mà lại thư của con gái cẩn thận. Thiếu úy thấy như thế có lạ không?…
Vừa nghe người Trung sĩ Bưu tín viên nói tới đó, An ngạc nhiên tới nỗi phải giật mình. Từ ngày đổi về phi đoàn này, thời gian ít ra là cũng ba năm, chưa thấy bao giờ hai cái thằng lạnh lùng này lại nhận được một lá thư. Điều này thì cả làng, cả nước đều biết rồi. Ấy thế mà bây giờ lại có thư cho Tâm, cho Dương, mà lại là của con gái cẩn thận. Thật là một sự vô lý có thật. An cuống quít hỏi lại:
– Có thật không? Đâu, ông đưa cho tôi coi!
Người Trung sĩ Bưu tín viên đưa cho An hai lá thư. Bao thư màu xanh, chữ viết tròn và ngắn, không viết tắt một chữ nào, với kinh nghiệm của An, thì đúng là chữ của con gái rồi, không thể nào giả mạo. Người đề tên gửi cho Dương là Phượng. Còn tên người gửi cho Tâm là Thư Hương. An nói:
– Phượng và Thư Hương, hai cái tên cùng đẹp. Không hiểu hai thằng này xuất hành hồi nào mà tìm được của thơm thế này…
Hai lá thư dù đã qua bao nhiêu chặng đường, không biết đã bao nhiêu bàn tay cầm tới, vẫn thấy thoang thoảng mùi nước hoa đắt tiền. Những mùi, những hương đó, rất quen thuộc với An.
Chàng có thể gọi tên từng loại nước hoa mà người con gái nào đã dùng, khi chỉ thoáng qua. Cái mùi êm dịu nầy, không thể là con gái con nhà rách. Nếu là con gái nhà rách thì mùi của nước hoa gay gắt, nặng mùi phàm tục.
An hỏi người Bưu tín viên:
– Tôi có thể mang tới cho chúng nó được không?…
– Không được!…
Người Bưu tín viên lắc đầu. Đó là một luật lệ. Không ai được nhận thư hộ ai, vì đã xảy ra nhiều cảnh cười đau khóc hận. Những anh chàng lính tàu bay thường có hàng triệu máu tếu ở trong người. Thấy thư của con gái, gửi cho bạn mình, anh chàng sẽ dùng bàn tay khéo léo của “diệu thủ thư sinh” bóc ra coi lén. Rồi lại dán lại y nguyên như cũ.
Những câu nói, những lời viết trong thư, giữa những cặp tình nhân, thường là lẩm cẩm và ngớ ngẩn. Những anh chàng ấy sẽ trở thành phê bình gia, phê bình văn chương một cách rất ồn ào, rất kỹ lưỡng thảo luận hết về nghĩa đen, nghĩa bóng. Nhiều khi, những lời phê bình ấy, pha chất tục tĩu, và kết quả xảy ra có khi rất đáng tiếc.
Bởi vậy đã có một luật lệ khi bắt đầu làm ra những hộc đựng thư nầy, là khuyến cáo thiên hạ nên mua một cái khóa, và không ai được nhận thư cho người khác. Nhưng vẫn bị những kẻ tinh nghịch lấy que khều ra đọc trộm được như thường.
An phẫn nộ:
– Hộp thư của chúng nó không có khoá. Ông để trong đó thì cũng như không.
Người Bưu tín viên bình thản:
– Nhưng luật lệ đã đặt ra, không thể nào làm trái luật. Thiếu úy có thể báo cho Trung úy Tâm, Trung úy Dương biết để hai ông đó tới nhận thư. Còn Thiếu úy cầm dùm thì quả thực tôi không dám đưa.
Anh chàng phi công tên An, hậm hực quay đi. Mọi khi, chàng được thư người yêu, là mở ra đọc ngấu nghiến, đọc như nhai, như nuốt từng giòng chữ. Nhưng hôm nay, vì hai lá thư của hai thằng Dương và Tâm đã làm cho An ngẩn ngơ. Hai cái thằng lạnh lùng với đàn bà, như hai tảng nước đá, vẫn thằng chế diễu chàng mỗi khi chàng nôn nóng như gà mắc đẻ vì chậm thư, ấy thế mà cũng có thư của đàn bà, con gái gửi tới. Mà lại là con gái thơm như hai cái tên Phượng và Thư Hương, thì cũng lạ.
An lừng khừng đi về phía phòng nghỉ của nhân viên phi hành. Đó là một gian phòng được đặt trên bốn bánh xe, có đầy đủ tiện nghi, một căn nhà lưu động thường thấy ở bên Mỹ. Nắng ở bên ngoài phi đạo đã bắt đầu chói chang. Những giọt sương khuya đã biến đi để lại ở đây chỉ còn nắng và gió. Chàng đẩy cửa bước vào. Hoi lạnh làm mát dịu hẳn.
Dương và Tâm đang nằm dài, đọc truyện kiếm kiệp. Tiếng âm nhạc ở đầu phòng vẳng lên nhè nhẹ. Nơi bàn viết, có vài thằng đang đi những đường xe pháo thật quyết liệt. Bàn cờ có vẻ tới hồi gây cấn, nên mấy kẻ đứng ngoài, im thin thít, không dám mách nước. An ghé nằm xuống một cái giường bên cạnh Dương:
– Mầy có quen cô nào tên là Phượng không?…
Dương bỏ quyển tiểu thuyết xuống, nhìn An:
– Có! Nhưng có chuyện gì vậy?
An không trả lời Dương lại hỏi Tâm:
– Còn mầy có quen ai tên là Thư Hương hay không?
Khi nghe An hỏi đến tên Thư Hương thì phản ứng của Tâm dữ dội hơn Dương nhiều. Thư Hương là em gái Tâm.
Chuyện gia đình của Tâm, thì Tâm đã kín miệng không kể cho ai nghe hết, cả người bạn thân nhất là Dương. Đến bây giờ lại có kẻ hỏi tới đứa em gái của chàng. Tâm ngồi bật dậy mặt lộ vẻ hốt hoảng:
– An, mầy nói gì?….Tại sao mầy biết Thư Hương là em gái tao?…
– Tao đâu biết cô Thư Hương là em gái mầy. Tao chỉ hỏi mầy có quen biết người con gái nào tên là Thư Hương hay không mà. Nghe mầy hỏi lại, tao mới biết. Chẳng có chuyện gì đâu. Mày với thằng Dương, hai đứa có thư. Thư của thằng Dương thì nàng Phượng gửi tới, còn thư của mầy, thì thấy đề ngoài bao thư là cô Thư Hương.
Tâm thở dài một tiếng, lại nằm xuống giường. Lần này, chàng không đọc nổi thêm một giòng chữ nào trên trang tiểu thuyết kiếm hiệp, dù đã tới hồi gây cấn, tả mối tình rất đẹp của Quang Minh Tả sứ Dương Tiêu, một nhân vật quan trọng của Ma giáo, với một nữ đệ tử của danh môn chính phái là Kỷ Hiểu Phù.
“Nghe tin nàng đã chết, Dương Tiêu ngửa mặt lên trời hú một tiếng đau thương. Lá cây rừng thi nhau rơi rụng lả chả chốc lát phủ đầy mặt đất.” Truyện kiếm hiệp mà tả đến như thế thì tuyệt, không còn chất bi thảm nào hơn thế nữa. Nhưng Tâm không đọc nổi, vì chàng tự nhiên thấy nhớ tới gia đình.
