← Quay lại trang sách

Chương V

Lúc Dương tỉnh dậy thì chung quanh sặc mùi thuốc. Chiếc giường nệm thật êm. Không muốn mở mắt ra nhìn cảnh vật chung quanh vì lười biếng, và để thử lại thính giác, chàng cố phân biệt từng tiếng động nhỏ. Có lẽ bây giờ đang giờ làm việc nên vắng lặng. Lâu lâu, vẳng tới tiếng động cơ xe gắn máy.

Tiếng sắt chạm vào pha-lê kêu lanh canh ở những phòng bên cạnh. Và chợt có một bàn tay mát lạnh đặt lên trán Dương.

Mở mắt ra, chàng thấy khuôn mặt Phượng lồ lộ, sát xuống thật gần. Bàng hoàng trong một giây chàng mỉm cười. Chàng gọi khẽ:

– Phượng!…

Có tiếng Tâm reo lên:

– A, nó tỉnh rồi!

Dương xoay người nghiêng ra phía ngoài. Chàng thấy Tâm ngồi ở một chiếc ghế xa-lông, tay đang cầm tờ báo. Cạnh đó, cũng có một người con gái, nhìn nét mặt hao hao giống Tâm, nên Dương đoán rằng người đó là Thư Hương. Còn Phượng thì đứng ở bên giường. Chàng hỏi Tâm:

– Mầy tới từ hồi nào vậy

– Từ lúc khiêng được mầy tới đây…

Tâm đứng đậy, đi về phía Dương, ngừng lại rồi ngắm nhìn Dương bằng một cặp mắt soi mói. Dương cũng trừng mắt nhìn lại, nhưng không chịu nổi đôi mắt mở lớn, và nụ cười nửa miệng như chế diễu của Tâm. Chàng nhìn về phía cô gái còn ngồi đó, rồi hỏi:

– Ai ngồi đó, mà mầy quên không giới thiệu?

Tuy rằng đoán biết đó là em gái Tâm, nhưng Dương vẫn hỏi như vậy. Người con gái đứng lên tự giới thiệu:

– Em là Thư Hương, em gái của anh Tâm. Em biết anh là anh Dương mà. Hồi em học Đệ Tứ, em có học anh môn Việt Văn. Anh giảng truyện Kiều thì tụi em ngồi phía dưới, nghe muốn mê luôn.

A, đứa con gái này cũng là một đứa dễ thương. Dương tự nghĩ thầm như vậy. Chàng rất kỵ những cô em gái của bạn, những đứa con gái đỏng đảnh xấc láo, lúc nào cũng làm những điệu bộ ra cái điều tiểu thư khuê các. Với chàng, thì em gái của bạn, cũng là em gái của chàng. Nhưng nếu là em gái thật của chàng thì chàng có quyền bạt tai, đá đít, mỗi lúc thấy chúng làm những điệu bộ ngứa mắt.

Nhưng là em gái bạn, dù có muốn coi như em gái mình cũng không thể nào “thân mật” đến như vậy được. Bởi vậy khi thấy đứa em gái bạn nào tỏ ra hơi hỗn láo, là chàng lạnh nhạt và lánh xa ngay.

Căn phòng của bệnh viện có vẻ ấm cúng. Một chiếc giường, hai chiếc ghế xa-lông, một cái bàn viết được trưng bày gọn ghẽ. Nếu không có vài dụng cụ của nhà thương, tấm bảng hồ sơ bệnh trạng treo ở cuối chân giường, thì nơi đây có vẻ như một căn phòng khách sạn. Tâm thân mật, kéo tay Dương:

– Đồng nghiệp của mầy đấy!

Dương ngạc nhiên:

– Tại sao lại là đồng nghiệp của tao?…

– Thư Hương đang học ở Đại Học Sư Phạm. Còn hai năm nữa thì ra trường, đi làm cô giáo. Ngày trước, mầy cũng đã làm thầy giáo, thì nó là đồng nghiệp của mầy, chứ còn gì nữa…

Dương thở phào một tiếng. Đã từ lâu, chàng đã quên cái nghề cũ của mình là một thầy giáo. Chàng chỉ nhớ đưpc cái nghề hiện tại, cái nghề lái tàu bay đi bắn súng đùng đoàng, mà cái nghề ấy, chút xíu nữa đã giết chết chàng, như vừa mới xảy ra mấy hôm nay. Chàng nói với Thư Hương:

– Đàn bà, con gái đi đậy học thì đẹp lắm. Chứ đàn ông con trai như anh Dương của cô mà đi dậy học thì yếu quá. Bởi vậy tôi đành làm một phát ly dị không một chút luyến tiếc. Bây giờ thì đồng nghiệp của tôi là thằng Tâm khốn nạn nầy…

Tiếng của Phượng thật trong trẻo như tiếng cầu kinh:

– Phượng cũng không thích anh làm nghề dạy học. Là con trai, phải làm một cái nghề gi cho hùng một chút chứ. Không hiểu sao, Phượng cứ có ác cảm với mấy anh thầy giáo, mặt thì non choẹt mà mặc áo sơ mi gài ” măng-sét” cẩn thận, cổ còn lủng lẳng cái cà-vạt. Lái tàu bay như các anh là… nhất…

Tâm reo lên:

– Có phải chính là Phượng đã nói câu đó hay không? Phượng hãy thử nhắc lại cho ta đây cảm động một chút nào! Cứ nói nữa đi Phượng…

Tiếng cười vang lên trong căn phòng bệnh. Người cười tươi nhất là Phượng. Cái cười của Thư Hương lặng lẽ. Hình như từ nhỏ cho tới bây giờ, Thư Hương chưa được dịp nào ở gần những “ngưòi lớn con nít” như thế nầy. ” Đời cô bé rồi sẽ khổ” Dương vẫn tin một chút vào tướng số. Nhìn khuôn mặt u sầu của Thư Hương, Dương bỗng thấy tràn ngập lòng thương.

Một cô y tá đẩy cửa bước vào, trên tay bưng một cái khay đủ dụng cụ nhà nghề, có thể làm dựng tóc gáy những kẻ nào sợ chích như Dương. Cô y tá lấy làm ngạc nhiên khi thấy trong phòng bệnh mà lại vang tiếng cười, vui như trong phòng trà. Bằng một giọng êm dịu giả tạo, cô hỏi Dương:

– Trung úy đỡ được chút nào không?

Dương nháy mắt:

– Tôi có bệnh gì đâu? Bây giờ, chỉ có một bệnh rất nặng, đó là bệnh … đói.

Cô y tá vẫn dịu dàng:

– Để tôi nói lao công mang cháo lên cho Trung úy.

– Không, tôi không ăn cháo. Ăn cháo hay uống sữa, sợ bị hóc. Cô làm ơn nói với Câu Lạc Bộ của Bệnh viện, cho tôi một miếng “bí-tết” có khoai tây, có “xà-lát”. Mà là “bí-tết đúp” đấy nghe không, nàng tiên của bệnh viện!

Cả ba người ngồi cạnh bệnh nhân, sau câu nói rất hùng hồn của bệnh nhân, đều ôm bụng cười. Cô y tá lúc đó mới biểu diễn vài nét chua ngoa. Cô nguýt một cái, tưởng như nghiêng cả mặt đất, mở cửa đi ra, rồi đóng cửa lại một cách mạnh tay. Lúc ra, cô quên không mang theo cái khay dụng cụ đồ nghề.

Tâm nói, sau khi dứt tiếng cười:

– Đấy Phượng coi. Nó, còn nói đùa nói hỗn được như thế, mà cứ lo nó chết. Những thằng lái tàu bay, một là tan xác, hai là còn nguyên vẹn, ít khi nào xảy ra vụ phải xếp loại cấp độ tàn phế. Phượng đừng có lo, nó vẫn có thể làm chồng được một cách rất tận tình, và hung hãn.

Phượng la lên:

– Anh Tâm ăn nói nham nhở quá!.!.

Lúc nầy, Dương mới thắc mắc về sự có mặt của Phượng nơi căn phòng bệnh viện nầy. Những ngày trốn chạy trong rừng để tìm cái sống, những đêm chờ sáng dài dằng dặc, lúc nào Dương cũng nghĩ tới Phượng nên khi Phượng hiện ra, bàn tay mát dịu đặt lên trán chàng, khuôn mặt cúi xuống, chàng không ngạc nhiên với sự xuất hiện của Phượng.