Không biết con bé viết gì trong thư? Tâm tự hỏi như vậy. Thì cứ ra ngoài hộp thư, cầm lấy, xé toạc ra, đọc hết lá thư, thì hiểu ngay chứ còn gì nữa. Nhưng chàng cứ nằm đó, trong đầu óc liên miên suy nghĩ. Tại sao mà con bé lại biết được địa chỉ phi đoàn của chàng? Ở nhà, không biết đã xảy ra chuyện gì?…
Chàng không phải là một kẻ bất hiếu, quên công ơn cha mẹ. Ở nhà, cha mẹ của chàng cũng chẳng ghét bỏ gì chàng, mà trái lại nữa là đằng khác. Chàng bỏ nhà ra đi, không muốn về nhà, cũng chỉ vì được cưng chiều quá. Chàng muốn đi vắng vài ba năm, không cho gia đình biết tin tức, để cho sự vắng mặt của chàng được coi là đã quen thuộc với gia đình, rồi mới trở về, xin lỗi tất cả. Chàng nhắm mắt lại, nghĩ lại những ngày xưa.
Lúc đã lớn tồng ngồng rồi mà khi tắm, vẫn bị mẹ ngồi bên cạnh kiểm soát, vì bà mẹ chàng cho rằng, chàng mà tắm thì thế nào cũng còn bỏ sót lại bọt xà-bông ở đằng sau tai. Chàng đã phải năn nỉ, van lạy mẹ nhiều lần, để chàng được sống như những đứa con trai thường, một đứa con trai sắp biến thể, để trở thành một người đàn ông.
Lúc chàng đau ốm, mẹ chàng cuống quít hẳn lên. Bố chàng thì dù trời mưa, cũng xách ô đi bộ tới nhà một ông bác sĩ là bạn của bố, mời tới nhà cho bằng được, để coi bệnh cho chàng, dù rằng cái bệnh ấy chỉ là một hứ cảm mạo xoàng. Sống ở gia đình chàng có cảm tưởng như người mình được chế tạo bằng pha lê, dễ vỡ, không dám đụng chạm mạnh.
Bởi vậy chàng đã quyết định đi xa nhà một thời gian, chọn một nghề thật nguy hiểm, để coi xem mình có còn là một đứa con trai, một thằng đàn ông hay không.
Ở giường bên cạnh, Dương đột nhiên la lên:
– Vô lý!…
Tâm giật mình:
– Mày nói cái gì vô lý?…Đọc truyện kiếm hiệp mà cứ muốn thấy sự có lý trong đó, thì một là mầy nhà quê, hai là mầy “tốc”.
Dương nhăn mặt:
– Tao nói vô lý là chuyện khác. Vô lý là ở cái lá thư của Phượng. Tại sao gần năm năm nay rồi, tự nhiên lại “phang” cho tao một lá thư thế này. Tao nghi thằng An quá.
Dương nghi như vậy vì nghĩ tới tính tinh nghịch của lũ bạn bè. Chúng nó dò la được chuyện tình của chàng và Phượng, dám làm giả mạo một lá thư lắm. Đã nhiều lần, chúng nó dùng đáy mấy lọ thuốc “pê-ni-ci-lin” bôi dầu xe rồi in nhòe nhoẹt lên bao thư, là giả con dấu nhà bưu điện, để đóng lên bao thư giả mạo. Thằng nhận thư tưởng thật, hí hửng bóc ra coi.
Trong thư cũng có những lời âu yếm, và một nơi hẹn nào đó, vào đúng một ngày nghỉ. Được một em gái hẹn hò, tất nhiên kẻ kia không thể bỏ lỡ một cơ hội bằng vàng. Mặc một bộ đồ thật đẹp, phóng xe như bay tới nơi hẹn trước cả nửa giờ rồi bồn chồn ngồi đợi. Em gái chẳng bao giờ tới, vì có hẹn gì với anh đâu. Chỉ có một lũ bạn bè quỷ sứ, đang nấp kín một chỗ, theo dõi một màn độc diễn rất hào hứng và lý thú.
Đợi cho tới khi người phải chờ đợi đã hành hạ cái đồng hồ hơi kỹ, cả bọn mới cười ồ lên, kéo ra, nói cho tên kia biết là nên đi về, vì đây chỉ là một sự đùa dai. Một màn chửi bới được biểu diễn rất kịch liệt, nhiều khi đưa tới sự đấm đá, nhưng rồi cũng huề cả làng. Lũ bạn bè đã từng sống chết với nhau, sống với nhau những ngày nhiều tiền và những ngày đói rách, không thể nào giận nhau được lâu.
Chính Dương cũng đã là thủ phạm của nhiều vụ đùa dai được mệnh danh là “cá tháng tư”. Bởi vậy nên lần nầy, thấy An báo tin mình có một lá thư, người gửi đề ngoài bao thư là Phượng, thì Dương bắt buộc có một tí nghi ngờ. Nhưng còn lá thư của Tâm?….Em gái Tâm, cô nàng Thư Hương, ngay đến cả Dương là người bạn thân nhất, cũng còn không biết, thì cái thằng An thi sĩ làm sao biết được.
Nhất định là Tâm có thư gửi tới từ gia đình. Dương vừa ngồi dậy thì Tâm nói:
– Có ra lấy thư thì lấy hộ tao luôn. Cái thằng An thật tệ. Thấy thư của chúng mình, nó cũng không thèm lấy giúp. Mầy mang hai lá thư mà nặng lắm sao An?…
An cãi:
– Tao cũng đã năn nỉ với lão già phát thư để cầm hộ chúng mầy. Nhưng lão nói tới luật lệ, làm tao chịu thua. Tao có thiện chí, tới bảo cho mà biết, còn trách nỗi gì.
Dương để mặc hai thằng lời qua tiếng lại, mở cửa chiếc “trailer” đi ra ngoài. Hơi nóng phả mạnh vào mặt.
Căn phòng kín, chỉ có tiếng máy lạnh chạy rì rầm, tiếng nhạc êm nhẹ, tiếng nói chuyện vui vẻ, chợt bị những âm thanh sinh hoạt ồn ào của phi trường ùa vào. Phía “hăng-ga” của Công xưởng, tiếng máy khoan và máy cưa, rít lên từng hồi dài chói tai. Một chiếc phi cơ đang thử máy ngoài sân đậu, quay những vòng cánh quạt thật mau, tạo nên tiếng ầm ỹ động cơ.
Sinh hoạt của phi trường thì ngày nào cũng thế. Chàng bước lên bực thềm hè của Phòng Hành Quân. Hai chiếc hộp thư, đề tên chàng và Tâm vẫn bỏ ngỏ, trong đó nằm trơ trẽn lá thư của Phượng và Thư Hương. Không biết Phượng viết gì đây?…Chàng run run cầm lá thứ, vụng về bóc ra xem.
Chất keo của bao thư không chắc lắm, nên chàng bóc ra thật dễ. Chàng mỉm cười, nghĩ tới lúc Phượng thè lưỡi liếm lên chất keo nầy, rồi dán chặt lại. “Nàng đã dùng nước miếng của nàng để đóng kín tâm sự của nàng. Nào thử đọc coi nàng tâm sự gì đây. Rõ thật là rắc rối”.
Một chiếc phi cơ di chuyển qua, anh chàng phi công ngồi trên đó, thấy Dương đang đứng đọc thư, dở trò tinh nghịch, xoay đuôi lại, tống thêm một tí ga cho gió thổi bụi mù tung, rồi lại di chuyển thẳng theo đường cũ. Bụi cát bay cả vào mắt vào mồm Dương. Lá thư tuột ra khỏi tay bay đi, chàng phải chạy theo lượm lại.
Anh chàng kia quay lại, nhe hàm răng trắng nhởn ra cười. Khuôn mặt đen sạm và chiếc mũ bay màu trắng, lấp loáng dưới ánh mặt trời, đã gần tới đỉnh đầu. Dương nắm tay doạ theo:
– Thằng đểu! Lát nữa bay về, thế nào tao cũng đá đít cho mầy dăm bảy phát.
Chàng đọc tiếp xuống dưới. “Phượng chịu thua anh rồi”. Tại sao em chịu thua anh? Chúng mình có đánh nhau, cãi nhau đâu mà tính đến chuyện được thua. Nhưng dù thế nào chăng nữa thì em chịu thua cũng phải. “Con quan đô đốc, quận công, lấy chồng cũng phải gọi chồng bằng anh”. Em chỉ là em Phượng dù cho có là Phượng ớt hiểm, Phượng đuôi ngựa, Phượng áo đỏ cũng chỉ là một đứa con gái. Công lực chưa tu luyện đủ mức hoả hầu.
Dương mỉm cười, lòng chàng lâng lâng như được một cơn gió mát thổi tới, đưa chàng bay bổng vào trong những đám mây màu xanh biếc. Chàng đã tìm lại được Phượng. Chàng chưa mất Phượng.
Rồi thoáng trong một giây, hình ảnh một đám cưới có lũ bạn bè tinh nghịch, có ông Chỉ Huy Trưởng còn rất trẻ mà cố làm ra vẻ đạo mạo cho hợp với cái nón “cát-kết” hoa lá cành, có cô dâu tên Phượng, có chú rể tên Dương. Cũng có những màn ca hát rất lẩm cẩm, và thế nào cũng có vài ba thằng say sưa, lên máy vi âm kể chuyện tục cho cả làng cười chơi. Chàng nói một mình:
– Chiều nay phải tới cám ơn vợ chồng thằng Hậu mới phải dạo làm người….
Dương biết rằng mối tình của chàng và Phượng được nối lại một cách êm đẹp như thế này, là cũng nhờ Hằng. Người đàn bà đã lấy chồng lính, thường muốn bạn gái thân thiết của mình cũng kết duyên với lính.
Đấy không phải là tính ích kỷ, mà chỉ muốn có chị, có em để chạy tới, chạy lui cho vui. Vợ của Luận, đối với Hằng thì cũng thân thiết đấy, nhưng dù sao cũng chỉ mới quen, quen từ lúc lấy chồng. Phượng thì lại khác. Hơn nữa, việc kết hợp giữa Phượng và Dương đối với Hằng được coi như là một bổn phận. Dương đọc lại lá thư.
Cũng chỉ có ngần đó chữ, không thêm được một chữ nào. Nhưng càng đọc, Dương càng thấy như hiện lên trước mặt khuôn mặt đẹp của Phượng, đôi mắt tròn, đen láy mỗi lúc ngạc nhiên, nụ cười thật sáng, thật tươi. Những ngày đầu gặp Phượng, Dương đã thấy khuôn mặt ấy như quen quá. Nghĩ mãi, mới biết rằng Phượng thật giống Đức Mẹ được dựng trong khắp các nhà thờ.
Thấy lá thư của Tâm còn nằm đó, Dương cầm lấy. Đã được Tâm nhờ lấy thư, nên Dương không còn e ngại ở luật lệ. Dương liếc nhìn tên người gửi và giòng chữ đề ngoài bao thư. Cô Thư Hương nầy, chắc cũng nhiều tính nghệ sĩ. Chữ viết chân phương, đều đặn, có một chút gì bay bướm. Tự nhiên Dương thấy giận Tâm.
Có một gia đình, có một cô em gái mà cũng không thèm về thăm. “Cái thằng kín đáo thật. Gần nó cả mấy năm nay, mà chẳng bao giờ được nghe nó kể chuyện về gia đình. Thằng này thật chúa gan.” Dương chợt buồn, nhớ tới gia đình mình, hiện còn đang ở miền Bắc. Nhiều đêm, Dương đã thức giấc vào quãng nửa đêm ra ngoài đầu hè, ngồi hút thuốc cho tới tận khuya, để nhớ nhà, nhớ người thân.
Những đêm đó, Dương cố tìm vì sao Bắc Đẩu đang sáng lập lòe, mà mơ ước ngày nào đó, được mang một cánh chim hoà bình, bay hướng về phía sao Bắc Đẩu, để rồi từng phút, từng giờ, nhìn thấy sao Bắc Đẩu cao dần…Ngày đó chắc còn xa lắm…
Tiếng phi cơ cất cánh, rú lên từ đầu phi đạo. Hai thằng bạn, hồi nãy di chuyển qua mặt chàng, bây giờ mới cất cánh đây. Dương nhìn theo hai chiếc phi cơ, vừa nhấc lên khỏi mặt đất, mấy bánh xe xếp vội vã. Bom đạn mang nặng chĩu dưới cánh…Trận giặc này có vẻ kéo dài còn lâu. Phi trường hoạt động nhộn nhịp với từng loạt phi cơ, mang bom đạn nặng chĩu ra đi, rồi lúc trở về, thênh thang nhẹ nhàng. Chàng bước xuống bực thềm, trở về phòng nghỉ.
Mở cánh cửa phòng, chàng vẫn thấy lại những cảnh cũ. Bàn cờ lại đầy quân. Chắc ván cờ hồi nãy đã kết thúc, hai đối thủ bày lại bàn cờ khác. Máy phát thanh ở đầu giường đã ngưng chương trình nhạc êm dịu và người xướng ngôn viên đang đọc tin chiến sự. Tâm bỏ cuốn tiểu thuyết xuống ngực, nhìn Dương:
– Không phải đồ mạo hoá chứ?
Dương cười:
– Thứ thiệt! Không hiểu nghĩ ngợi gì mà em lại gửi tới một lá thư đòi chịu thua, không dám “thi gan cùng tuế nguyệt”. Em chờ một sự trả lời…
– Mầy có trả lời không?
– Trả lời là một sự bắt buộc.
Tâm cười buồn:
– Như vậy chắc tao mất mầy rồi. Có em thì mầy đi chơi với em, chứ đâu còn đi chơi với tao nữa…
Tâm nói vậy với luyến tiếc thật tình…Những buổi rong chơi, phóng xe không có một mục đích gì, dọc theo bờ sông Đồng Nai, hay những lúc tới nhà hàng À la Plage, đấu tiếng Tây bồi với ông chủ quán, một ông Tây già còn sót lại miền đất này. Từ nay, chắc chẳng còn những buổi tối, ngồi ở nhà hàng, uống cà-phê để nhìn ra ngoài sông nước, ngắm những con thuyền qua lại bên kia sông.
Những buổi chiều, đi về phía núi Bửu Long, rồi dựng xe, xuống ruộng, nói với chú bé chăn trâu mấy câu để cỡi trâu, cho tâm hồn trở lại với thời trăng sao hoa bướm.
Dương chớp mắt:
– Thì có khác gì trước đâu. Trước kia, mình đi chơi hai người, bây giờ thì đi chơi ba người. Thêm Phượng nữa, cũng chẳng hại gì…À, thư của mầy đây.
Chàng móc túi, quăng cho Tâm lá thư. Nhìn mặt Tâm, chàng thoáng thấy có một chút thảng thốt. Khi Tâm bóc lá thư, Dương nhận thấy bàn tay của Tâm còn hơi run. Chàng nghĩ rằng, nếu mà chàng nhận được thư nhà, chắc chàng còn hốt hoảng hơn Tâm nhiều lắm. Tuy vậy, chàng vẫn nói đùa:
– Mày có vẻ cảm động, phải không? Thì ra người hùng, chỉ có thể nói cứng được những lúc khác, còn những lúc như thế nầy thì vẫn yếu đuối như thường ….
Tâm không trả lời, mở lá thư ra. Hai trang giấy viết dày đặc những chữ. Những giòng chữ chạy dài, ngay ngắn như một toán lính đứng xếp hàng duyệt binh, diễn qua trước mắt Tâm. Cô em gái Thư Hương của chàng, đã viết hết chuyện tâm sự của cả mấy năm trong một lá thư…
Tâm đọc những giòng chữ mà nước mắt rưng rưng. Tới những đoạn mà Thư Hương viết cảm động quá, Tâm thấy những giòng chữ ấy mờ đi.