Nhưng tới bây giờ, nhớ lại tất cả những chuyện đã qua, chàng mới thấv ngạc nhiên. Phượng vẫn đẹp như ngày xưa. Cũng vầng trán thanh tú, vài lọn tóc lòa xòa trước trán, vẫn đôi môi cười nhí nhảnh, cũng vẫn đôi mắt tinh nghịch. Nhưng nhìn kỹ lúc Phượng cười, Dương thấy vài nét nhăn lờ mờ sau đuôi khóe mắt. Thời gian ấy vậy mà đã năm năm.

Biết ý Dương, Tâm bèn giải đáp thắc mắc:

– Lúc thay bộ đồ bay của mầy để mặc bộ đồ xanh bệnh viện, tao móc hết các túi của mầy để kiểm soát, thì thấy lá thư của Phượng, lá thư mà mầy đã cho tao đọc ở Câu Lạc Bộ. Nhìn thấy địa chỉ của cô bé ghi trong thư, tao bỗng nảy ra ý kiến là thử tới đó báo tin về mầy xem sao. Cô nàng khóc như mưa, như gió đòi tới thăm mầy ngay tức khắc. Tao chờ cô nàng thay quần áo 5 phút, một tốc độ kỷ lục của người đàn bà lúc ra khỏi nhà. Tới đây rồi mà cô nàng vẫn khóc, chỉ sợ mầy chết.

Phượng bĩu môi:

– Phượng mà khóc à? Còn khuya!…

Phượng vẫn còn giữ được cái lối trả lời trẻ con như dạo nào. Thì Phượng vẫn còn trẻ con lắm, mới có hăm hai tuổi. Dương lại hỏi:

– Thế cô Thư Hương?.. tới chỗ lính đói làm cái gì?

Tâm trả lời hộ Thư Hương:

– Còn Thư Hương thì cũng đòi vào thăm thầy giáo cũ của nó, coi xem trong mấy năm, nhà binh nó hành ông giáo của nó có khác gì ngày xưa không?… Nó kể về chuyện dạy học của mầy lúc trước, làm tao lại thấy giận mầy. Nhiều chuyện hấp dẫn như thế mà cứ kín tiếng…

– Mầy còn kín tiếng hơn tao nữa…

Cô y tá lại đẩy cửa đi vào, theo sau đó một đứa nhỏ của Câu Lạc Bộ, mang theo một cái mâm, trên có một miếng “bí-tết” to tổ bố, thêm một đĩa khoai tây và “xà lát”. Dao, nĩa bày bên cạnh rất gọn gàng. Vừa nhìn thấy những thứ đó, Dương đã thấy nước miếng ứ lên đầy miệng. Nếu không có Phượng và Thư Hương ở đây, chắc chàng cũng đùa cô y tá vài phát cho vui.

Chàng định làm ra cái điều mệt mỏi, để cho cô y tá phải đỡ chàng ngồi đậy, khi ngồi dậy được nửa chừng, chàng sẽ vùng lên cho cô y tá hụt tay, rồi tung mền chạy một mạch đến bàn ăn. Đóng được màn kịch đó chắc chàng và Tâm sẽ được một bữa cười thỏa thích nhưng bây giờ, có Phượng, có Thư Hương nên chàng không dám làm như vậy.

– Trung úy ngồi dậy được không?

Tâm cười:

– Cô làm ơn đỡ nó dậy một chút!

Tâm nhìn Dương nháy mắt nhưng Dương lờ đi, không muốn đùa rỡn nữa. Chàng ngồi dậy đi ra phía bàn, kéo ghế ngồi. Chàng cắt từng miếng thịt lớn, lưỡi dao đi thật ngọt. Chưa bao giờ chàng ăn một miếng “bí-tết” ngon như thế. Xé mẩu bánh mì, chàng lau sạch chiếc dĩa đến bóng loáng.

– Ăn như mầy thì chó của Câu Lạc Bộ nầy không còn sơ múi được gì…

Tuy rằng nói thế, nhưng thấy Dương ăn khoẻ như vậy, Tâm rất mừng. Đã mấy ngày nay, chàng đã lo nhiều cho Dương, nhiều khi muốn phát khóc. Khi Dương còn kẹt nơi căn nhà lá ven rừng, mỗi lần kéo phi cơ lên, khuất bóng căn nhà ấy, không được nhìn thấy nó, Tâm lại bồn chồn lo sợ.

Chỉ lo rằng, kẻ địch lợi dụng lúc chàng không bảo vệ được, mà chạy tới đó, bắt đi người bạn mà chàng thương nhất, yêu nhất. Lúc trời tối, không còn nhìn thấy cảnh vật gì ở dưới đất, chàng vẫn còn lượn vòng ở trên cao nhìn xuống. Thấy đạn lửa xiên ngang trong bóng tối ven rừng, chàng đã khóc, coi như số mạng của Dương đã tuyệt rồi.

Những ngày hôm sau, ngày nào chàng cũng ngồi trên phi cơ để tìm kiếm. Khi tìm thấy Dương, đưa được Dương về bệnh viện, chàng mới chạy về thăm nhà, để có được người thân, nói được hết sự vui mừng…

Dương hỏi Tâm mà mắt liếc nhìn Thư Hương:

– Mầy về nhà vui vẻ chứ? Ông cụ, bà cụ đã trách móc câu nào chưa?…

Lúc này, Tâm mới chớp mắt thật buồn:

– Tao đã để ông cụ, bà cụ được nói câu nào đâu. Vừa về đến nhà, tao đã nói về chuyện của mầy. Bởi thế, cả nhà cứ rối loạn lên vì cái thằng mầy, bị bắn rớt tàu bay lạc trong rừng ba ngày, ba đêm mà không chết.

Tâm ngừng ngay câu chuyện, vì chợt nhớ ở trong phòng này còn có người lạ. Phượng và Thư Hương không phải là người lạ. Mà người lạ là cô y tá và chú nhỏ của Câu Lạc Bộ, đang chờ cho Dương ăn xong để dọn dẹp. Lúc Dương ăn tới mẩu bánh mì cuối cùng, cô y tá hỏi:

– Trung úy có cần chích thuốc không?

Dương lắc đầu:

– Không… Xin cô nói với Bác sĩ cho tôi xuất viện. Cô đã chứng kiến tôi ăn uống như thế nào rồi đó. Khoẻ như tôi, mà cứ nằm ở đây, thì tôi rất lo sợ cho cô… Cơm no, ấm cật…

Dương kìm hãm được một lời nói đùa thật nham nhở. Cái tật của lính tàu bay là nói chuyện với đàn bà con gái, không khác gì nói chuyện với đàn ông con trai. Cô y tá và chú bé đi ra khỏi phòng. Dương đưa tay ra mở thật rộng cánh cửa sổ. Nắng bò vào tới nửa căn phòng, lấn cả tới chỗ Dương nằm.

Ngày hôm nay, trời thật đẹp. Dương muốn chạy ra ngoài nắng, leo lên cây trứng cá mọc la đà ngoài sân, hái những trái trứng cá màu đỏ sậm mọng nước. Nhìn vào tấm gương treo ở trên tường, chàng thấy hiện ra khuôn mặt của chàng, với bộ râu ria rậm rạp. Chàng trách Tâm:

– Sao mầy không đem dùm tao vài lưỡi dao cạo, để tao sửa soạn lại nhan sắc?

Tâm cười:

– Mầy để râu ria như thế này trông đẹp trai hơn. Tao đề nghị là mầy nên giữ bộ râu nầy để làm kỹ niệm những ngày ở trong rừng. Tao phục mầy lắm. Từ chỗ mà mầy rớt tàu bay, tới chỗ chúng tao lượm được mầy lên, quãng đường ít ra cùng tới gần một trăm cây số. Với ba ngày mà mầy vượt được quãng đường đó, mà lại là đường rừng, tao chắc rằng, nếu chịu khó tập luyện, mầy có thể đoạt được kỷ lục về đi bộ.

Phượng nhí nhảnh:

– Lúc nào anh Dương phải kể chuyện vượt rừng của anh cho Phượng nghe. Chắc là hấp dẫn lắm.

Dương để ý rằng từ lúc nãy tới giờ, Thư Hương nói rất ít. Cô bé chỉ nói có một câu, khi được Dương hỏi tới. Còn thì từ lúc đó đến bây giờ cứ im lặng, lâu lâu chỉ cười nửa miệng. Màu áo của Thư Hương mặc, cũng là một màu tối, khác hẳn với màu áo đỏ đến nhức mắt của Phượng.