Chàng phải đặt tờ thư xuống, nhắm mắt lại. Dương liếc nhìn sang bạn thì thấy hai giọt nước mắt trào ra ở hai bên đuôi mắt rồi từ từ chảy xuống phía tóc mai…
Người đàn ông mà khóc thì lặng lẽ, không ồn ào như đàn bà. Nỗi buồn của đàn ông, thường đau đớn và thấm thía hơn đàn bà. “Đàn ông nông nỗi giếng khơi, đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu” là thế.
Người đàn bà, khóc ồn ào đấy, nhưng mà quên ngay đấy. Nhưng người đàn ông, khi đã phải trào nước mắt, là đã chứng tỏ một nỗi đau canh cánh bên lòng. Có thể là một sự hối hận. Có thể là một sự thương cảm. Cả hai thứ, chỉ có thể có với những người đàn ông đầy ắp lương tâm.
Dương nằm im lặng, kính trọng nỗi buồn của bạn. Tâm đọc tiếp lá thư:
“Biết được địa chỉ của anh, em lặng lẽ viết thư cho anh, không dám cho mẹ biết. Mẹ mà biết được anh chỉ cách xa mẹ có ba chục cây số, thì không có một sức gì ngăn cản được bà cụ chạy lên với anh. Dù không có xe, không có phương tiện nào, bà cụ cũng dám cơm nắm, muối vừng, đi bộ suốt dọc xa lộ, để tới nơi mà anh đang sống. Ngày anh mới bỏ nhà đi, mẹ khóc nhiều lắm, nhưng bây giờ, mẹ không khóc nữa.
“Nhưng em không dám bảo đảm là mẹ đã cạn nước mắt. Gặp anh, mẹ chắc lại biểu diễn một trận mưa tháng bảy. Anh nên về nhà. Anh phải về nhà, sống với bố mẹ. Không khí gia đình bây giờ thật là buồn, thật nản, và rồi đây chắc sẽ buồn nản hơn, và em báo cho anh biết một tin vui: em sắp sửa lấy chồng!”
Tâm để lá thư xuống, nói một mình:
– Thế ra con bé sắp sửa lấy chồng.
– Con bé nào?
Nghe Dương hỏi, Tâm giựt mình, nhìn Dương cười gượng gạo. Đưa bàn tay kéo mạnh lên mắt để lau những giòng nước mắt chưa kịp khô. Chàng không ngờ câu nói ấy mà Dương lại nghe được.
– À, tao muốn nói tới con bé em gái tao. Thư Hương nó sắp sửa lấy chồng…
Chàng nói đến tên Thư Hương với một giọng thật âu yếm. Coi như Dương đã là người của gia đình chàng, đã quen biết với Thư Hương. Dương lại hỏi:
– Mày có mấy anh em?…
– Chỉ có hai anh em. Tao với Thư Hương.
– Thế thì bắt buộc mầy phải về rồi. Chẳng lẽ để cho hai cụ sống lủi thủi với nhau, trong những ngày tháng cuối của cuộc đời như thế này. Con gái, chúng nó có cuộc đời riêng của chúng nó. Khi đi lấy chồng là chúng nó phải lo cho gia đình bên chồng, đâu có thì giờ mà săn sóc tới bố, tới mẹ. Mầy phải về nhà.
Tâm nó bằng một giọng buồn:
– Mầy đuổi tao đấy à?…Có được em Phượng rồi, mầy đâu có cần tới tao nữa. Tao tiếc cái thời hai đứa chúng mình thênh thang, không có một tí bụi trần nào dính dáng vào người…
Dương phản đối ngay:
– Tao không đồng ý mầy nói câu đó. Tao không có gia đình, nên tao biết được những cái đau khổ của sự thiếu tình thương. Mầy thì có sẵn mà không biết hưởng. Gia đình mầy có bạc đãi mầy không?
Tâm thở dài:
– Nếu bạc đãi, ghét bỏ thì sung sướng cho tao biết mấy. Đằng nầy thì trái lại. Tao bỏ nhà đi, vì mẹ tao vẫn cứ tưởng như tao còn bé tí xíu, được tạc bằng pha-lê, chỉ cần đụng nhẹ cũng vỡ. Lớn xác tần ngần ra mà vẫn bị mẹ tắm. Đi đâu mà qua đường, cũng bị bà mẹ dắt tay dẫn đi. Ngày mới vào lính, mầy biết đấy. Tao không ăn được rất nhiều thứ. Thịt mỡ, xào nấu có hành, có tỏi là tao chê. Vì ở nhà, tao đã quen sống kiếp cậu ấm, chỉ ăn giò, chả, thịt rim…Bây giờ, nhờ đi lính tao đớp được hết. Tao lại còn chọn nghề lái tàu bay khu trục này, để thử lại từng con ốc ở trong người, coi đã lỏng lẻo hay chưa?…
Tâm muốn nói, nói thật nhiều về kiếp sống cậu ấm của mình, khi còn là một sinh viên trẻ tuổi. Sống với một ông bố già khoa cử, thèm làm cách mạng nhưng vì già rồi đành sống câm lặng như một cây cổ thụ. Và bà mẹ, đã già rồi, mà còn giữ được vẻ đẹp của một mệnh phụ khả kính thời xưa…
Nhớ tới mẹ, là nhớ tới cả một quãng đời xa xưa thời kỳ thơ ấy, nơi căn nhà rộng lớn gần hồ Trúc Bạch. Căn nhà như một viện bảo tàng, với đầy đủ những thứ đồ cổ. Từ những bức hoành phi, câu đối, cho tới những chiếc tủ chè, sập chân quì khảm xa cừ. Chiếc ghế tràng kỷ lót đá, vào mùa hạ, nằm lên mát lạnh người. Những thứ đó, sau khi di cư đã phải bỏ lại tất cả.
Tâm tiếc nhiều lắm, tiếc từ cái gối da, bố hay tựa tay đọc sách, cái cơi trầu đen, nhẵn bóng của mẹ, cho tới cái tủ đứng, mỗi lần mở, khóa kêu leng keng. Lá thư của Thư Hương đã kéo Tâm trở về với cái quá khứ dịu dàng, đầy tiếng thông reo trưa hè và gió lạnh heo hút mùa đông. Giang sơn của gia đình Tâm xây dựng đã bao nhiêu đời. Giòng họ này không phải là giòng họ đa đinh, mỗi đời chỉ có một người con trai.
Mẹ chàng đã cố tu nhân, tích đức, lễ hết các đền các chùa, để mong cho giòng họ thêm người. Nhưng rồi chỉ có được Tâm, rồi Thư Hương, rồi thôi. Cũng chính vì vậy mà Tâm được quí mến đặc biệt. Mà chính sự qúi mến ấy đã ám ảnh rất nhiều. Ngày còn nhỏ đã học đến lớp nhất rồi mà vẫn được cõng đi học. Lên trung học, đòi mẹ mua cho một chiếc xe đạp mà không được. Đi xích-lô thì chẳng thú vị gì.
Những giờ nghỉ vì giáo sư vắng mặt, hay vì một lý do gì, Tâm được chở trên xe hơi đi chơi quanh Hà-nội. Nhờ đó Tâm mới tập đi xe đạp và tập bơi tại bến sông nhà Bác Cổ.
Có một lần Tâm đã làm cho mẹ xuýt xoa. Một ông bạn của bố tới chơi, dựng cái xe đạp ở đầu nhà. Tâm đã trèo lên, đạp chạy phăng phăng. Mẹ Tâm nhìn thấy giật mình:
– Con tập đi xe hồi nào vậy?….