Ngày xưa, Dương đã hỏi Phượng có bao nhiêu chiếc áo. Lúc nào cũng chỉ thấy Phượng mặc áo màu đỏ. Tên của Phượng mang hình ảnh một loài hoa chói sáng mùa hè, nên Phượng muốn làm cho chiếc áo đỏ thành một dấu hiệu của Phượng…

– Cô Thư Hương có vẻ ít nói. Ngồi với chúng tôi, chắc bực mình lắm?

Lần thứ hai, Dương được nghe tiếng nói của Thư Hương:

– Em đâu có bực mình. Cũng muốn nói chuyện lắm, nhưng chẳng có chuyện gì để nói. Ngày anh Tâm ở nhà, anh ấy cũng câm lặng như em, không hiểu sao đi lính có mấy năm mà đấu kỹ quá.

Tâm trở lai nét măt buồn:

– Anh muốn đưa em ra khỏi cái không khí câm lặng của gia đình chúng mình, để em được vui đùa đúng với cái tuổi của em. Nhưng mầy lại là con gái, nên hơi kẹt. Nhưng thôi, từ giờ tao với thằng Dương và Phượng sẽ về nhà luôn luôn, quấy phá nghịch ngợm cho loãng cái không khí đặc sệt ấy đi. À, này Dương! Bà cụ mời mầy với Phượng, hôm đầu tiên ở đây ra, phải về nhà ăn cơm đấy.

– Đồng ý!

Tâm nói tiếp:

– Bà cụ nhà tao cũng có quen với bà cụ nhà mầy. Khi tao kể đến mầy, con của bà Tham Cảnh, là bà Cụ tả được mầy ngay. Bà cụ cũng nói rằng khi di cư, cũng có rủ bà cụ của mầy cùng vào nhưng vì thương hai thằng anh của mầy mới ở ngoài kia về, nên bà cụ nhà mầy ở lại, có đúng như vậy không?

Dương ngồi bó gối trên giường, cố nhớ lại những chuyện xảy ra rất xa… Hai người anh của chàng, đi theo kháng chiến từ những ngày chàng còn bé lắm. Lâu lâu lại nhắn người về nhà xin tiền. Có nhiều lúc bốc đồng, chàng định đi theo người liên lạc, ra ngoài đó thăm anh, nhưng nghe người liên lạc nói rằng xa lắm, mãi tận đất Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh, đôi chân của chàng nhỏ quá, không đi bộ tới được, chàng lại thôi. Những lời Tâm nói, gợi cho Dương nhớ tới gia đình, còn sống ở ngoài kia, mà không biết bao giờ, chàng mới gặp lại.

– Bà cụ định làm một bữa cơn sum họp gia đình. Có tao, mầy, Phượng, Thư Hương và chồng sắp cưới của Thư Hương

– Hương sắp lấy chồng?.

Thư Hương e lệ, gật đầu một cách ngoan ngoãn:

– Dạ!…

– Người hùng làm nghề gì?

Cô con gái ngước mặt lên một cách kiêu hãnh:

– Dạ, thưa anh Hoạt đang học Y khoa và sắp sửa ra trường.

Phượng reo lên một tiếng thật vui:

– A, hoan hô! Cô giáo mà lấy ông Đốc thì đẹp đôi quá rồi. Chúng mình cần phải ăn cho nhiều, uống cho say để mừng cho Thư Hương và anh Hoạt. Có nên như vậy không anh Dương?

Thư Hương tiếp lời:

– Và mừng cho chị Phượng và anh Dương nữa chứ?

– Cái đó là điều bắt buộc.

Ngôn ngữ của Phượng hồi này thật tiến bộ, nghe nhiều lúc thật chối tai, nhưng mà cũng rất êm tai. Phượng dùng những thành ngữ mới một cách rất tự nhiên, coi như những tiếng đầu lòng học nói. Cả Dương và Tâm cũng khoái những ngôn ngữ đó. Và Thư Hương, dù không muốn, cũng thỉnh thoảng pha lẫn vào câu nói mà không để ý.

Trong cái giây phút yên lặng ấy, chợt nghe thấy Thư Hương thở dài:

– Anh với chị Phượng mà ở chung một nhà, chắc là sẽ vui lắm. Căn nhà, chẳng bao giờ tắt được tiếng cười.

Dương gật gù cái đầu:

– Có, có chứ. Đó là những lúc mà cả hai đứa đều không biết làm thế nào để có tiền, trong lúc mà bà chủ nợ đang đứng ngoài cửa, nói như rứt ra từng miếng thịt.

Phượng lè lưỡi:

– Anh nói làm cho Phương… thấy ghê!

Không phải vô tình mà Dương nói như vậy. Câu này cũng không phải là một câu nói đùa cho vui, mà chính là nói thật với lòng mình. Phượng hay Thư Hương, dù sao cũng chưa va chạm nhiều với cái thực tế phũ phàng. Chàng nghĩ tới vợ chồng Hậu và Hằng.

Hai đứa khi chưa lấy nhau, dệt nên bao nhiêu những mộng đầy hoa đầy bướm, nhưng từ khi phải đưa nhau vào ở trong cái Trại Gia Binh, Hậu rất chán đời. Hằng thì tuy cười đùa đấy, nhưng thật ra trong lòng cũng nhiều nỗi khổ tâm riêng, không nói ra được.

Dương muốn nói lên nhiều nữa, nói vài câu cay đắng với cuộc đời, nhưng thấy không nên làm vẩn đục cái không khí vui vẻ của buổi họp hôm nay nào có ích gì. Chàng hỏi thăm Tâm về tất cả những người bạn ở Phi Đoàn. Chàng bùi ngùi cảm động khi nghe Tâm kể rằng, tất cả mọi người gần như bật khóc khi nghe tin tàu bay của Dương bị rớt, chỉ còn một hy vọng sống sót rất mong manh.

Thằng An thi sĩ ngồi khóc rất ngon lành, rồi làm được một bài thơ tưởng niệm, đọc lên nghe mùi lắm.

– Nhưng nghe tin mầy còn sống, nó đã đốt đi rồi. Hôm qua, lúc mầy còn ngủ li bì, nó cũng có vào thăm mầy, cùng với anh Tư.

Dương lại đổi giọng, nói đùa:

– Hoài của, tiếc quá! Biết vậy thì tao chết đi, có phải nền thi ca xứ mình lại có thêm một bài thơ tuyệt tác của thi sĩ An. Nhưng anh Tư tới thăm tao rồi có nói gì không?

Anh Tư mà Tâm và Duơng nói tới, là ông Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Phi Đoàn. Chàng và các bạn chàng thường thân mật, gọi ông Chỉ huy trưởng là anh Tư, hay là ông chủ. “Có mặt anh Tư trong cuộc vui hôm nay, thì anh Tư trả tiền là một điều bắt buộc.” “Cái đó là quyền của ông chủ”. Những câu đó là những câu thường nghe, phát xuất từ miệng những người phi công trẻ.

Anh Tư rất hiền lành, ít nói nhưng không thằng nào dám qua mặt. Sự thương yêu đối với nhân viên thuộc Phi Đoàn, nhiều lúc anh Tư đã tỏ lộ ra ngay trong nét mặt. Có rất nhiều giai thoại về anh Tư. Một hôm, anh Tư ra ngoài cổng trại mặc áo bay nhưng không mang lon, đã bị anh chàng Trung sĩ điếm trưởng đuổi trở vào, mặc dù anh Tư năn nỉ, chỉ xin ra trong mười lăm phút, mua một gói thuốc lá ở gần đấy, rồi lại trở vào ngay.

Anh chàng Trung sĩ bắt anh Tư phải vào thay quần áo, đội mũ mang lon, đàng hoàng rồi mới cho ra. Lúc trở ra cổng thấy anh Tư là Thiếu Tá, anh chàng Trung sĩ sợ quá, xin lỗi rất ư là khổ sở, nhưng anh Tư chỉ cười.

Dương nhắc lại:

– Anh Tư nói gì về tao?.

– Lúc anh Tư tới thì có Phượng ở đây. Ý của anh Tư là muốn cho mầy được nghỉ ngơi ít lâu, bằng cách cho mầy về làm ở một bàn giấy tại Sài gòn. Tao trả lời là nên hỏi ý kiến của mầy. Rồi tao chỉ sang Phượng, giới thiệu là vợ chưa cưới của mầy, thì anh Tư lại hỏi ý kiến của Phượng. Nếu tao nhớ không lầm thì lúc đó, Phượng cũng đã gật đầu.

Dương tức bực với Phượng:

– Cô hơi lộng quyền đấy nhé! Ai cho phép cô được quyết định cuộc đời tôi?…

Khuôn mặt của Phượng đang tươi cười chợt nặng ngay xuống. Đôi mắt chớp thật mau, và những giọt nước mắt có lẽ sắp sửa tuôn ra. Phượng đau khổ:

– Tại lúc đó, Phượng nhìn thấy anh tiều tụy quá. Phượng nghĩ rằng, anh cũng nên nghỉ bay ít lâu. Chỉ chừng một năm, rồi khi chúng mình cưới nhau xong, anh lại trở về Phi Đoàn đi bay lại. Phượng xin lỗi anh.

Tâm cũng ôn tồn, khuyên giải:

– Chỉ vì Phượng yêu mầy.

Dương chợt thấy hối hận vì đã quá gay gắt với Phượng. Cách xa năm sáu năm trời, lúc gặp nhau lại có chuyện gây lộn nữa, thì chắc khó có thể hàn gắn. Chàng đưa bàn tay ra, nắm chặt lấy tay Phượng. Bàn tay mềm mại mát lạnh nằm gọn trong bàn tay đầy chai và cứng. Dương nhìn Phượng rồi mỉm cười để Phượng phải la lên:

– Anh làm đau tay Phượng.

Dương cười bảo Tâm:

– Chắc anh Tư và chúng mầy coi tao sau một lần thoát chết, đã trở thành một thứ “đại bàng lạnh cẳng”.

– Tụi tao không nghĩ thế!

Phượng lại xen vào câu chuyện:

– “Đại bàng lạnh cẳng” nghĩa là làm sao hả anh?

Cả Tâm và Dương cùng cười vang. Giảng nghĩa cho Phượng, có nghĩa là làm cho Phượng thâu thập được một danh từ mới, lâu lâu lại mang ra áp dụng rất bất ngờ. Tâm nói:

– Tao để đành cho mầy việc giảng nghĩa…

– Anh giảng nghĩa cho Phượng nghe đi anh Dương.

Dương sửa lại một bộ mặt trịnh trọng của một thầy giáo sắp giảng bài:

– Phượng có bao giờ nghe chuyện ma không? Thuở nhỏ, mà được nghe chuyện ma tới đoạn nào sợ quá, thường rút cẳng lên, ngồi thu lu trên ghế hay trên giường. Hành động đó được coi là lạnh cẳng. Như vậy lạnh cẳng có nghĩa là chết nhát, là sợ ma, là thỏ đế. Đối với giới lính tàu bay, thì danh từ đại bàng lạnh cẳng còn có nhiều nghĩa khác nữa.

– Anh nói cho Phượng nghe hết đi…

Thấy Phượng đòi phải kể hết những chuyện về “lạnh cẳng” Dương lại thấy ngần ngại. Một danh từ mới đầu mang ra dùng thì còn mang một ý nghĩa. Nhưng rồi nếu dùng lâu, tự nhiên sẽ biến thành một nghĩa khác, có nhiều khi trở thành vô nghĩa. Trong một đám đánh bạc, có một tên đang thắng, vồ được một ít tiền lẻ, đã nhấp nhổm định thôi, thì thế nào cũng có thằng hỏi:

– Sao mà lạnh cẳng sớm thế?…

Lúc đó, danh từ lạnh cẳng có nghĩa là một sự ăn non, ăn chắc… Nhưng nói chung, khi bàn về danh từ lạnh cẳng, thì chẳng có một ý nghĩa gì đẹp. Chẳng cho người mang nó một vinh dự nào. Và nghĩ tới chuyện đánh bạc, Dương lại nghĩ tới trong túi mình chẳng có một đồng bạc nào. Chàng hỏi Tâm:

– Mầy còn tiền không?…

– Còn chứ! Nhiều nữa là đằng khác.

– Vậy thì để lại ở đây cho tao một ít…

Tâm đứng đậy rủ Thư Hương đi về, để lại Phượng ở đây…

Chàng mở ví, vét hết tiền trong đó, còn được mấy ngàn đồng, ném lại cho Dương. Từng tờ giấy bạc bay 1ả tả như những cánh bướm.

– Ê giữ lại vài trăm, nếu đụng phải bánh tráng thì… hết đời con trai.

– Khỏi cần!

Sau câu nói ấy, Tâm đã thoát ra khỏi phòng. Lúc có mặt Tâm và Thư Hương ở đây, thì Phượng và Dương tự nhiên là thế, nhưng tới bây giờ, chỉ có hai người thì tự nhiên lại ngượng ngập. Không ai muốn nói trước. Rồi thì bốn mắt gặp nhau và hai bàn tay nắm chặt. Dương gọi thì thầm:

– Phượng.

– Dạ!

– Trong mấy năm nay. Phượng đã làm gì, Phượng kể cho anh nghe di.

Tiếng Phượng thật êm, thật nhẹ:

– Phượng ăn, ngủ, đi chơi và…nhớ anh…

– Anh cũng nhớ Phượng lắm!

Dương đã đứng sát vào Phượng Vòng tay mở ra ôm thân hình mảnh mai. Màu áo đỏ như lẫn vào mầu áo xanh bệnh viện. Cặp má mịn màng của Phượng áp vào má có râu mọc lởm chởm của Dương làm cho Phượng cảm thấy một sự nhột nhạt thích thú. Nhìn qua vai Dương, Phượng thấy bầu trời hồng ráng chiều, những ngọn cây đu đưa lơi lả.

Rồi một ngọn gió mạnh thổi qua, những ngọn cây ấy đầm đầm ép xuống, rồi lại bật lên, hoa lá rụng tơi tả xuống lối đi trải sỏi. Nhưng rồi khuôn mặt của Dương che lấp mắt Phượng. Tất cả chỉ còn mờ nhạt.

Phượng nhắm chặt mắt lại, không còn nhìn thấy gì, và chỉ còn hơi vị ngọt ngào thấm qua môi. Bàn tay Dương xoa nhẹ trên lưng Phượng, có đường rãnh hằn sâu, đôi bả vai co lại như gặp một cái lạnh bất chợt. Phượng bàng hoàng và mê sảng như trong một cơn mê nhẹ bồng bềnh.

Lúc hai người buông nhau ra, thì ngoài sân đã gần tắt nắng và đầy những bóng cây chạy dài.

Phượng thì thầm:

– Râu của anh làm em nhột quá…

Sau đó là tiếng cười của Dương. Hai người dắt tay nhau đi vào nắng chiều. Đã mấy hôm nay, Dương mới lại được đi dạo chơi một cách thanh thản, bên cạnh lại có Phượng, có một người con gái mà Dương vẫn hằng yêu và nhớ nhung đến khoắc khoải.

Những bước chân chậm rãi đạp lên sỏi trắng. Cỏ tươi xanh mơn mởn. Cách đây có vài ba hôm, cũng trong buổi chiều gần tắt nắng như hôm nay, Dương đã ngồi ở một căn nhà lá ven rừng, bên cạnh cũng có một người con gái, để chờ bóng tối đến như một nỗi hy vọng mong manh, kèm theo với tuyệt vọng tràn đầy. Chàng đã thoát được cái chết ấy, thì cũng được kể như đã được tái sinh.

Thấy Dưong lặng im không nói, Phượng hỏi

– Anh đang nghĩ gì vậy?

Giọng của Dương xa xôi:

– Anh đang nghĩ tới một người con gái.

Câu trả lời của Dương đến với Phượng quá bất ngờ. Nếu Dương nói câu này với một giọng đùa cợt thì không làm cho Phượng để ý. Nhưng mặt Dương nghiêm trang quá, giọng nói của Dương tỏ lộ đầy vẻ kính cẩn. Phượng như muốn bật lên khóc.

Nỗi ghen tức dậy lên làm cho Phượng nghẹn ngào. Giá mà Phượng gào lên được, cào cấu được Dương thì chắc Phượng sẽ sung sướng lắm, hả hê lắm. Nhưng Phượng không làm như vậy được, vì tính Phượng càng đau khổ lại càng phải cười đùa nhiều.

Bởi vậy Phượng nuốt thật mạnh cho sự nghẹn ngào trôi đi, rồi Phượng hỏi Dương:

– Cô ta tên là gì vậy anh?