– Con chẳng cần tập cũng biết đi…
Rồi Tâm khoe với mẹ là mình còn biết bơi nữa. Mẹ Tâm đã ôm chặt lấy Tâm rồi…bà cụ khóc. Từ đấy những lúc Tâm đi học là lúc mẹ ở nhà thấp thỏm không yên. Nếu có thể bắt con ở nhà, hay theo con tới trường, thì chắc mẹ Tâm cũng làm rồi.
– Thế mà bây giờ, mình lại làm cái nghề nguy hiểm này. Nếu bà cụ biết được mình lái tàu bay khu trục, mang bom đạn đi giết người, chắc là bà cụ khóc thét lên được. Nhưng biết làm thế nào, khi bản chất của mình không giống mẹ…
Tại sao mình lại không thể giống mẹ?….Các bà cô, bà dì mỗi lần tới chơi nhà, đều khen Tâm giống mẹ đặc biệt. Cũng có đôi mắt hiền dịu, chớp chớp luôn. Cũng có khuôn mặt trắng trẻo, hai má có những đường gân xanh. Tâm sờ tay lên mặt mình. Chắc bây giờ, những đường gân xanh đã biến mất rồi. Cả màu trắng trên mặt cũng không còn nữa.
Nắng gió quân trường, súng đạn chiến trường đã biến Tâm thành một người khác. Trung úy Tâm, phi công khu trục, không thể là cậu Tâm được người cõng đi học, nhong nhong, ếp ếp trên lưng một anh người làm khoẻ mạnh. Tất cả mọi diễn biến thoáng qua như một sự đổi đời.
Dương hỏi Tâm:
– Mầy thức hay ngủ đấy?
Tâm giật mình, choàng tỉnh. Lá thư của Thư Hương đã rơi xuống đất. Chàng nhặt lên, gấp gọn lại cho vào bao thư, đút lá thư vào túi áo bay.
Dương nói tiếp:
– Đi ăn cơm! Hôm nay tao với mầy trực hành quân nên ăn cơm sớm một chút.
Tâm uể oải:
– Ừ thì đi! Không có gì nản bằng phải đi bay buổi trưa nắng đến cháy lưng áo. Lúc bay ở trên trời thì còn dễ chịu, chứ lúc di chuyển ở dưới đất, cái dù áp vào lưng, cái nón bay ôm chặt lấy tai, nhiều lúc làm tao nóng đến phát điên…
– Thì cũng đành chịu chứ biết làm sao!…
Tâm và Dương đi ra cửa. Nhìn sang An thấy tên phi công này đọc thư của em gửi tới, thỉnh thoảng trên môi lại nở một nụ cười. Cái thằng thế mà sướng! Dương nói vậy, thì được Tâm chỉnh ngay:
– Tụi mầy rồi cũng thế…Tao sợ rằng em Phượng của mầy ít nữa còn viết thư lẩm cẩm hơn con bồ của thằng An nhiều lắm.
Dương cãi:
– Cái đó thì không phải nghề của Phượng. Mày chưa biết Phượng đấy thôi. Lát nữa, lúc chờ cơm, tao sẽ đưa cho mầy coi lá thư của Phượng viết cho tao. Hơn năm năm xa nhau, lúc gửi thư mà chỉ viết vừa đúng một trang giấy. Không thừa, không thiếu một chữ.
Phượng, lúc nào cũng nhắc tới Phượng. Thấy Dương cứ nhắc tới tên Phượng hoài, Tâm muốn chửi một phát. Bao nhiêu năm đi lính rồi, nhưng khi trở về với tình yêu, con người vẫn ngây thơ một cách tức cười. Tâm nghĩ rằng, chắc cặp này nói chuyện với nhau, như các cậu học trò mới lớn, vẫn xưng tên thay cho những tiếng “anh, em”. Nắng đã lên thật chói mắt.
Từ ngoài phi trường thiếu bóng cây, vào tới vùng trong căn cứ, bóng cây cao su cổ thụ thật rợp mát.
Hai người chở nhau trên chiếc xe. Tâm ngồi đằng sau lưng Dương mà nghe thấy gió lộng ào ào.
– Chạy chậm thôi mầy! Tao không muốn què một cẳng, gãy năm bảy cái răng vì cái thứ xe chỉ có hai bánh…
Dương nói trong tiếng gió:
– Tao đang yêu đời…
– Vậy thì càng nên chạy chậm.
Chiếc xe chạy chậm lại một chút, nhưng rồi lại vọt đi. Tới một ngã ba, Dương làm một phát lượn vòng thật đẹp, như mỗi lần ở trên trời làm những vòng bắn hẹp, nghiêng hẳn phi cơ đi để có một bề mặt thật nhỏ, tránh đạn phòng không. Tâm hét lên:
– Phần nào thôi Dương! Mầy có điên hay không?
Dương cười vang thích thú. Chàng lại có Phượng, có được mối tình đẹp như thuở xưa. Chiếc xe ngừng lại, Tâm đã nhảy xuống đất rồi mà Dương vẫn còn ngồi trên xe, rú máy xe ầm ầm. Tâm nhìn Dương lắc đầu rồi cười tha thứ. Nó đang sung sướng, thì để cho nó tận hưởng hết những thú vị của tình yêu.
Tâm ngồi vào bàn ăn. Cũng vẫn là chiếc ghế nhìn thẳng ra cửa sổ. Đúng như anh chàng chủ Câu Lạc Bộ đã nói. Tâm nhìn thấy lá cây cao su lấp loáng phản chiếu ánh nắng, những tảng mây trắng nõn lững lờ trôi hay đứng im chết sững trên nền trời. Vào mùa mưa, thì Tâm được nhìn thấy những hạt nước mưa rơi thẳng đứng, vì nơi đây, bốn bề là nhà che khuất nên vắng gió.
Dương cười đùa với cô nàng ngồi ở quày hàng. Thằng nầy đang vui nên đùa có vẻ hơi quá lố, nên Tâm thấy mặt cô hàng nặng như đeo một tảng đá.
Bữa ăn hôm nay, chỉ có Dương nói nhiều…Anh chàng đưa cho Tâm đọc lá thư, kể về chuyện Phượng. Chuyện của chúng nó ly kỳ, hấp dẫn như thế, mà đến hôm nay mới được nghe. Nhưng rồi câu chuyện cũng hết. Lúc đó mới là lúc Tâm buồn, thật buồn.
– Còn về chuyện lá thư của mầy. Mầy vẫn chưa kể cho tao nghe về chuyện gia đình của mầy…
Tâm đăm chiêu nhìn vào ly nước trà đá đã tan hết. Phía bên ngoài ly, nước đọng từng giọt lạnh buốt, thấm vào lòng bàn tay. Chuyện gia đình của Tâm là thế đó. Lạnh và đọng nước như ly nước đá nầy.
Tâm nói về một gia đình quan lại, không có một chút hãnh diện nào, mà chỉ có những bực bội, vì những người nuối tiếc thuở “vang bóng một thời”. May mà Tâm thoát ra khỏi đấy sống như một người thường. Nhưng lúc nào cũng nghĩ tới những người thân yêu.
– Tao sẽ về thăm nhà vào chủ nhật tuần nầy. Tao muốn mầy phải về cùng với ao, để mầy làm cái thắng ngăn chặn bớt lại. Khi nào mẹ tao khóc nhiều quá, tao sẽ lấy mầy ra để làm cái cớ ngăn bà cụ nín khóc. Tao sẽ nói “mẹ đừng làm vậy thằng Dương nó cười con”. Bố tao sẽ thở dài thật nhiều, rồi nói đến chuyện thánh hiền, lúc đó tao sẽ nói “có thằng Dương, bố phải vui vẻ lên, hôm nay nó là khách của nhà ta”. Gia đình tao, dù cho chuyện gì buồn đến thế nào chăng nữa nếu có người lạ, sẽ cố dấu tất cả. Có như vậy tao mới có thể về thăm nhà.