Tuy đã tránh được nghẹn ngào trong câu nói, nhưng Phượng nghe giọng của Phượng như được vẻ mỉa mai, liếc mắt nhìn sang Dương, vẫn thấy một khuôn mặt buồn thần thánh. Tiếng Dương thoảng qua như một cơn gió:

– Anh cũng chẳng biết tên cô ta là gì nữa.

– Tại sao vậy?

– Tại vì anh chưa kịp hỏi tên cô ta…

Phượng ngạc nhiên và thấy câu chuyện có vẻ lạ lùng.

Nàng nhí nhảnh hỏi thêm:

– Cô ta có đẹp không?

– Tới bây giờ, anh chỉ nhớ mặt cô ta cách rất mơ hồ. Nói rằng đẹp thì cũng không đúng. Mà nói là không đẹp thì lòng anh ân hận lắm. Vì cô ta là một con đĩ…

Một viên đá nằm ở giữa lối đi. Dương vấp phải viên đá. Ngón chân đau nhói lên làm cho chàng bừng tĩnh. Ồ, tại sao mình lại nói chuyện đó với Phượng, nói một cách không có đầu, không có cuối, để gieo sự nghi ngờ cho mối tình đẹp quá như thế nầy. Nỗi buồn như thoát được ra ngoài. Chàng dìu Phượng tới một cái ghế đá:

– Em ngồi xuống đây, anh sẽ kể hết câu chuyện ấy cho em nghe.

Phượng ngoan ngoãn theo đà đưa đi của cánh tayDương. Nàng ngồi xuống ghế đá. Nghe tiếng “em” mà Dương gọi, Phượng cũng cảm thấy một sự êm dịu, một tiếng mời gọi rất ngọt ngào. Dương kể câu chuyện buổi chiều đầu tiên ở ven rừng. Người con gái ấy đã cứu chàng thoát chết. Như một câu chuyện lạ lùng, chỉ có được trong huyền thoại.

Dương say sưa kể… Câu chuyện ấy đã làm Phượng nước mắt rưng rưng. Thì đã nói, Phượng cũng vẫn là một đứa con gái bé nhỏ, tình cảm đầy ấp trong lòng. Phượng ôm chặt lấy đầu Dương áp vào ngực:

– Em thương anh quá!…

Tiếng em cũng từ miệng Phượng thốt ra mà Phượng không để ý…

Ngày trước Phượng hay đả kích chê bai những cặp tình nhân xưng anh và em với nhau. Cứ anh anh, em em với nhau cả ngày, nghe sốt cả ruột. Nhưng rồi Phượng và Dương cũng bị vướng vào qui lệ ấy. Tiếng anh và em vụt nói ra như sự diễn tả đầy ắp tình yêu.

Hai người ngồi sát bên nhau yên lặng thật lâu rất lâu…. Thời gian trôi đi mau quá.

Một vài thương bệnh binh đi qua, trước mặt hai người. Không ai để ý tới sự có mặt của đôi nhân tình nhỏ bé. Cảnh đó diễn ra ở đây rất thường. Còn nhiều cảnh thê thảm gấp trăm, gấp ngàn lần. Tình cảm của con người, khi đã vào tới đây như cao thượng và siêu thoát hẳn lên. Đèn đường trong bệnh viện vừa bật sáng.

Phượng chậm rãi đứng lên:

– Phượng phải về. Đã quá giờ thăm viếng rồi.

Dương còn tiếc rẻ nắm chặt tay Phượng:

– Ngồi với anh một lát nữa.

– Thôi Phượng về. Sáng mai Phượng sẽ vào sớm..

Dương đi cùng với Phượng ra ngoài cổng, ngừng lại ở chỗ cổng điếm canh để Phượng lấy thẻ căn cước. Dương định làm việc đó dùm Phượng, nhưng Phượng không bằng lòng. Chỉ cần suy nghĩ một chút Dương cũng hiểu.

Đàn bà, con gái không muốn cho ai nhìn thấy tấm hình dán trong thẻ căn cước của mình. Những ông thợ chụp hình để làm căn cước, không phải là những nhiếp ảnh gia mỹ thuật. Dương đứng cười một mình.

Phượng dơ tay vẫy Dương, khi ra khỏi chiếc cổng sắt. Dương nhìn qua chấn song, mà thấy mình như một người tù, như một con chim bị nhốt trong lồng. Phượng leo lên một chiếc tắc xi, và Dương nhìn theo chiếc đèn đỏ sau xe, cho tới khi khuất vào đầu phố tối đen.

Tư tưởng giam tù theo bước chân Dương, từng bước từng bước, trở về căn phòng bệnh viện. Đây chỉ là một bệnh viện, không phải là nơi giam cầm Dương. Chàng muốn thoát ra lúc nào cũng được. Vậy thì nơi giam cầm ấy là đâu? Chàng thấy cái tự đo được hưởng hiện nay chỉ là một thứ tự đo giả tạo. Như một loài chim, tuy không bị nhốt trong lồng, nhưng vẫn không thể bay xa…

“Thân ta không phải là của ta. Lúc nhỏ là của cha mẹ, của học đường. Lớn lên là của xã hội, và khi già là của hậu thế”. Như vậy, không có một lúc nào thuộc về chính mình? Dương chưa thấy lúc nào được hưởng sự sung sướng đó, họa chăng, mỗi ngày, mấy chục phút ngồi trong cầu tiêu…

Ý nghĩ ấy làm Dương thêm chán nản. Chàng đẩy cửa vào phòng. Căn phòng còn như vướng vất chút hơi phấn son, và mùi trinh nữ của Phượng, của Thư Hương.

Những tờ giấy bạc mà Tâm vứt lại hồi nãy, vẫn còn vương vãi trên mặt nền đá hoa. Chàng lượm lại từng tờ… Hồi nãy chàng định lấy tiền của Tâm, mời Phượng xuống Câu Lạc Bộ, ăn với nhau một bữa cơm, uống với nhau một ly nước, nhưng chàng đã quên đi. Định ngồi ở ghế đá, cạnh con đường trải sỏi, chờ cho mặt trời còn thoi thóp chút nắng vàng, sẽ trở về phòng lấy tiền, rồi xuống Câu Lạc Bộ. Nhưng thời gian đi quá mau. Hai đứa ngồi cạnh nhau, tận hưởng phút yêu đưong, đến nỗi khi đèn trong bệnh viện bật sáng mới hay biết là đã hết giờ thăm bệnh.

Chắc Phượng đã về đến nhà rồi. Chàng tự nhủ thầm như vậy. Phượng ơi, anh nhớ Phượng! Bây giờ, Phượng đang làm gì dây?… Phượng ngồi một mình để nhớ tới anh, hay đang ríu rít nói chuyện với Yến với Loan.

Chàng nằm dài trên giường và khuôn mặt Phượng còn như phảng phất quanh đây, đang nở một nụ cưòi lặng lẽ… Rồi hình ảnh của Phượng nhòe nhẹt đi, để hiện lên khuôn mặt người con gái ở ven rừng, mắt khắc khoải nhìn chàng. Trên đầu người con gái còn đội chiếc mũ “dô-kề” màu đen mà chàng tặng. Dương mở bừng mắt, nhìn lên ngọn đèn trên trần cho tới lúc lóa mắt, để phải nhắm nghiền mắt lại.

Với gần sáu năm trong quân đội, lần đầu chàng thấy luyến tiếc sự tự do. Có lẽ hồi chiều, Tâm đã báo cho chàng biết sau khi rời bệnh viện, chàng sẽ phải về làm ở một bàn giấy. Chàng nhớ tới buổi tiễn đưa một người bạn vì bị thương trong một tai nạn, về không còn bay được, người bạn ấy cũng phải về làm ở văn phòng.

Đêm hôm đó, chàng và lũ bạn đã uống một bữa thật say. Thằng An thi sĩ đã làm một bài thơ, mà bây giờ, chàng chỉ còn nhớ được loáng thoáng vài ba câu.

“Chim bằng xếp cánh, không tung gió

“Có khác chi loài chim chích đâu?…

Đó không phải là một bài thơ. Gọi là một bài hành, có lẽ đúng hơn. Những bài hành, thường có chất ngang ngang của ngôn ngữ.

Dương nhớ lúc đó, An đã say lắm. Những câu thơ của đoạn kết bài hành, nghe như những tiếng thở dài. Chất thơ trong những bài hành, bao giờ cũng là chất thơ say…

“Mầy đi…mầy đi…sau đêm nay

“Tao say, ói mửa đầy khăn tay.

“Mầy coi như là chưa hề bay.

“Đời coi như hề…chưa có mầy.

Dương định rằng, sau khi nhận lệnh thuyên chuyển, làm thủ tục giấy tờ để đi xong xuôi, sẽ cố xoay tiền để uống với bạn bè một bữa thật say… Coi như chấm dứt cuộc đời bay bổng… Dương không muốn coi như là chuyện tạm biệt. Cứ coi như là chấm dứt. Rồi tới khi nào trở lại với nghề bay, lại làm một bữa tiệc tái hồi… Nghĩ đến việc ăn uống, chàng lại nhớ ngày phải tới ăn cơm tại nhà Tâm.

Chỉ trong nửa tháng, cuộc đời chàng đã có thật lắm chuyện. Từ vụ nhận được thư Phượng, rồi thì tai nạn xảy ra, và cuộc đời hoàn toàn đổi khác. Đang được sống một cách thư thái, bay xong một phi vụ là về phòng, có quyền đi ăn chơi vung vít, phải rời bỏ nghề mình, ngồi ở một văn phòng, để cho hàng ngày, cuộc sống không có gì thay đổi chẳng khác gì một thứ công chức già…

Ngày mai, Dương sẽ phải đến nhà Tâm. Chắc chàng sẽ buồn lắm, vì nhìn thấy gia đình Tâm đoàn tụ. Cô em gái Thư Hương, mặt sẽ hồng lên, ngồi bên cạnh người yêu, nhìn người anh vừa từ vùng sương gió trở về với êm ấm gia đình. Dương chắc rằng người sung sướng nhất của ngày mai là Thư Hương, rồi người thứ nhì là mẹ Tâm.

Mẹ Tâm nói là bạn của mẹ chàng. Nhưng chàng chẳng nhớ được hết những khuôn mặt của các bà đã đến chơi nhà chàng. Thời gian lâu quá rồi còn gì… Thuở nhỏ, chàng vẫn mang tiếng là một thằng lang thang. Tiện đâu, thì ở lại đó. Cả nhà chàng đều coi chàng như là một lãng tử. Đã có một lần, mẹ chàng bảo chàng:

– Chắc là lúc mẹ chết, muốn tìm thằng Dương cũng chẳng biết tìm kiếm ở đâu.

Tuy rằng chỉ là một câu nói đùa, nhưng cũng làm cho chàng hối hận. Vì vậy, chàng ở nhà được nửa tháng. Nhưng rồi nghe lời bạn rủ đi chơi, chàng lại đi. Thích lang thang, nhưng chàng vẫn là một đứa con hiếu thảo rất thương cha, thương mẹ. Không biết tới bao giờ, gia đình chàng mới được đoàn tụ đầy đủ mặt của tất cả mọi người.

Chàng không muốn nghĩ tới nữa… Công việc ở bàn giấy, chắc rồi đây sẽ chán vô cùng. Ngày trước, mỗi lần phải đụng vào công việc giấy tờ, như thảo văn thư, làm một lá đơn, Dương vẫn lúng túng, ngượng ngập. Đã một lần, Dương và các bạn đã đứng trước một văn phòng chửi bới um sùm, khi thấy một tên làm văn phòng, túm cổ được một phát huy chương với ngôi sao vàng cẩn thận. Hình như Tâm đã nói một câu rất nặng. “Một lũ ngồi mát ăn bát vàng, hưởng thụ trên xương máu của tụi mình”.

Lũ người ngồi trong văn phòng, có lẽ cũng nghe thấy, vì tụi chàng nói rất lớn tiếng, nhưng đành lờ đi. Biết làm gì chúng nó bây giờ? Không đánh đấm con mẹ gì mà lại có anh dũng bội tinh, thi bị chửi là đáng lắm rồi. Dương lại nghĩ tới thân phận mình, rồi đây. Khi ngồi ở bàn giấy, chàng cũng sẽ lại thu mình vào bốn bức tường, càng ngày càng thấy mình nhỏ bé, để thấy bốn bức tường càng ngày càng thu hẹp lại, ép lấy con người.

Khi đã ngồi được yên trên một chiếc ghế rất ngại sự đổi thay. Muốn đổ chì vào trong quần, để ngồi cho chắc. Chàng chưa thấy một người nào đã làm ở văn phòng, mà lại tự ý xin ra phi đoàn. Con người khi đã vào được nơi yên ấm, sẽ nghĩ tới những hiểm nguy đã trải qua rồi sợ hãi. Chàng nghe thấy tiếng gõ cửa.

– Ai vậy?

Tiếng của y tá ở ngoài cửa phòng:

– Trung úy chưa đi ngủ?

Dương trả lời:

– Tôi đi ngủ ngay bây giờ.

Chàng đi ra phía cửa, chỗ gần công tắc đèn. Chàng muốn ra ngoài hiên giữ cô y tá lại, nói chuyện và trêu chọc vài ba câu cho đỡ buồn. Nhưng những lúc như thế này, mà phải nhìn thấy mặt của cô y tá, lại chỉ thêm bực mình. Nghĩ vậy, chàng tắt đèn.

Gian phòng tối, bóng tối thật mênh mông. Dương nằm xuống giường, cố dỗ giấc ngủ. Và giấc ngủ êm đềm kéo đến, dù mấy ngày qua, Dương đã ngủ thật nhiều. Vụ chạy trốn ở trong rừng của Dương đã như một cuộc đổi gió, làm cho chàng ăn dược và ngủ được. Chỉ mười lăm phút sau là chàng không còn nghĩ gì để chìm vào giấc ngủ…

Phượng trở lại với Dương, khi ánh nắng bò tới nửa sân và cây trứng cá trước cửa phòng Dương nhận được tia nắng đầu tiên những cành lá ngọn. Vẫn chiếc áo đỏ ngày hôm qua. Mắt Phượng sáng hơn, đôi môi Phượng tươi hơn, như vừa qua một đêm thần tiên. Dương reo lên:

– Trông Phượng hôm nay như cô Bạch Tuyết!

– Bạch Tuyết nào vậy anh Dương?

– Cô Bạch Tuyết ngủ trong rừng sau mấy năm, rồi được hoàng tử đánh thức đậy. Bạch Tuyết chắc cũng chỉ đẹp và tươi như em hôm nay…

Phượng bĩu môi:

– Trí tưởng tượng của anh thật tốt, nhưng anh mà tưởng tượng thấy Bạch Tuyết của anh mặc áo đỏ thì hơi bết đấy nhé…

Dương cười. Ai cấm tưởng tượng thấy Bạch Tuyết mặc áo đỏ? Cũng không ai cấm những người con gái mang tên Phượng mặc áo trắng? Tên nàng là Bạch Tuyết, chỉ vì cái tên ấy kỷ niệm một mùa tuyết rơi. Cũng như Phượng, để kỷ niệm một mùa hè. Phượng có nhớ mùa hè đó không? Mùa hè đau thương cho cả một dân tộc này, để dẫn tới một cuộc di cư vĩ đại. Nhưng nhờ cuộc di cư ấy, anh mới gặp Phượng, để rồi mối tình của chúng ta mới nẩy nở, để rồi đây dệt nên trăng sao cho chuyện Phượng và Dương.

Dương mở rộng hết cánh cửa cho ánh sáng lùa vào căn phòng hẹp. Mắt Phượng thật long lanh. Dương muốn hôn lên đôi mắt ấy. Gặp cái nhìn của Dương, Phượng cúi mặt xuống. Lúc nầy, Dương thấy Phượng thât hiền, thật ngoan. Chàng thì thầm:

– Hạnh phúc của đời anh…

Phượng chớp mau đôi mắt:

– Lần này, Phượng không để cho anh lọt khỏi tay Phượng nữa. Không ai có thể dành được anh của Phượng...

– Anh tình nguyện như vậy.