– Nhưng tao không muốn làm người lạ. Tuy mới quen biết, nhưng tao đã tự coi như một đứa con trong gia đình của mầy. Tao muốn như vậy.
– Mầy giúp tao một lần thôi.
Dương thở dài…Cái vui hồi nãy như biến đi khỏi con người Dương. Thì đã nói, Dương chỉ là một đứa trẻ con, cười ngay đấy, rồi khóc ngay đấy. Đã từ lâu, chàng thèm được hưởng một chút không khí gia đình. Chàng cũng mong Tâm đưa chàng về gia đình Tâm, sống ở đó để nhớ lại những ngày xưa thơ ấu. Chàng sẽ coi cha mẹ Tâm như cha mẹ chàng, và cô em gái Thư Hương như cô em gái của chàng. Dương uống cạn ly nước rồi thẫn thờ đứng dậy. Lúc trở về phi đoàn, chàng chạy xe rất chậm…
Khi Tâm và Dương về tới phi đoàn, thì tiếng còi hụ đặt trên nóc hồ nước rú lên một hồi thật dài báo hiệu giờ tan sở. Mọi công việc như ngừng hẳn lại. Tiếng động cơ xe hơi, xe gắn máy thay thế cho tiếng phi cơ. Nơi nhà để xe ồn ào lên một lúc, rồi tất cả trở về với vắng lặng.
Trên sân đậu, chỉ còn lại vài ba bóng dáng những cơ khí viên trực đi lủi thủi giữa những dẫy phi cơ nằm im lìm, bất động.
Dương nhìn thấy một người thật quen đi trong cái ánh nắng ấy. Chàng cất tiếng gọi lớn:
– Hậu!….lại đây mầy!…
Hậu vẫn lừng khừng đi tới không vội vã. Vừa thấy Hậu đặt chân lên bực thềm trước Phòng Hành Quân, Dương đã vội khoe ngay:
– Tao mới nhận được thư của Phượng.
– Ừ…
Hậu vẫn thản nhiên một cách đáng ghét. Dương đã bắt đầu thấy muốn nổi giận:
– Mầy không hỏi thêm tao một câu nào nữa à?…
– Hỏi thêm làm… cái mẹ gì. Ở nhà, nghe chuyện của mụ vợ, tao đã khổ cái lỗ tai vì chuyện của mầy với em Phượng. Bây giờ, mầy lại bắt tao phải nghe nữa, thì mầy cho tao một cú đấm, nằm lăn ra đây ngủ một giấc, có lẽ còn khoái hơn…
Tâm nói xen vào:
-Thằng Dương là một thằng chúa vô lý. Chuyện của mầy mà cứ bắt thiên hạ phải nghe là nghĩa làm sao?…
Hậu không chào từ biệt, lại bỏ đi ra ngoài sân nắng, Dương nói theo:
– Chiều nay, ở nhà mầy có cái gì ăn uống được không?…
Hậu trả lời mà không ngừng bước:
– Muốn ăn thì cứ tới, rồi đi mua sau. Đừng có hỏi trước như vậy…
Tâm và Dương nhìn theo Hậu. Ai có thể ngờ được một con người như thế, mà đã có một thời oanh liệt. Những ngày học tại trường cơ khí bên Tây, Hậu là một chuyên viên xuất sắc, lên bảng danh dự đều đều. Mọi da trắng, mọi da đen và mọi da vàng sợ khiếp vía. Về những môn ăn chơi, Hậu cũng vẫn đứng đầu với những bước nhảy tân kỳ, lả lướt.
Nhưng bây giờ chỉ còn là một chàng cơ khí viên nghèo nàn, nợ muốn nặng chĩu cả đôi vai, rồi tự dưng biến thành một tên gàn dở muốn chịu hết nổi.
Tâm nói với Dương:
– Tao với mầy về phòng nghỉ, coi xem có lệnh phải bay hay không?…
Hai người lại về phía phòng nghỉ. Buổi trưa, căn phòng lạnh này thật đáng quí. Vẫn chỉ có tiếng máy lạnh chạy rì rầm, tiếng nhạc thật nhẹ và những chồng sách báo nằm bừa bãi. Tâm nhắc chiếc “tê-lê-phôn” lên, quay vài vòng.
– Có gì lạ không bạn?… Ô kê, chúng tôi nằm đây chờ. Phải rồi … Trung úy Tâm, Trung úy Dương. Có gì, cứ việc phát cho một tiếng chuông. Những chiếc tàu bay nào bay được?… 374 và 392. Đồng ý! Bạn nói với toán trực phi đạo kiểm soát kỹ dùm. Cám ơn….
Tâm nói liên hồi trong điện thoại… Dương nhắm mắt rồi chỉ còn nghe thấy tiếng nói của Tâm thật mơ hồ. Buổi trưa, ngồi trực hành quân thật buồn, nên thường dùng điện thoại, cố kéo dài cuộc đối thoại, để thì giờ chóng qua đi. Dương đi vào một giấc ngủ chập chờn. Khuôn mặt của Phượng, những năm về trước lại thoáng hiện về trong giấc mơ.
Dương nghe thấy cả tiếng cười pha lê loang ra, trùm lấy dần giấc ngủ. Như một viên gạch ném xuống mặt nước lặng yên. Những vòng tròn nhỏ, lớn xoáy nhẹ trong đầu.
Dương xoay mình nằm nghiêng để nghe thấy tiếng rì rầm của chiếc máy lạnh lớn hơn, Dương chợt giựt mình vì có một bàn tay lay rồi có tiếng Tâm:
– Dậy đi bay! Ngủ gì mà kỹ thế?…
Dương uể oải ngồi đậy cho chân vào trong giầy. Chàng tới cuối phòng mở vòi nước rồi đưa cả đầu vào. Nước lạnh làm cho Dương tỉnh hẳn.
Chàng lắc đầu thật mạnh. Dùng mấy ngón tay làm lược, chàng vuốt lại mái tóc. Nhìn vào trong tấm gương trước mặt, Dương thấy khuôn mặt chàng thật nghệ sĩ. Có nhiều lúc, chàng cũng thích viết văn, thích làm thơ. Nhưng đã thử nhiều lần, viết xong đọc lại, thấy văn thì nặng mùi, và thơ thì… khó ngửi, chàng xé đi không một chút luyến tiếc. Tâm dục:
– Mau lên mầy! Còn sửa sang nhan sắc mãi.
– Thì cũng phải có một tí đẹp trai để còn làm cái công việc giết người. Nhưng vùng hành quân là vùng nào vậy mầy?… Có nặng lắm không?
Tâm giở vội tấm bản đồ:
– Vùng Y T… chỗ nầy đây. Tao với mầy thì nhắm mắt cũng bay được tới vùng nầy. Cứ đánh đấm nhau hoài. Sao không làm một mẻ bào láng, rồi khai quang đi cho được việc. Cứ như một nơi, dùng làm chỗ thử lửa…
Dương ngồi lên một chiếc ghế, buộc lại chặt giây giầy. Tâm đã bước ra cửa, Dương cũng đứng dậy đi theo. Chàng nhìn vào đồng hồ và chợt giật mình. Ấy vậy mà trời đã vào cơn nắng xế. Thời gian này là lúc nóng nhất trong một ngày nhưng rất may là có nhiều cơn gió thoảng.