Dương rủ Phượng xuống Câu Lạc Bộ để ăn sáng. Hai người bước ra ngoài nắng. Dương hít một hơi thật dài. Tuy gần tới chín giờ, nhưng không khí Bệnh viện vẫn còn sạch, lùa vào hai lá phổi. Phượng lại trở về với giọng nói chim hót:

– Chị Yến, chị Loan cũng định vào thăm anh. nhưng Phượng can quá. Nói rằng hôm nay anh về rồi… Chú Vinh bắt Phượng ngày mai phải mang anh về nhà trình điện. Vinh nhớ anh lắm. Bây giờ Vinh lớn rồi, nên anh có thể rủ Vinh đi uống rượu…

Dương mỉm cười nhớ tới ngày trước, có một lần cho Vinh uống hết một chai bia… Vinh say, đã biểu diễn nhiều trò rất ngoạn mục. Múa hát, chào kiểu sân khấu, hai tay cầm váy, nhún đầu gối xuống. Dương và Phượng đã cười đến chảy cả nước mắt. Dương hỏi:

– Hồi nầy, tửu lượng của Vinh đã khá chưa… Đã uống được mấy chai rồi?…

Phượng cũng nhớ chuyện cũ, trả lời:

– Không nhớ uống được mấy chai, nhưng không đến nỗi uống một chai đã múa hát đâu.

Đôi bước chân song song trên con đường bệnh viện. Vài bông hoa màu vàng, rụng rải rác trên lối đi, cánh hoa mềm còn đọng vài giọt sương mai. Mọi người nhìn cặp Phượng và Dương, và đều thấy họ đẹp đôi và chính họ cũng biết rằng, hai người rất đẹp đôi…

Vừa bước chân vào Câu Lạc Bộ, Phượng và Dương đã đụng đầu cô y tá. Hôm nay cô ta cởi bỏ tấm áo blouse trắng, khoác lên người một chiếc áo dài màu hoàng yến, trông cũng tha thướt, đáng được gọi là xinh. Thì ra người con gái Việt Nam, chỉ thích hợp với chiếc áo dài. Khi bỏ chiếc áo dài, khoác lên trên người một cái áo khác, người con gái Việt Nam đã như mất sự dịu dàng, mềm mại. Chàng thấy cô y tá nở một nụ cười:

– Giấy xuất viện của Trung úy đã làm rồi, chỉ còn chờ bác sĩ tới ký.

Dương hỏi lại:

– Thưa cô, mấy giờ bác sĩ mới tới?

– Không biết mấy giờ, Trung úy! Các ông bác sĩ ở đây ông nào cũng có phòng mạch ở ngoài phố, khám xong bệnh nhân có trả tiền, rồi mới tới lượt bệnh nhân không trả tiền.

Dương và Phượng cùng cười. Chàng mời cô y tá sang ngồi cùng bàn để ăn sáng. Tuy làm cái nghe phải thức đêm, nhưng cô y tá biết giữ gìn đôi mắt, nên mắt vẫn trong sáng, không để tỏ lộ ra sự mệt mỏi. Thấy Phượng đi với Dương, cô y tá e dè:

– Có phiền cho Trung úy không?…

– Dạ, không sao. Phưọng là vợ sắp cưới của tôi…

Cô ý tá ngồi xuống:

– Tôi tên là Thảo.

Phượng nói tiếp theo để làm cho không khí có vẻ thân mật hơn:

– Phượng cũng thích cái nghề của chị Thảo. Nghề này là một nghề cao đẹp. Người nào dù gần chết, mà được bàn tay chị Thảo săn sóc, bắt buộc phải ngồi bật đậy, đòi sống. Như anh Dương chẳng hạn. Nhờ có chị Thảo, mà anh Dương còn ngồi đây đấu hót.

Thảo nói lại một vài câu khiêm nhượng. Dương gọi các thứ cho chàng, cho Phượng, cho Thảo… Ngồi đây, những hình ảnh trốn chạy trong khu rừng hoang đã hoàn toàn phai mờ hết. Thành phố không thể là núi là rừng. Những người con gái thành phố, không giống như loài dã thú, nhìn bóng dáng con người, với đôi mắt lạ lùng bỡ ngỡ. Dương nhìn Phượng và Thảo khép nép uống từng hớp cà-phê nhỏ, và thấy như cả một bầu trời màu đen thu hẹp lại.

Màu sắc như mở lớn trước mắt Dương. Màu vàng áo dài của Thảo. Màu đỏ áo dài của Phượng, và sau lưng là đủ các màu xanh. Màu xanh áo bệnh viện. Màu xanh bóng lá cây, và cao hơn hết là màu xanh của cả khung trời..Thảo cũng nhìn hai người và lấy làm lạ, anh chàng quan hai tàu bay, ngày hôm qua nghịch ngợm là thế, mà ngày hôm nay thì hiền lành, ít nói.

– Có chị Phượng, hôm nay Trung úy hiền quá.

Phượng cải chính ngay:

– Không phải như thế đâu. Những anh chàng nầy vẫn thường như vậy đấy, chị Thảo ạ. Đang cười đùa nhưng rồi bất chợt nghĩ tới môt việc gì buồn, là y như biểu diễn ngay một bộ mặt táo bón. Nhiều lúc tức muốn chết…

Mới gặp lại nhau ngày hôm qua, thời gian gần lại nhau chưa tới hai mươi bốn giờ đồng hồ, mà Phượng như biết hết được tâm sự, tính tình của Dương. Người con gái nầy, đúng là một vật lạ của trời, có lẽ được sinh ra, để làm vợ, làm ngtrời yêu của những người như Dương. Chàng nhìn Phượng một cách đắm đuối như biết ơn, quên rằng ở bên cạnh hai người, còn có cô y tá Thảo.

Chàng cũng nhận thấy mình đúng như lời Phượng nói. Đang cười đấy nhưng rồi chợt một kỷ niệm nào đó chợt về, có thể phát khóc ngay lên được. Như nhìn thấy một ly cà-phê, giống như chiếc ly một thằng bạn thường dùng, mà bây giờ thằng bạn ấy đã chết. Loại đàn ông trẻ con, vốn được đàn bà rất thích. Dương giật mình khi nghe Phượng hỏi:

– Anh đang nghĩ gì vậy?…

Dương cười buồn:

– Anh đang nghĩ tới câu nói của cô Thảo. Vừa rồi, cô Thảo nói rằng, hôm nay trông anh hiền quá. Anh nghĩ tới ngôn ngữ của nước mình. Chữ “hiền” và chữ “hèn” chỉ khác nhau có một chữ “i” và một cái dấu mũ. Bây giờ thì anh hiền, nhưng rồi biết đâu, ít lâu nữa anh sẽ trở nên hèn…

Phượng biết rằng Dương vẫn bị ám ảnh bời câu chuyện về làm văn phòng. Phượng thấy hối hận về quyết định của mình hôm trước, khi trả lời với ông Thiếu Tá. Nhưng lúc đó, nhìn thấy Dương tiều tụy quá, đáng thương quá. Mà Phượng chỉ là một đứa con gái, lo lắng những hiểm nguy xảy tới cho người mình yêu. Những ông anh của Phượng, đều là những sĩ quan của đơn vị tác chiến, mỗi lần về nhà là các bà vợ đều mừng lo cuống quít….

Mẹ Phượng đã định lo cho ông anh cả về giữ một chân quận trưởng, hay một chức nào đó ở văn phòng, nhưng mà lo không nổi. Bởi vậy, khi ông Thiếu tá hỏi ý kiến Phượng, nàng đã gật đầu. Không ngờ chuyện đó đã làm cho Dương buồn từ hôm qua cho tới ngày nay.

– Anh chị tới bao giờ thì làm đám cưới?

Phượng trả lời:

– Chưa quyết định được, chị Thảo ạ. Mưu sự tại nhân nhưng thành sự tại… ngân. Phải có tiền thì mới có thể làm đám cưới, nhưng hiện nay, cả hai đứa đều không tiền. Chị Thảo có tiền cho mượn đi….

Thảo xua tay:

– Thảo thì làm gì có.

Dương xen vào câu chuyện:

– Tôi không bao giờ nghĩ tới chuyện mượn tiền để làm đám cưới. Cưới xong rồi trả nợ, mệt lắm, Lúc trả xong nợ đám cưới, là lại phải mượn tiền cho vợ đi đẻ. Cứ như thế tiếp nối nhau mãi, để rồi tới đời ông, đời cha, đời con cũng không bao giờ trả cho hết nợ. Phượng nhìn thấy cái gương trước mắt là Hậu và Hằng đấy. Đến bây giờ mà chúng nó vẫn rách tã ra, chỉ vì tiền đám cưới.