– Không ngờ tao ngủ một giấc dài ghê…
– Ừ, tao nhìn thấy mầy ngủ mà phát thèm. Tao đã nhìn kỹ lúc mầy ngủ. Không đến nỗi xấu xí lắm. Có nhiều thằng ngủ trông xấu chịu không nổi. Mặt thì nhăn như mặt khỉ, lâu lâu còn nghiến răng rồi lảm nhảm nói mê…
Dương đi bên cạnh bạn… Những thứ như nón bay và dù, đã để trên phi cơ nên hai người lên đường với một tấm thân nhẹ thênh thang. Chỉ vướng có một vài tâm sự nặng chĩu. Nhiều lúc Dương đã nhìn những cảnh tiễn đưa nhau, mỗi lần lên đường xuất ngoại, hay chỉ là một chuyến đi thông thường, chẳng có gì nguy hiểm. Những buổi tiễn đưa ấy đã làm Dương nhớ tới giọng khinh bạc của Nguyễn Tuân: “Chỉ còn thiếu cái cảnh mặc áo trắng qua đò, là đủ lệ bộ của một cuộc tế sống anh chàng kiếm sĩ Kinh Kha sang Tần”. Còn những người sống với nghề nguy hiểm nầy? Như Tâm và Dương… Mỗi chuyến đi là một lần gần kề với cái chết, mà mỗi lần đi là một lần lặng lẽ, chẳng có tới một chiếc khăn tay vẫy chào nhau.
Lúc đặt chân xuống mặt sân đậu là lúc Dương tỉnh hẳn ngủ. Cơn gió mạnh chợt nổi, bốc hơi nồng. Bụi phi trường chạy la đà, dài theo cơn gió. Chàng cũng cảm thấy bước chân xiêu xiêu, và bộ đồ bay như dán vào một bên. Chàng nhìn sang Tâm, mỉm cười bâng quơ.
Chiếc phi cơ nằm sững như chờ đợi. Bóng đáng của khối sắt thật kiêu hùng.
Những ngày rời bỏ chiếc phi cơ quan sát nhẹ nhàng về đây, nắm lấy cái cần lái phi cơ khu trục, chàng có cảm tưởng như một chú trẻ mục đồng đang dắt một con bò hiền lành ngoan ngoãn, phải đi chăm sóc một con trâu rừng. Mọi động tác đều dữ dội. Nghiêng thật mạnh, chúi thật thấp rồi kéo lên thật bạo. Đủ mầu hiện lên trước mắt, kể cả những vùng lửa đỏ và chớp loé súng phòng không.
Chàng trèo lên tàu. Người cơ khí viên giúp chàng buộc lại chiếc đai đù. Đội chiếc nón bay lên đầu, nhìn sang cười với Tâm, rồi theo ngón tay làm dấu hiệu của người cơ khí viên, chàng cho máy chạy.
Tiếng máy nổ rền, một làn khói xanh thoát ra từ ống khói bay tản mạn rồi loãng tan đi. Tiếng nói bên tai đã vọng về những âm thanh quen thuộc. Trên nóc hăng-ga là chiếc ống gió; nằm căng thẳng, đuôi hướng về phía đầu phi đạo 27.
Chàng nhìn thấy bánh xe của Tâm nhích lên, rồi chiếc phi cơ chạy, quẹo tay mặt, qua mặt chàng. Tai chàng nghe thấy tiếng Tâm thử máy vô tuyến, những lời đối thoại với Đài Kiểm Soát phi trường, êm dịu, bình thản như tất cả mọi chuyến bay.
Một chiếc xe của toán chuyên viên vũ khí, chạy theo sau phi cơ của chàng để gắn điện vào hột nổ nơi phía cuối đường bay…
Sau giấc ngủ trưa dài, Dương thấy mình thoải mái, nhẹ nhàng. Mặt trời chênh chếch, chiếu lấp loáng vào mặt kính phía trước. Con đường vận chuyển, trải xi măng phẳng rộng thênh thang, chàng để cho con tàu tự do chạy trên đó không một chút vấp váp, gập ghềnh.
Chàng kéo cái khăn quàng ra khỏi cổ áo cho gió thổi phất phơ, rồi ngửa mặt lên trời, hít một hơi dài cái không khí mênh mông của phi trường, phảng phất một chút khét nơi đầu máy. Chàng tưởng rằng, không cần cái vật vô tri nặng nề cục mịch này, chàng cũng có thể bay bổng lên trời như một cánh chim.
Khi chuyên viên vũ khí, từ trên xe nhảy xuống đất, Dương cười, dơ thẳng cả hai tay lên trời. Mọi khi, chàng chỉ để bàn tay lên hai thành cửa, để cho những chuyên viên ấy biết rằng chàng không đụng gì tới những nút điện ở phía dưới. Nhưng hôm nay, lòng chàng như mở rộng, tâm hồn khoáng đãng rất trẻ con, chỉ thích đùa nghịch, vui chơi.
Ngay sát cánh bên trái của chàng, Tâm đang nhìn thẳng về đằng trước, nét mặt đăm chiêu. Dương chắc là Tâm đang nghĩ tới lá thư nhận được buổi sáng. Gió phi trường chiều nay thổi lên lồng lộng.
Những người chuyên viên cơ khí đã lên hết trên xe. Dương đẩy tay ga, nhìn lại một dẫy đồng hồ. Tất cả đều bình thường…
– Số 2, thử máy xong!…
– Đài kiểm soát, Phụng Hoàng xám xin phép cất cánh!
Chàng nhìn theo Tâm lướt về phía trước thật nhẹ nhàng, đôi bánh xe gấp vào thật gọn. Tới lượt chàng đẩy nhẹ tay ga và buông chân thẳng…
Chiếc phi cơ được xả thắng chồm lên như một con ngựa ngàn dặm được nới lỏng giây cương. Dương hơi bị kéo lại đằng sau.
Chàng lấy làm lạ là hôm nay, động tác nào của mình cũng mạnh bạo. Đáng lẽ, chỉ nên thả từ từ.
Sàn xi măng lót phi đạo thật bằng phẳng. Dương nghe thấy cả tiếng bánh xe chạy phía dưới nệm ngồi, một thứ tiếng rì rầm của một trận mưa không có gió. Rồi chợt tàu nhấc bổng, nhẹ nhàng, thênh thang. Cỏ cây như chạy ngược chiều.
Đất hai bên phi đạo, chưa kịp mọc lên những đám cỏ mướt, nên hiện ra loang loáng, nhiều mầu xám, đỏ… Dương gấp bánh xe lại, bay thấp dọc theo phi đạo, cho tới hết màu trắng xi măng mới kéo vụt lên đuổi theo chiếc phi cơ của Tâm, bây giờ chỉ còn là một chấm nhỏ.
– Số 3, cất cánh xong!…
-Hiểu rõ… Đài kiểm soát Phi trường, xin phép được rời tầng số của Đài, để liên lạc tầng số hành quân. Số 2, đổi qua tầng số 4. Bốn, hai lần hai…
Dương thò tay qua bấm nút vô tuyến. Tiếng nói của Trung Tâm Hành Quân hỗn độn hơn. Vùng trời này, lúc nào cũng đầy những phi cơ mang bom đạn, tới tấp gọi về báo cáo tình hình, xin chỉ thị, rồi những tàu bay quan sát đọc những công điện dài lê thê. Nhiều lúc, Dương muốn tháo bỏ cái nón bay, rồi bay lên thật cao, để ở chung quanh, ngoài tiếng động cơ, chỉ còn một sự yên lặng thật mênh mông. Những lần bay thử phi cơ vừa làm kiểm kỳ xong, Dương đã làm như thế, và những giây phút đó, là giây phút sung sướng nhất.