Phượng có vẻ không bằng lòng với câu nói của Dương. Vì Phượng chưa phải đụng đầu với thực tế. Chưa bị đời đá cho năm bảy phát phũ phàng. Phượng vẫn còn nhiều mộng, ảnh hưởng của những cuốn tiểu thuyết lãng mạn về tình ái. Dương thì khác hẳn. Nếu nói tới chuyện một mái nhà tranh, hai trái tim vàng thì hai trái tim vàng ấy phải là vàng y chính hiệu, lúc đói có thể mang ra tiệm vàng cầm bán, lấy tiền mua gạo được.

Cái mơ mộng và lãng mạn của Dương, chỉ là những lúc xuất thần, trong một vài ba phút của cuộc đời thôi. Còn sau đó, lại trở về cái thực tế của một ngày, ba bữa cơm và một giấc ngủ.

– Nói chuyện lâu thế này có mất nhiều thì giờ của cô Thảo không?…

Thảo lắc đầu:

– Không đâu, anh Dương ạ! Hôm nay Thảo xuống “ca” nên được nghỉ. Định về nhà đấy chứ. Nhưng ngồi đây, nói chuyện với anh, với chị Phượng vui hơn. Về nhà cũng chẳng làm gì, chỉ còn biết đi phố, diễu lên, diễu xuốug…

Cô y tá Thảo buột miệng gọi Dương bằng anh, một cách tự nhiên, không một chút ngượng ngập. Dương cũng thích như vậy. Cái tiếng Trung úy, chỉ là một cấp bậc của quân đội, không thích hợp với lối xưng hô trong một bàn ăn thân mật. Ngay từ lúc đầu Dương đã định yêu cầu cô y tá cất kỹ đi hai chữ Trung úy, nhưng sợ rằng quá thân mật đến sỗ sàng, nên lại thôi. Bây giờ Thảo tự động bỏ đi hai chữ đó, Dương rất mừng. Nhưng Thảo cũng chợt nhớ ra, vội vàng xin lỗi:

– Xin lỗi Trung úy, Thảo cứ tưởng chúng mình là bạn thân…

– Thì chúng mình là bạn thân rồi chứ còn gì nữa. Tôi muốn Thảo cứ giữ cái tiếng “anh” ấy mãi. Chúng tôi nhiều lúc cũng đùa cợt nham nhở thật, nhưng với bạn bè thì không khi nào dám có một tư tưởng sỗ sàng. Nếu Thảo coi tôi và Phượng là bạn, thì đó là một điều đáng mừng…

Phượng nói thêm:

– Và đám cưới của chúng tôi, bắt buộc phải có mặt chị Thảo nữa đấy.

Cô y tá Thảo cúi đầu một cách rất kiểu cách, đúng với truyền thống của một cô gái Bắc Kỳ:

– Xin lãnh ý!… Thảo rất lấy làm vinh hạnh.

Dương thấy lòng thật bâng khuâng. Chàng thấy rằng câu chuyện đám cưới, hình như lúc nào cũng ám ảnh Phượng. Quả thực như vậy.

Trong hơn năm năm trời, từ lúc giận nhau với Dương, nỗi mong nhớ khắc khoải làm cho Phượng đau khổ không ít. Phượng nghĩ, nếu Dương đã là chồng Phượng, thì không bao giờ lại xảy ra vụ giận dỗi, xa nhau với một thời gian quá lâu như thế. Phượng muốn cho đám cưới mau thành, để cho không ai có thể xen vào cuộc sống chồng vợ của Phượng và Dương.

Tiếng reo từ ngoài cửa:

– A, cái thằng khốn nạn, mầy ở đây sao?…

Nhìn ra phía cửa Câu Lạc Bộ, Dương thấy bóng đáng Tâm cao lớn, lừng lững, đứng che gần một khung cửa. Nỗi vui của chàng thật toàn vẹn. Tâm lừng khừng đi vào góc bàn trống:

– Cô y tá đây mà… Sao hôm nay lại có vẻ thân mật với bệnh nhân như thế nầy?…

Dương vội đỡ lời cho cả hai bên:

– Thảo bây giờ là bạn chúng mình. Hôm nay là ngày Thảo nghỉ, nên có rất nhiều thì giờ. Thằng Tâm thì chắc Thảo cũng biết rồi. Tôi cũng mong Thảo làm sao dạy dỗ cho nó vào khuôn, vào phép.

Tâm la lên:

– Đừng có vội ghép đôi chứ bạn?

Thảo ngượng ngập cúi mặt xuống. Làm y tá của một bệnh viện, ít khi nào xảy ra một vụ ngượng ngập đối với Thảo. Thân thể của đàn ông phơi bày ra trước Thảo quá nhiều. Nhưng sao câu nói của Tâm, Thảo thấy như có ngón tay mó vào da thịt nhột nhạt. Nàng ngước mặt lên, liếc mắt nhìn Tâm một thoáng rát nhanh.

Cũng như Dương, tên đàn ông này có nhiều nét thật con nít. Nếu không có bộ quân phục, anh chàng này có vẻ là một sinh viên, chưa thoát được ra ngoài chất trăng sao hoa bướm của tuổi học ưò. Cái vô tư của Tâm, như thoát ra ngoài miệng, lúc nào cũng có thể bất chợt mỉm cười. Vẫn bằng một dáng điệu vô tư ấy, Tâm nói thật phũ phàng:

– Khi tụi tôi muốn thề một câu gì, cô Thảo có biết chúng tôi thề như thế nào không? Chúng tôi thề, kẻ nào nói láo, nói dối, kẻ đó sẽ phải hôn tay bà mụ. Tay bà mụ, vì làm nghề đỡ đẻ nên dơ lắm. Tay y tá, chắc chỉ sạch hơn tay bà mụ có một chút xíu. Hôn tay cô y tá, chắc cũng gần khổ sở bằng hôn tay bà mụ.

Thảo nguýt Tâm một phát:

– Đâu có dễ được bàn tay cô y tá mà hôn…

Câu chuyện giữa Tâm và Thảo như thế cũng tạm gọi là quá đủ tồi. Dương biết rằng cứ để cái nham nhở của thằng Tâm tiếp tục, chắc sẽ xẩy ra màn cãi vã nhau không đẹp. Bởi vậy chàng lảng sang chuyện khác:

– Chương trình của buổi trưa ngày hôm nay ra sao đây? Ăn cơm ở nhà mầy chứ…

Tâm reo lên:

– Cái đó bắt buộc rồi. Nhưng mầy đã có phép xuất viện hay chưa?…

Thảo mời Dương lên phòng khám bệnh. Lúc này là mười giờ, chắc bác sĩ cũng đã tới rồi. Sức khỏe Dương thì nhìn bề ngoài không có điều gì đáng chê, nhưng dù sao cũng phải khám lại. Cũng vẫn bộ đồ xanh bệnh viện, Dương đi theo Thảo. Trong Câu Lạc Bộ còn lại có Tâm và Phượng.

Tâm hỏi Phượng:

– Đã quen thân với nàng y tá rồi à?…

Phượng cau mặt trả lời:

– Anh Tâm kỳ quá! Chị Thảo là một người tốt. Cái mồm, cái miệng anh Tâm thật khó thương.

– Thì đâu có bằng được cái miệng thằng Dương.

Sau câu nói đó, Tâm cười vang. Mấy ngày nay vì về đoàn tụ với gia đình, không bị cha mẹ mắng về chuyện bỏ nhà đi lính, Tâm vui nhiều lắm. Cái vui của Tâm nhiều lức quá ồn ào, làm mọi người khó chịu, nhưng chẳng ai lại nỡ trách Tâm.

Khi Duơng trở về Câu Lạc Bộ thì Tâm đã uống đến ly cà-phê thứ ba. Còn Phượng thì gọi thêm một chai nước ngọt nữa. Dương trở về một mình. Cô y tá Thảo có lẽ đã trở về nhà. Tâm nói bằng giọng tiếc rẻ:

– Tao định mời cô ta về nhà ăn cơm rồi rủ đi chơi, mà mầy không giữ lại cho tao. Thật uổng quá.

Dương cau mặt:

– Chỉ tại cái mồm miệng của mầy. Hồi nãy mầy nói cái gì để cho Thảo giận.

– Tao có nói gì đâu.

Sự tức bực của Dương hay sự tiếc rẻ bâng khuâng của Tâm chỉ như gió thoảng. Những người đó không có thời gian để buồn, để thương nhớ lâu. Đó cũng là một luật lệ. Cuộc đời mà cứ để cho buồn chế ngự, thì kể như hạ màn mất rồi. Họ đã có một luật lệ riê