Nhưng hôm nay là một phi vụ hành quân. Chỉ cần gọi ba lần mà không thấy Dương trả lời, là tất cả mọi người đã lo âu thắc mắc. Chàng nhìn sang bên trái, thấy cái mũ bay của Tâm thấp thoáng trong lòng khung kính phi cơ. Từ nãy giờ, Tâm mải liên lạc với Trung Tâm Hành Quân. Tiếng nói của Tâm ở bên cạnh, và tiếng nói của những người ở đưới đất, vọng tới bên tai Dương với một giọng đều đều không lúc nào lớn lúc nào nhỏ. Chàng vẫn lắng tai nghe, vì những lời nói với Tâm, cũng là những lời nói với chàng. Dương cũng định cười đùa dăm bảy phát bằng cách sàng qua sàng lại bay qua bên trái rồi lại trở qua bên mặt chiếc tàu bay của Tâm, nhưng nhìn thấy dưới cánh bom đạn vẫn còn nặng chĩu nên lại thôi.
Đã nhiều lần Dương đùa với cái chết. Nhưng với những cái chết vô nghĩa thì có khác chi đi giang hồ bốn biển không chết, mà lại chết vì sụp lỗ chân trâu. Dương đã thấy nhiều cái chết được mô tả là lãng nhách. Chàng không thể trách những người bạn tuổi trẻ không thể kìm hãm được những cơn hứng nhất thời, cũng như chàng hôm nay, rất muốn nổi hứng.
Nhưng khi sắp sửa làm, nghĩ tới những cái chết thê thảm, bắt buộc phải ngừng lại. Những chiếc đồng hồ trước mặt in khuôn mặt chàng lờ mờ hiện lên. Chàng nhìn thấy cả đôi mắt của chàng đang chớp… Rồi từ đó nhìn ra, chàng thấy cả đám không gian mênh mông mù mù xanh biếc. Trời chiều nay sương xuống sớm.
– Xám 2, quẹo trái hướng 045…
-Hiểu, hướng 045…
Dương đạp nhẹ một bên bàn đạp. Chiếc phi cơ ngoan ngoãn vâng lời, sát bên cánh của Tâm, như cả hai chiếc phi cơ, chỉ có một người điều khiển. Tiếng của Tâm lại vang lên:
– Mầy nhìn thấy chiếc phi cơ quan sát chưa?…
– Nó bay mấy ngàn bộ?…
– Hai ngàn…
Dương nói với Tâm:
– Vậy mình nên bay cao hơn nó.
– Đồng ý…
Hai chiếc phi cơ ngước cao đầu lên… Tiếng máy, thật ngọt. Cao độ kế chỉ hai ngàn năm trăm bộ. Tâm và Dương lấy lại thăng bằng. Dương chợt la lên:
– Tao thấy nó rồi. Hướng mười giờ. Mầy liên lạc với nó đi…
Tâm nghiêng đầu nhìn xuống. Cánh chuồn chuồn mỏng manh đang làm những lượn vòng xuống thấp. Rừng cây phía dưới mù mịt, và về xa xa phía trái, Tâm nhìn thấy toàn diện hình tam giác của một chiếc đồn nhỏ chơ vơ. Ngoài đồn là bãi đất trống, bao bọc chung quanh. Tuy rằng ngồi trên cao, nhưng Tâm cũng ước lượng rằng khoảng rộng của khoảng đất ấy cũng phải tới vài trăm thước. Nhìn thấy các công sự vẫn chưa đổ nát nhiều lắm, Tâm mừng thầm. Chàng và Dương đã tới kịp thời…
Chiếc đồn nhỏ, nằm gần ngay quốc lộ. Tâm nghĩ là nhờ chiếc đồn này mà người dân quê có thể biết được thành phố. Nếu chiếc đồn này mất, thì kể như cả một vùng này không còn là của ta. Tâm đã nhìn rõ cả cái thế bất lợi. Ba mặt là rừng hoang, cách đó chừng một cây số là trái núi tuy không cao lắm, nhưng đứng từ trên đó, cũng đủ thấy hết sinh hoạt ở trong đồn. Trên đỉnh núi, cũng có một lô cốt rào giây kẽm gai, nhưng có lẽ đã bị chiếm rồi, nên chiếc cột cờ không còn lá quốc kỳ bay trong gió buổi chiều.
Tâm bắt đầu liên lạc với chiếc phi cơ quan sát:
– Hai Phụng Hoàng Xám đã tới mục tiêu. Đang ở phía bốn giờ của bạn… Xin cho biết chi tiết mục tiêu..
Tiếng nói thân mật bắt đầu oang oang như muốn chạy thẳng vào đầu Tâm và Dương. Một thứ tiếng quen thuộc của một thằng bạn:
– Thằng Tâm phải không? Thằng nào cùng đi với mầy đấy?… Thôi chẳng cần phải trả lời, tao cũng biết là thằng Dương rồi… Đúng hướng mầy đang bay tới. Phía Đông Bắc của đồn, đang bị uy hiếp nặng. Hãy gửi cho chúng nó vài ba con heo rồi tính sau…
– Đồng ý! Kể như xong rồi…
Tâm và Dương cùng mở hết khóa an toàn sẵn sàng vào cuộc. Nhìn về phía Đông Bắc, rừng cây rậm rạp. Trong đám đen của bóng cây dưới thấp, vài ba lằn chớp liên hồi. Tâm thấy phía đó, chúng có ít nhất là năm cây đại liên. Cần phải cho những thằng này câm họng trước.
Tâm la lên:
– Sửa soạn, tao bắt đầu vào vòng oanh kích…
Chiếc phi cơ lật mạnh về phía trái, nghiêng chiếc bụng trắng về phía Dương. Những lúc này Tâm và Dương chỉ trao đổi với nhau những tiếng ngắn và gọn. Tiếng vào vùng oanh kích hay ra khỏi vùng oanh kích được thay bằng những tiếng “in” và “out” cho gọn. Tâm vòng lại, cánh quạt quay tốc độ mạnh. Tâm thấy rừng cây dâng lên thật mau, rồi từng hàng kẽm gai và hầm hố.
– Một “in”….
Chiếc cột cờ lướt qua dưới bụng Tâm, lá cờ vẫn còn nguyên vẹn. Chàng bấm một chiếc nút. Chiếc phi cơ như nhẹ đi, khẽ chòng chành. Chàng kéo vụt lên và bên tai vọng thấy một tiếng nổ ầm. Chàng bình thản:
– Một “out”!
Tới lượt Dương:
– Hai “in”!
Cũng động tác ấy, Dương chúi xuống. Chiếc phi cơ thuần thục đến nỗi, Dương chỉ cần nhích nhẹ bàn tay cũng thấy phi cơ chuyển động. Độ chúi của Dương thật lớn. Dương thấy người như muốn rời ra khỏi chiếc ghế ngồi. Đôi cánh xẹt ra hai làn khói trắng. Hai trái bom lại rời ra khỏi hai bên cánh. Dương kéo lên thật mạnh. Máy chạy ngọt không một chút rung…
– Hai “out”!…
Tiếng reo của anh chàng phi công quan sát:
– Tuyệt điệu! Bốn con heo của hai thằng mầy đáng tiền lắm. Chúng nó câm rồi! Nhưng cũng nên cho thêm vài ba phát nữa xa hơn mục tiêu cũ hai trăm thước.
– Xong rồi…
Lại “in” và “out”.. Trận đánh có vẻ hơi tẻ nhạt. Tâm và Dương vẫn thích đánh với phi tuần nhẹ, chỉ có hai chiếc, đánh đấm thoải mái hơn, vùng vẫy khoái hơn. Phi tuần nặng bốn chiếc, chỉ làm vòng oanh tạc rộng cũng đủ mất thì giờ, mà chờ nhau cũng đủ mất sướng. Còn với hai chiếc thì thanh toán bom đạn rất lẹ. Lần này vừa thả xong trái bom, Dương quẹo liền, vừa vút lên cao vừa ngó xuống, để được thấy từng bụi cây, đất đá bắn tung. Trong lúc đó nếu có thể được, chàng đã buông cần lái, vỗ tay reo…
Lại có tiếng c